Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

53. Một thời (Thiện Căn Phạm Hồng Sáu)

17/06/201408:36(Xem: 16122)
53. Một thời (Thiện Căn Phạm Hồng Sáu)

 (Để nhớ đến vị Thầy đầu tiên nơi đất mới)

  Thiện Căn Phạm Hồng Sáu

 

Tôi rời miền Nam Việt Nam đang giữa mùa Đông năm 1978. Những đám mây đen của buổi chiều ngày 19 tháng 11 cộng với những cơn gió Bắc thổi cực mạnh, đường sá, phố xá vắng ngắt tiêu điều. cảnh buồn mà lòng người lại càng buồn hơn, khi phải ngậm ngùi nhỏ lệ để bỏ lại quê hương, mất tất cả những ngày xanh của tuổi trẻ hứa hẹn cho tương lai và cả cho những người già định yên thân mồ mả… Đời sẽ ra sao, biết trôi dạt về đâu !?.... Bão tố hãi hùng, thân chìm dưới đáy biển ?!.., bất chấp sự không may nếu gặp phải những con hung ngư xé xác, banh thây hay sự kinh hoàng lâm vào tay thảo khấu ?!... Tất cả và tất cả đã bỏ lại sau lưng để đổi lấy „Quyền làm người“ và hai chữ „Tự do“ sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, miền Nam Việt Nam lọt vào tay Cộng sản miền Bắc.

 Những lênh đênh vất vả, hiểm nguy trong cuộc hành trình đầy đau thương, nghiệt ngã nơi biển cả bao la với sóng gào gió thét, rồi cũng nhờ Phật Trời gia hộ nên cha con chúng tôi cùng những đồng bào, đồng hương đã vượt qua để tới được đảo Kochang, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi bờ biển Thái Lan. Và cũng nhờ lòng nhân đạo của nước Cộng Hòa Liên Bang Tây Đức lúc bấy giờ do ngài Thủ Tướng Helmut Schmitdt (SPD) và đặc biệt là ngài Ernst Albercht (CDU) Thủ Hiến Tiểu Bang Niedersachsen đã hứa khả nhận tất cả số người trên tàu của chúng tôi vào định cư ở Tiểu Bang do ngài lãnh đạo, nhờ vậy nên chính quyền Thái Lan không làm khó dễ, cho chúng tôi được phép lên bờ và tạm trú tại trại tỵ nạn Songkhla, một khu trại trước đây dùng làm trung tâm huấn luyện Biệt kích Thái nằm dọc theo triền núi đã bỏ hoang rất lâu và sau đó 10 ngày chúng tôi rời trại nầy để được „Ngày đi xứ lạ“ nhanh hơn so với những trại tỵ nạn các nơi khác.

Sau cơn mưa mùa buổi sáng ngày 12 tháng 12 năm 1978, lúc 09 giờ sáng, trước khi được thông báo có phi cơ của chính phủ Tây Đức sẽ hạ cánh xuống phi trường Hadyai tại tỉnh Songkhla để rước chúng tôi, Ban Quản Trại sắp xếp chia số người chúng tôi ra đi làm hai đợt, đợt đầu đi trước đợt sau một ngày và đoàn xe Bus của trại đã đến chờ chúng tôi ngoài cổng trại để chở bà con đi đợt đầu của chúng tôi ra phi trường. Tôi và đứa con trai của tôi được đi trong đợt đầu đó. (Phần nầy tôi đã viết chi tiết trong cuốn Nhật ký Hải hành "Một chuyến đi“ nên ở đây chỉ xin tóm tắt).

Đối với bà con đồng hương và tôi nỗi vui mừng có đến, nhưng trong thâm tâm không khỏi những ưu tư, lo lắng dạt dào… Bởi vì từ đây phải từ giã châu Á và quê hương Việt Nam thân thương của mình để chịu sự xa cách nghìn trùng, bỏ lại sau lưng những cao sơn hùng vĩ của ông cha đứng lặng lờ khi bóng chiều buông xuống và những dòng sông xanh nên thơ của bà mẹ nước chảy hiền hòa.

Những giọt nước mắt của bà con chúng tôi tự dưng rơi xuống trong ngậm ngùi và nghẹn ngào thốt lên thành tiếng than ai oán: - Thôi ta đã xa hết rồi !... Thương lắm bầy em ra đón bánh ven sông mỗi khi tan chợ có mẹ theo đò về, nhớ những ngày vui năm nào, khi Tết đến, hội hè, đình đám… Bữa sân trường mùa hè phượng nở, ve kêu… Tất cả và tất cả, nay đã nằm lại trong mây khói hắt hiu xa mờ.

Những nuối tiếc, buồn vui ngây ngất nhớ đến những chuyện thuở nào rồi cũng mau qua, khi tất cả bà con chúng tôi đã lên phi cơ và ngồi yên trong lòng của nó để chờ giờ cất cánh.

 Phi cơ đã rời phi đạo, bay trong một thời gian, tính ra cũng được khá lâu, tôi nhìn ra ngoài không gian bầu trời hãy còn tối và cảm thấy cái lạnh xâm lấn vào người, tôi đưa mắt nhìn xuống đất thấy ánh sáng lấp lánh lung linh muôn màu như một bầu trời sao đang xuất hiện. Bất chợt thấy cô chiêu đãi viên hàng không đi chậm rãi đến quan sát từng hàng ghế, bảo mọi người phải thắt dây an toàn nơi bụng và phi cơ bắt đầu giảm tốc độ, bay đảo quanh mấy vòng rồi từ từ đáp xuống đất.

Phi trường Hannover, cái địa danh ấy từ quê nhà tôi chưa từng nghe ai nói đến, tôi chỉ nghe nói đến Bá Linh (Berlin) hay Bonn là thủ phủ cũ, mới của Cộng Hòa Liên Bang Tây Đức, (CHLB/TĐ) nhưng rồi tôi cũng tự nhủ lòng mình: – Thôi thì đến đâu cũng được, miễn sao ở được đất nước tự do và nơi đó cho mình cùng tất cả bà con đồng hương của mình có cuộc sống ấm no, nhân bản là đủ rồi.

Phi cơ đáp xuống phi trường Hannover và chuyển hướng chạy đến đậu vào chỗ dành riêng cho hành khách xuống, trong khi mọi người đang ngồi để chờ sự cho phép của vị Chỉ huy phi hành đoàn (Capitan) cho xuống, người đầu tiên tôi gặp là Bác sĩ Nguyễn Xuân Trang, ông ta có khổ người trung trung, ốm ốm, nước da hơi trắng, mặt mày sáng sủa, tướng bộ thông minh và còn rất trẻ, ông ta đến chào mừng và thăm hỏi bà con mới đến. Tôi chưa hiểu được ông ta về chính kiến, chỉ biết rằng ông là Bác sĩ có nhiệm vụ chăm lo sức khỏe cho bà con Việt Nam tỵ nạn. Tự nhiên trong lòng tôi dấy lên niềm vui mừng và sự hãnh diện, bởi lẽ ở đất nước nầy vẫn có người Việt Nam của mình làm Bác sĩ. Sẵn dịp ông đến chỗ tôi đang ngồi, tôi gióng tiếng hỏi thăm chút đỉnh về ông, mới biết rằng ông là Sinh viên đi du học trong thời chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), người miền Nam và quê quán ở Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

Người thứ nhì là một vị Sư rất trẻ cũng người Việt Nam, gọn ghẽ trong bộ tràng phục màu lam, người miền Trung nói giọng Quảng Nam đến từng hàng ghế, dừng lại chào mừng và hỏi thăm sức khỏe bà con. Bỗng dưng tôi cảm thấy thân tâm mình nhẹ nhỏm hẵn lên, bởi tôi nghĩ rằng mình có duyên may nên đến nơi nầy vẫn được gần Tam Bảo. Sau nầy tôi mới biết đó là Đại Đức Thích Như Điển, Thầy ấy cũng là một sinh viên được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) thời VNCH gởi đi du học tại Nhật Bản, qua Tây Đức thăm bạn là anh Văn Công Trâm (lúc đó cũng là sinh viên đang đi du học, sau ra trường thành Bác sĩ) người cùng quê theo lời mời, rồi sẵn dịp có nhiều bà con Việt Nam đến tỵ nạn, Thầy xin tỵ nạn ở lại đây luôn để lo hướng dẫn và chăm sóc đời sống tinh thần cho bà con của mình.

Nói về tôi, tràng phục màu lam hay màu nâu sồng đó đã rất quen thân đối với tôi từ khi tôi còn thơ ấu và ngay cả lúc lớn lên, trong cuộc đời hải nghiệp bềnh bồng trên sông nước tôi thường gặp mỗi khi có dịp đi lễ Chùa, mỗi khi đến ngày lễ Phật, có khi ngay cả trên đường quê, đường phố hay những lúc giang hành trên những dòng sông nơi quê hương, nhưng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đời, đạo của tôi bắt đầu lặng lẽ, sống lao lung trong cảnh cải tạo, đọa đày ở những nơi nước mặn phèn chua, nơi núi rừng hoang dã và cả quyền công dân của mình cũng bị tước đọat, muốn đi đâu phải có giấy phép lận theo trong người nên cảnh chùa chiền tôi không còn lui, tới thường xuyên như trước nữa. Không phải trong lòng tôi đã mất niềm tin, nhưng tôi muốn tránh sự liên lụy hay sự không may có thể xảy đến cho chính bản thân mình và gây phiền toái cho những người xuất gia đang tu hành nơi cửa Phật. Cộng Sản đã nói: „ Tôn giáo là bùa mê, thuốc lú cần phải tiêu trừ“ cũng như thời Cộng sản ở xứ Nga (tức Liên Xô bây giờ) chỉ riêng về tôn giáo, Vladmir Lenin đã biểu lộ một thái độ thẳng tay không khoan nhượng và hết sức độc ác. Chính Lenin là người khởi xướng bốn chiến dịch rộng lớn nhằm chống Chính Thống Giáo (Orthodox) một tôn giáo có tầm quan trọng bậc nhất ở xứ Nga.

- Chiến dịch đầu tiên từ tháng 11 năm 1917 đến năm 1919 : bắt đầu đóng cửa các Tu viện và một số nhà Thờ, tịch thu tài sản và tước quyền pháp nhân của Giáo hội.

- Chiến dịch thứ hai từ năm 1919 đến năm 1920: Khai quật thi hài các Thánh.

- Chiến dịch thứ ba từ cuối năm 1920. Chia rẽ Giáo hội Chính Thống Giáo, làm cho Giáo hội phân rẽ từ bên trong.

- Chiến dịch thứ tư: Từ đầu năm 1922: Cướp bóc hay nói theo từ ngữ của Lenin „ quét sạch“ tất cả các nhà thờ „giàu có“ đồng thời bắn chết với số lượng tối đa các nhà tu hành của Chính Thống Giáo.

(Tham khảo bài „Không có Thánh giá“ của Sử gia kiêm nhà báo nổi tiếng của Nga Atonoli Latyser đăng trên báo „Rossikaya Gazeta“ của Nga ngày 24.10.1929).

Chủ thuyết nầy của Vladmir Lenin đã được Cộng sản Việt Nam đánh giá trị cao và lấy nó làm cẩm nang thực hiện chính sách trị dân, đồng thời tôn thờ Lenin như một vị Tổ khai sáng, nên hiện nay ở miền Bắc Việt Nam có con suối đặt tên suối Lenin và một ngọn núi đặt tên Karl-Marx để ghi nhớ thâm ơn đồng thời kỷ niệm hai ông Tổ chủ thuyết Cộng sản của mình.

Trong buổi giao thời nơi đất khách, quê người xa lạ gặp được hai người nói trên đã cho tôi niềm vui mừng khó tả và cảm thấy mình có được hai sinh quan:

- Một người, người miền Nam ở Mỹ Tho cùng quê quán với vợ và một người ở miền Trung quê quán Quảng Nam cùng với mình. Lòng phấn khởi, tôi đứng dậy nắm chặt tay con tôi nối theo sau các đồng hương rời khỏi chỗ ngồi, đi dần đến cửa phi cơ để cùng họ đi xuống.

Sau thời khắc lễ nghi nghênh đón người mới đến của Đại diện Chính quyền Tiểu Bang Niedersachsen, nhân viên Caritas cùng với các anh chị em Sinh viên Việt Nam đang du học tại Tây Đức trong phòng tiếp tân ở phi trường, rồi chúng tôi rời nơi đó lên xe Bus để họ chở về cho tạm trú trại tỵ nạn Friedland (Đất Lành) gần thành phố Göttingen thuộc miền Trung nước Đức, mọi người trong lòng rất hân hoan nhưng cũng không khỏi những lo âu, buồn tủi cho số phận của mình.

Thắm thoát vào giữa tháng hai năm 1979, tính ra chúng tôi rời xa quê hương chưa đầy ba tháng, nay Tết Mậu Ngọ đến. Ngoài trời tuyết đã bớt rơi, đường sá thấy trống trải hơn, không còn tuyết phủ ngập như những ngày qua, nhưng cái lạnh vẫn còn lưu lại khắp đó đây trong không gian và trong cảnh vật.

Chiều hôm qua, trước một ngày sẽ đến đêm Giao thừa, có Đại Đức Thích Như Điển đến trại Đất Lành thăm viếng và làm lễ Cầu an cho bà con trong trại. Phòng ăn rộng rãi dành cho người tỵ nạn của trại được dọn dẹp sạch sẽ, bàn ghế chất lại gọn gàn để vào một nơi khác. Một bàn Phật được thiết trí trang nghiêm đặt ở trước bức tường nơi cuối phòng ăn, từ cửa chánh nhìn vào. Trên chiếc bàn trải khăn màu vàng, giữa bàn đặt tượng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và phía sau có tượng Phật A Di Đà, trên bàn phía trước các tượng Phật đặt lư cắm nhang, hai bên có đèn nhiều màu sắc… Tuy đơn sơ, giản dị, nhưng đối với bà con chúng tôi mới đến xứ người xa lạ nầy thì đó cũng đủ để cho tâm tư mình lắng xuống hướng về với Phật, nhớ quê hương trong buổi xuân về.

Với bộ y vàng của Thầy khi mặc hành lễ, khiến bà con chúng tôi ai nấy có cảm tưởng như đang ở trên quê hương, đất Tổ của mình và năm mới đi Chùa lễ Phật. Tiếng mõ, hồi chuông trầm bổng cảnh tỉnh hồn mê, tan biến ưu tư, phiền muộn, xoa diệu những lao đao vất vả trong các ngày hành trình. Bà con chúng tôi ai nấy đứng nghiêm trang chấp tay nguyện cầu trước Tam Bảo, xin cho quê hương được sớm thanh bình, người thân còn ở lại được vạn sự bình an, hạnh phúc và ngày trở về đất Mẹ mau chóng đến.

Tôi thủ chuông, anh Nha sĩ Khải (*) thủ mõ, mặc dù đã lâu lắm gặp những chướng duyên của thời thế, tôi và anh ít khi có dịp được làm công việc chuông, mõ nầy ở chùa, tuy vậy chúng tôi cũng không đến nỗi vấp phải nhiều nhịp lỗi. 

Buổi lễ Phật cầu an chấm dứt, Thầy đứng dậy chắp tay xây mặt lại nói lời chúc mừng năm mới đến cho bà con, nhắc lại những sinh họat rộn rịp vào dịp Tết ở quê hương mình, khiến bà con ai nấy đứng lặng yên vừa mừng vừa tủi thân rơi lệ. Bà con chúng tôi khóc không phải khóc vì hận thù mà khóc vì đã bỏ lại quê hương, mang theo vô vàn thương nhớ với bao nỗi ai oán, nghiệt ngã của cuộc đổi đời.

Lúc bấy giờ Thầy Như Điển là vị tu sĩ Phật Giáo Việt Nam trẻ tuổi duy nhất có mặt tại Tây Đức nầy, là người cứu cánh tinh thần cho những người đạo giáo có một không hai của chúng tôi, nên khi tan lễ Thầy ra về, bà con chúng tôi ai nấy đứng trông theo, luyến tiếc những giây phút có mặt Thầy ở đây sao mà ấm cúng quá !...

 

Để kỷ niệm lần đầu tới trại Đất Lành nhân mùa Tết đến, Thầy đã viết tặng cho tôi hai câu đối chữ Nho, mãi cho đến bây giờ tôi vẫn còn giữ lại, để nghiền ngẫm về một cái Tết tha phương một thời:

 

Xuân đáo bách hoa khai ư hải ngoại,

Thu lai thiên diệp mãn cố hương tha!...

 

Dịch ra Việt ngữ:

 

Xuân đến đất người hoa hé nở,

Thu về quê mẹ lá vàng rơi !...

 

 Là ký ức, là thời gian của tôi nơi trại tỵ nạn Đất Lành (Friedland) năm Mậu Ngọ 1979.

 

Willich tháng 05 năm 2014

Thiện Căn Phạm hồng Sáu

 

 (*) Nha sĩ Trần Đình Khải là Thiếu Tá Quân Y sĩ QLVNCH, tại Bệnh viện 3 Dã chiến Mỹ Tho. Ngoài ra anh cũng có phòng mạch riêng tại TP đó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2016(Xem: 12433)
Lễ Khánh Thành Chùa Bồ Đề Phật Quốc (do TT Thích Huyền Châu trụ trì) tại Santa Ana, Cali, Hoa Kỳ, Sunday 27-12-2015, có 120 Tăng Ni và 400 Đồng Hương Phật tử tham dự
11/12/2015(Xem: 9282)
" Từ ngày 7 đến ngày 11 tháng 12 năm 2015 Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển đã có mặt tại Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ để đãnh lễ nơi thành đạo của Đức Thế Tôn, gặp gỡ và giảng pháp cho Phái Đòan hành hương của TT Thích Hạnh Nguyện tại Trung Tâm Tu Học Viên Giác, đón tiếp cái Phái Đón Phật Tử Âu Mỹ, Nga và làm từ thiện cho người nghèo cũng như phát sách vở cho học sinh tại trường Pragna Vihara).
03/12/2015(Xem: 9693)
Nguyện vọng của Cố Hòa Thượng Ân Sư của chúng tôi, vị khai sáng ra 2 chùa Bagneux và Evry là muốn tạo dựng chùa Khánh Anh - Evry thành một nơi hoằng pháp rộng lớn chung cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hải ngoại, nhất là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu nói chung và tại Pháp cũng như chùa Khánh Anh nói riêng. Ngôi chùa được thành hình từ mọi công sức đóng góp, sự gia lực, hộ niệm của tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni và phật tử khắp nơi với những đường nét đặc thù của một ngôi Phạm Vũ Phật Giáo A Đông. Nay ngôi phạm vũ Khánh Anh - Evry đã hoàn tất. Chư Tôn Trưởng Lão Cố Vấn Lãnh Đạo Tối Cao của chùa Khánh Anh quyết định đẩy mạnh mọi sinh hoạt ngoài chùa Khánh Anh Evry bằng cách thỉnh chư hương linh thờ tại chùa Bagneux ra Evry để thờ phượng cho rộng rãi hơn để từ từ khởi xướng mọi sinh hoạt ngoài ấy.
13/10/2015(Xem: 10294)
Chùa An Lạc, ngôi chùa danh tiếng tại thành phố San Jose được Ni trưởng Thích Nữ Nguyên Thanh thành lập vào năm 1994. Chùa đã được trùng tu nhiều lần vào các năm 2003, 2011, 2012, và chính thức tổ chức Đại lễ lạc thành vào các ngày 09, 10 và 11 tháng 10 năm 2015 (nhằm ngày 27, 28 và 29 tháng 8 năm Ất Mùi). Buổi lễ chính thức diễn ra vào lúc 10g30 ngày 11 tháng 10 năm 2015. Đông đảo chư Tôn đức Tăng, Ni và Phật tử ở thành phố San Jose cùng nhiều thành phố ở các tiểu bang từ Tây sang Đông của Hoa Kỳ đến dự.
08/10/2015(Xem: 7033)
Trong năm, chúng ta có 3 ngày vía của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là 19/2, 19/6 và 19/9 âm lịch. Sắp tới đây, vào 2 ngày : thứ bảy 31/10/2015 (tức đúng ngày 19/9 năm Ất Mùi), và chủ nhật 1/11/2015 tại chùa Khánh Anh (Bagneux) sẽ thiết lập Đàn Tràng Quan Thế Âm cúng dường lên Thập Phương Thường Trú Tam Bảo nhân ngày Lễ Vía Kỷ Niệm Đức Bồ Tát Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm để hồi hướng đến khắp Pháp Giới Chúng Sanh, cầu nguyện phong điều vũ thuận, quốc thái dân an và nhất là hồi hướng công đức cúng dường lên Giác Linh Cố Ân Sư thượng Minh hạ Tâm. Xin thông báo và kính mời chư Phật Tử tùy nghi tham dự, thời khóa Đàn Tràng như dưới đây.
14/07/2015(Xem: 22098)
Chùa Trúc Lâm do Sa Môn Thích Tâm Minh, một hậu duệ truyền thừa Trúc Lâm Thiền phái tại Huế. Sau khi vượt biển và định cư tại Úc, tạo lập từ năm 1993 tại thành phố Sydney, Úc Đại Lợi. Sau hai đợt di dời vì hoàn cảnh thuê nhà làm Chùa, năm 1995 di chuyển đế tụ điểm thứ ba cho tới nay. Hiện toạ lạc tại só 13 Winspear Ave, Bankstown, NSW 2200. Thời điểm 1995-1997 suốt hai năm trường, Chùa đã trải qua bao cuộc tang thương nghiệt ngã bởi nhân tình thế thái, lòng người khó lường vì từ hai chữ Danh và Lợi (đại nạn lần thứ nhất).
28/05/2015(Xem: 9584)
Trong thời gian hơn 10 năm qua, Đ.Đ Thích Hạnh Tuệ đã giúp điều hành và phát triển tốt đẹp Trung tâm Viên Giác và nay đến thời kỳ mãn nhiệm, trở về lại Đức tu học. Tiếp nhận trở lại và điều hành sinh hoạt của Trung tâm Viên Giác kể từ tháng 9 năm 2015 là T.T Thích Hạnh Nguyện, người sáng lập và xây dựng Trung tâm Tu học Viên Giác từ buổi ban đầu năm 2000. T.T đã đề cử Đ.Đ Thích Thông Trí từ chùa Cực Lạc, Thái Lan đến điều hành mọi sinh hoạt của Trung tâm Viên Giác, Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Mọi việc đặt phòng tại Trung tâm Viên Giác từ trước đến nay với Đ.Đ Thích Hạnh Tuệ không còn hiệu lực. Mọi liên lạc và đặt phòng mới cho năm 2015, năm 2016 và về sau, xin chư Tôn đức, quý Phật tử gởi email về địa chỉ email mới: trungtamviengiac@gmail.com . Facebook.com/trungtamviengiac
11/04/2015(Xem: 11059)
Sự hiện diện của người Việt tại Úc, sau thảm trạng đau buồn tại Việt Nam, có phần khác biệt so với các cộng đồng sắc tộc văn hoá đa nguyên khác ở Úc Châu. Sự khác biệt đó là do chính sách định cư người tị nạn của chính phủ, khiến cộng đồng người Việt gia tăng gấp 16 lần trong 5 năm đầu sau 1975, và tăng 62 lần trong vòng hai thập niên kế tiếp. Trên 50% người Việt là Phật tử, nên sự gia tăng nhân số nhanh chóng này đã tạo thử thách lớn cho năm bảy vị tăng ni người Việt mở đường hoằng Pháp trong đầu thập kỷ 1980 vừa xây dựng tự viện vừa hướng dẫn tâm linh cho Phật tử khắp Úc Châu. Tăng ni đã phải vượt qua những chướng ngại thế tục cũng như những biến đổi và thách đố về mặt tổ chức và thành phần dân số. Qua tiến trình này, tập thể tăng ni người Việt đã có những đóng góp đáng kể cho di sản văn hóa vật thể và phi vật thể Úc Châu.
09/04/2015(Xem: 8404)
Khi nói về Đạo Phật, trước tiên chúng ta liền nghĩ đến biểu tượng hình ảnh một ngôi chùa, pháp tháp tôn thờ Đức Phật Bổn Sư, Chư Bồ Tát, Chư Thánh Tổ, và cũng là nơi tu học hành trì pháp Giới-Định-Tuệ cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia trong giáo nghĩa của Phật Giáo nói chung, và Phật Giáo Việt Nam nói riêng, với truyền thống :
16/03/2015(Xem: 13490)
Các vị tăng sĩ tại Tu Viện Thupten Shedrup Ling ở Myers Flat bàng hoàng sửng sốt sau khi chánh điện mới xây đã bị tiêu hủy trong trận hỏa hoạn vào Thứ Sáu vừa qua (13-3-2015). Vụ hỏa hoạn đã thiêu rụi tài sản ước tính khoảng $145, 000 và tòa nhà vẫn chưa được đóng bảo hiểm. Một gia đình người Nepal đã vô ý gây nên vụ hỏa hoạn này, họ đến đây (phía bắc Bendigo) từ thành phố Melbourne (cách 2 tiếng lái xe) để cầu siêu cho Thân phụ của họ. Gia đình đã thắp rất nhiều đèn cầy nhỏ ở trên bàn thờ trong buổi lễ và đã không tắt nến trước khi ra về.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567