Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược sử Chùa Quang Minh

05/05/201120:12(Xem: 9946)
Lược sử Chùa Quang Minh


Chua Quang Minh


Lời Giao Cảm

Thói thường, khi bước chân vào vườn cây ăn trái, người ta chỉ biết thưởng thức thơm ngon của những loại trái cây, mà ít có ai nghĩ đến công lao cực khổ đổ biết bao mồ hôi khó nhọc của người làm vườn. Cũng như lúc khát nước khô cổ họng, người ta uống vào một ly nước lạnh trong mát thật đã khát, và rồi tấm tắc khen ly nước ngon quá, nhưng ít có ai nghĩ đến công lao khổ sở của người đào giếng, hay người tạo ra cho mình có nước để uống.

Chính vì hiểu được cái tâm lý thường tình đó, nên các bậc Cổ Đức thường khuyên răn người ta bằng những câu ca dao hay tục ngữ ngắn gọn:


Ăn trái nhớ kẻ trồng cây

Uống nước nhớ người đào giếng.

Hoặc:

Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Nào ai vun quén cho mày mày ăn
Ta đừng phụ nghĩa vong ân
Uống nơi nước lã nhớ chừng nguồn kia.

Lời khuyên dạy này, như ngầm ý nhắc nhở người ta khi thụ hưởng cái quả báo tốt đẹp, thì phải nhớ đến cái nguyên nhân công lao của người làm ra. Nói rõ hơn là phải nhớ đến cội nguồn. Như khi ăn thức ăn, người ta chỉ biết khen chê thức ăn ngon dở, mà ít có ai nghĩ đến cái công lao của người làm bếp. Nếu không có người trồng cây, đào giếng, nấu bếp, thì thử hỏi mình có được thưởng thức thụ hưởng những thứ đó không?

Nghiền ngẫm kỹ lời dạy trên, ta thấy thật là thấm thía chí lý của đạo làm người. Tri ân và báo ân đó là hai đức tính nhân bản đạo đức của con người. Vì là con người, tất nhiên, ta phải biết cân nhắc nghĩ đến cái ân nghĩa của người tạo dựng ra. Đó là cung cách hành xử tối thiểu của đạo làm người. Người xưa rất coi trọng ân nghĩa và thành tín. Bởi thế, nên có câu nói: "ăn cây nào rào cây nấy". Nếu chỉ biết ăn mà không biết rào, thì đó là người không có lương tâm tình nghĩa đạo đức. Chẳng những không rào, mà có đôi khi người ta lại còn nhẫn tâm phá hoại đào xới bứng gốc luôn.

Nói thế, để chúng ta thấy rằng, ngôi chùa Quang Minh hôm nay, sở dĩ được thành tựu khang trang vẻ vang đại quy mô như thế này, là đã có biết bao công sức và tài vật của mọi người đóng góp vào. Đó là một thành quả quá lớn lao mà có thể nói, gần 30 năm

qua, dưới sự chỉ đạo hướng dẫn trực tiếp của Hòa Thượng Trưởng lão Thích Phước Huệ và của chư Tôn Đức Tăng Ni, cũng như sự tham gia tích cực đóng góp công sức và tài vật của quý đồng hương Phật tử. Một sự đóng góp bằng tất cả tấm lòng tha thiết chân thành. Sự đóng góp thành tựu đó, tất nhiên, là phải trải qua một quá trình dài lâu.

Để có một cái nhìn khái quát, từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc hoàn thành, những diễn biến trong tiến trình xây dựng từng bước khó khăn hình thành của ngôi chùa ra sao, đó là điều mà chúng tôi cố gắng ghi lại đôi nét về ngôi chùa lịch sử trọng đại này. Sở dĩ chúng tôi gọi ngôi chùa Quang Minh là một ngôi chùa lịch sử trọng đại, là bởi vì nó là một ngôi chùa Phật giáo Việt Nam đầu tiên có mặt dài lâu nhứt ở Úc. Nó có mặt ngay từ buổi đầu, khi có mặt người Việt tỵ nạn ly hương ở đây.

Sự ghi chép này, chúng tôi chỉ ghi lại những sự việc xảy ra một cách khách quan và dựa vào ba nguyên tắc cơ bản:

Thứ nhứt, là chúng tôi ghi lại bằng trí nhớ qua những gì mà chúng tôi đã trực tiếp tham gia đóng góp cộng sự. Đó là một thiện duyên, mà chúng tôi đã có cơ hội đảm nhận một vài trọng trách trong Giáo Hội bắt đầu trực tiếp sinh hoạt từ năm 1985. Chúng tôi và những người trong Ban Trị Sự Hội cũng như quý vị trong Ban kiến Thiết đã tích cực hoạt động cho Giáo Hội dưới sự lãnh đạo của Hòa Thượng Giáo Hội Trưởng Thích Phước Huệ.

Vì trải qua thời gian dài hoạt động cho Hội và Chùa, nên chúng tôi biết được phần nào qua những việc làm có liên quan mật thiết giữa Giáo Hội và công việc xây dựng chùa. Do đó, mà chúng tôi cố gắng nhớ lại ghi vào đây để cho mọi người biết qua, nhứt là đối với các thế hệ trẻ lớn lên ở xứ này. Trong khi moi trí nhớ ghi lại, xét thấy có điểm nào mà chúng tôi còn nghi ngờ chưa vững chắc, thì chúng tôi trực tiếp tham vấn những người đồng sự trong cuộc trước kia hoặc hiện tại. Như vậy, thì sự ghi chép của chúng tôi sẽ có sự kiểm chứng bảo đảm vững chắc hơn.

Thứ hai, ở giai đoạn đầu, khi chúng tôi chưa tham gia hoạt động qua những công tác Phật sự, thì chúng tôi hỏi lại những vị đã từng tham gia trực tiếp. Nhất là đối với Hòa Thượng Thích Phước Huệ cũng như một số quý đạo hữu đã có mặt hoạt động ngay từ buổi đầu, khi Hòa Thượng chưa đặt chân đến Úc. Đây là những vị Phật tử thuần thành cố cựu và rất có uy tín để chúng tôi tham khảo tìm hiểu. Đồng thời, trong khi ghi lại, nếu có những điều gì còn nghi ngờ chưa nắm vững rõ ràng, thì chúng tôi sẽ tìm hiểu tra cứu thêm với những người trong cuộc. Do đó, nên chúng tôi nắm vững vấn đề hơn.

Thứ ba, là chúng tôi căn cứ vào những văn kiện hồ sơ lưu trữ. Đây là những văn kiện khả chứng trong sự tương quan giao lưu hành chánh giữa Giáo Hội và các cơ quan chánh quyền sở tại. Nhất là những văn kiện chung quanh trong vấn đề xây cất. Và những văn kiện nào quan trọng, chúng tôi cho in vào đây để làm chứng cứ minh bạch. Ngoài ra, chúng tôi còn sưu tầm thêm một số hình ảnh, xét thấy những đoạn nào liên quan cần có hình ảnh chứng minh, thì chúng tôi cũng để hình ảnh vào đây để chứng thực. Đại khái, đó là ba thể thức mà chúng tôi y cứ vào trong khi ghi chép.

Về phần đóng góp công lao vào công cuộc xây dựng chung này, như trên chúng tôi đã thưa, tất cả Tăng Ni và quý đồng hương Phật tử ít nhiều gì cũng có dự phần đóng góp, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù công sức hay tiền của, mọi người đều thành tâm thiện ý đóng góp chung. Tuy nhiên, có điều, chúng tôi cũng xin thưa rõ ra đây là, trong tập sách nhỏ này, chúng tôi chỉ xin ghi lại vài nét chung chung những Tăng Ni và Phật tử đã từng tham gia trực tiếp điều hành công việc của Giáo Hội. Vì ngôi chùa Quang Minh có ra là nhờ có những người tích cực làm việc trong Giáo Hội cũng như trong Ban Kiến Thiết (BKT). Vì vậy, khi đề cập đến ngôi chùa, là không thể thiếu sự đóng góp công lao trực tiếp của những vị này. Do đó, nên chúng tôi chỉ nêu ra những vị trong hai ban này và một vài vị khác đã được quý thầy giao phó nhiệm vụ đặc biệt là lo công quả trực tiếp cho chùa mà thôi.

Dĩ nhiên, chúng tôi chỉ ghi sơ lược đại khái, chớ không thể nào ghi hết những chi tiết được. Nhất là đối với những vị đã phát tâm hỷ cúng tài vật cho chùa, nếu phải liệt kê danh sách thì rất là nhiều. Ở đây, chúng tôi không thể nào ghi hết được, vì không phải trách vụ của chúng tôi. Hơn nữa, điều nầy không phải là trọng tâm của quyển sách nhắm tới. Việc nầy, xin để cho chùa ghi nhận và nêu danh sách công đức phát tâm hỷ cúng của quý vị. Kính mong quý vị niệm tình thứ lỗi thông cảm hỷ xả cho. Đối với những vị đã hằng tâm đóng góp công sức cho chùa trong quá khứ cũng như hiện tại, trong khi ghi lại, nếu có điều gì lầm lẫn thiếu sót, thì cũng xin quý vị niệm tình thứ lỗi bỏ qua cho. Chúng tôi thành thật xin lỗi và cám ơn quý vị trước.

Việc làm này, chúng tôi chỉ nhắm vào một mục đích duy nhất, là chỉ muốn lưu lại một vài chứng tích lịch sử trong quá trình xây dựng của một ngôi chùa có tầm vóc vĩ đại và nhất là đối với các thế hệ con em của chúng ta mai sau. Khi nói đến lịch sử của ngôi chùa và công trình kiến tạo này, thì mọi người sẽ biết rõ căn cội trước sau của nó. Đồng thời, cũng để cho mọi người hiện tại cũng như các thế hệ sau này, biết được những gian lao khó khăn đầy thử thách mà những người trong cuộc đã phải đương đầu gánh chịu và phải hết sức kiên nhẫn bền chí khắc phục mới có thể vượt qua.

Nếu không ghi chép lại, thì chắc chắn mọi người sẽ không thể nào hiểu rõ. Nếu sau này, họ muốn tìm hiểu lai lịch gốc gác của ngôi chùa mà không biết phải tìm đâu cho ra. Như thế, thử hỏi lỗi đó do ai? tất nhiên, là do thế hệ của những người đi trước, nhất là đối với những vị có trách nhiệm trong công trình xây dựng đóng góp này.

Do nghĩ thế, nên chúng tôi âm thầm cố gắng hết sức mình để làm việc này. Tôi vẫn biết, đối với khả năng của chúng tôi, vì không phải là một nhà chuyên nghiên cứu viết sử, nên việc làm này, chúng tôi gặp rất nhiều trở ngại khó khăn. Mong quý độc giả và các bạn trẻ sau này, nếu có dịp xem qua, thì xin quý vị và các bạn hãy thông cảm mà lượng thứ cho sự ghi chép vụng về của chúng tôi. Chúng tôi chỉ muốn cho các bạn trẻ hiện nay cũng như tương lai, biết được cái công trình lớn lao mà ở thế hệ chúng tôi, là thuộc về thế hệ lớp người tỵ nạn ly hương, trong khi định cư ở xứ người, thì mình phải cố gắng làm được một cái gì đó, hầu để lưu lại cho con cháu mai sau hưởng dụng mà thôi.

Khi nhìn thấy cái công trình lớn lao khó khăn nầy, các bạn chỉ cần biết đó là một di sản

của một nền văn hóa Phật giáo Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung, được đem ra trang trải cống hiến cho một xứ sở đa văn hóa, mà chánh quyền và nhân dân Úc, họ đã từng cưu mang bảo bọc giúp đỡ chúng tôi. Nhờ đó, mới có những thế hệ con cháu sau này. Đó là công ơn của họ rất lớn lao. Do ý thức như thế, nên chúng tôi xét thấy cần phải ghi lại. Mong sao, các thế hệ mai sau đều có trách nhiệm bảo trì và phát huy cái di sản quý giá này. Được thế, thì quả thật đó là một nguồn an ủi lớn lao nhứt cho thế hệ của chúng tôi.

Lời sau cùng, dù chúng tôi có gia công cố gắng đến đâu, cũng không làm sao tránh khỏi những lỗi lầm thiếu sót trong khi ghi chép. Vậy kính mong chư Tôn Đức và quý độc giả hãy mở rộng tấm lòng thương xót bao dung mà tha thứ cho những lỗi lầm thiếu sót đó.

Chúng tôi xin chân thành tri ân chư Tôn Đức Tăng Ni, nhất là Hòa Thượng Trưởng Lão Thích Phước Huệ đã chỉ giáo cho chúng tôi, cũng như Thượng Tọa trụ trì Thích Phước Tấn và một số quý thân hữu, quý Phật tử và các vị đi trước đã rộng lòng giải thích cặn kẽ những gì mà chúng tôi thắc mắc thưa hỏi. Và chúng tôi cũng không quên thành thật tri ân quý liên hữu, Phật tử xa gần đã phát tâm ủng hộ tịnh tài ấn hành một tác phẩm nhỏ bé, nhằm đóng góp phần nào trong công cuộc mang tính văn hóa lịch sử lợi ích chung này. Đó cũng là một việc làm rất hữu ích cho mọi người ở hiện tại và mai sau vậy.

Chúng tôi thành tâm nguyện cầu chư Phật gia hộ cho toàn thể liệt quý vị thân tâm thường lạc, Bồ đề quả mãn, Phật sự chóng viên thành.

Khởi ghi tại Tịnh Lạc Niệm Phật Đường
nhân kỷ niệm ngày vía Đức Bồ Tát Quán Thế Âm 19 tháng 9 năm Mậu Tý
(nhằm ngày 17/10/2008) Trân Kính
Thích Phước Thái

Ba Giai Đoạn Lớn Trong Tiến Trình Xây Dựng

A. Khởi nguyên

I. NHỮNG NỖ LỰC CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ VIỆT NAM TỴ NẠN CÓ MẶT TẠI ÚC

Nguyện ước ban đầu

sau biến cố ngày 30 tháng tư năm 1975, làn sóng người Việt Nam tỵ nạn tìm đường vượt biên lần lượt bỏ nước ra đi ngày một gia tăng. Sau khi đến các trại tỵ nạn, họ phải tạm cư ở nơi đây một thời gian để chờ đợi làm thủ tục đi định cư ở đệ tam quốc gia. Số người được đi định cư ở đệ tam quốc gia, đông nhứt phải nói là Mỹ, Úc và Canada. Ngoài ra, còn có các quốc gia khác nữa. Trong số đó, dĩ nhiên, là có những vị tu sĩ Phật giáo.

Riêng tại Úc Châu, vào năm 1979, số người Việt đến đây định cư vẫn còn thưa thớt. Và lúc đó cũng chưa có một vị tăng sĩ Phật giáo Việt Nam nào. Ai cũng biết, vì hoàn cảnh bất đắc dĩ, nên họ mới phải bỏ nước ra đi. Khi rời xa quê hương, tận thâm tâm của mỗi người, ai ai cũng vẫn hằng hoài vọng nhớ nhung thương tiếc về quê hương. Đó là một nỗi buồn da diết thầm kín lớn nhứt trong tận thâm tâm của họ. Làm sao họ có thể quên được những kỷ niệm êm đềm, mà đã hơn một thời, họ đã phải từng sống chết gắn bó. Từ những con đường mòn, những phố xá quen thuộc, những ngôi nhà lá, những lũy tre xanh, những ngôi đình làng, những hàng dừa xanh, những cây cao bóng mát, những con kênh rạch sông dài và những cánh đồng bao la bát ngát thơm mùi lúa chín v.v...

Hơn ai hết, đối với người Phật tử, phải nói lòng họ nhớ nhứt là hình ảnh thân thương của một ngôi chùa. Vì ngôi chùa là một mái ấm sinh hoạt gia đình chung thứ hai của họ. Họ là những người đã từng đóng góp xây dựng tạo nên. Ngôi chùa ngoài việc kiến trúc mỹ thuật Phật giáo, theo lối kiến trúc đặc thù của một nền văn hóa Đông phương ra, nó còn là cái nôi tín ngưỡng hun đúc giáo huấn cho người Phật tử trở nên những con người lương thiện hiền hòa.

Nhờ hấp thụ của một nền giáo lý căn bản: trí tuệ, từ bi, vị tha nhân ái của đạo Phật, mà họ đã có được một nếp sống bao dung hòa ái trong tinh thần hỷ xả thăng hoa hướng thượng. Họ luôn thể hiện nếp sống tình tự hài hòa của một dân tộc "hằng hóa và hiếu đạo". Hình ảnh của một ngôi chùa luôn luôn nhắc nhở cho họ phải biết sống cho có đạo đức nhân nghĩa và luôn nuôi dưỡng lòng từ bi yêu thương đùm bọc gắn bó với nhau. Đồng thời, nó cũng còn là chất keo luôn nuôi dưỡng đời sống tâm linh của họ. Vì thế, nên khi đặt chân đến xứ lạ quê người, lòng họ rạt rào trào dâng bao nỗi nhớ niềm thương luyến tiếc về những kỷ niệm êm đềm nơi quê hương thân yêu.

Mỗi khi nhớ đến ngôi chùa, chắc hẳn không ai có thể quên được những câu ca dao:

Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.

Chùa làng phong cảnh hữu tình
Đầu năm cầu Phật dân lành an vui

Chùa làng có một cái đầm
Người đem nhiều cá mỗi rằm phóng sanh.

Còn và còn rất nhiều những câu ca dao tục ngữ nói về hình ảnh của ngôi chùa luôn luôn gắn liền với đời sống tâm linh của họ.

Trở lại vấn đề trên, chính cái động cơ trong thâm tình đồng hương mà thúc giục mọi người tìm lại với nhau. Trong thời gian chân ướt chân ráo mới qua Úc, họ thường gặp nhau ở những nơi tạm cư của các khách sạn (hostel). Vì đa số người tỵ nạn mới qua Úc, đều phải tạm trú trong khách sạn một thời gian trước khi dọn ra ngoài.

Vì vậy, khách sạn là nơi lý tưởng để cho họ có cơ hội gặp nhau dễ tạo nên tình thân hữu. Ngoài tình đồng hương còn tình đồng đạo. Khi đó, mọi người bàn tính với nhau là phải kết hợp lại vài người để lập thành một nhóm Phật tử. Nhóm này có nhiệm vụ là tìm cách tổ chức một nơi nào đó cho thích hợp để cho mọi người có cơ hội đến với nhau tạo thành mối dây thân thiện để tiện bề chiêm bái hành lễ. Đó là một ước mơ ban đầu của họ và họ đã thành tựu được ước mơ này.

Sự kết hợp nhằm thực hiện ước mơ

Trong niềm ưu tư hoài vọng đó, mỗi người tự đi tìm kiếm nghe nơi nào có cơ sở tín ngưỡng Phật giáo là họ tìm đến. Một hôm, họ nghe nói ở vùng Kew, thuộc tiểu bang Victoria có một đạo tràng của người Úc. Khi đến nơi, họ gặp một vị sư người Úc. Vị sư này tỏ ra rất lịch sự và ân cần tiếp đón họ một cách nhiệt tình nồng hậu. Đồng thời, Ông còn mở băng tụng kinh bằng tiếng Việt cho mọi người nghe. Ai nấy nghe qua đều rất mừng rỡ. Lòng họ vô cùng bùi ngùi xúc động. Xúc động gần như muốn rơi lệ. Đó là lần đầu tiên, họ mới nghe được tiếng tụng kinh bằng ngôn ngữ mẹ đẻ nơi xứ lạ quê người. Như thế, thì chao ôi! còn gì vui sướng cho bằng! Vì vậy ai nấy nghe rồi đều cảm thấy bồi hồi ngậm ngùi nuốt tủi, mà âm thầm gạt lệ cảm thương cho số phận của kiếp người tỵ nạn ly hương!

Tổ chức Đại Lễ Phật Đản lần đầu trên xứ người

Đối với người Phật tử Việt Nam, dù sinh sống nơi đâu hay bất cứ trong hoàn cảnh thuận nghịch nào, ngày Đại Lễ Phật Đản, đối với họ rất là quan trọng, vì ngày đó là ngày đản sinh của đức Phật. Cho nên, gần đến mùa Phật Đản, lòng họ lại rộn lên bao niềm quy hướng nhớ về đức Phật tha thiết. Vì đó là ngày đại lễ trọng đại thiêng liêng mà hầu hết người Phật tử trên khắp năm châu bốn biển đều hết lòng quy kính. Họ hướng về bằng tất cả tâm thành của một người con Phật. Làm sao họ có thể quên được câu ca dao:

Chùa làng một điện năm gian,
Hằng năm Phật Đản cả làng dân qui.

Là người con Phật đến ngày lễ trọng đại này, dù ở nơi đâu họ cũng đều kéo nhau về
chùa để thành tâm cúng bái cầu nguyện:

Dù ai buôn bán nơi đâu,
Đến ngày Phật Đản năm châu cũng về
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Đến ngày Phật Đản cũng về chùa tu.

Lần đầu tiên ở Úc, họ kết hợp lại với nhau để cùng nhau đứng ra tổ chức Đại Lễ Phật Đản. Sở dĩ họ kết hợp tổ chức như thế, là vì họ không thể nào quên được những mùa Phật Đản mà họ đã từng tham dự ở quê nhà. Chính niềm nhớ nhung tha thiết đó, đồng thời, họ cũng muốn bày tỏ nỗi lòng của người Phật tử cho người Úc biết rằng, dù họ sống xa quê hương xứ sở, nhưng những truyền thống lễ nghi tín ngưỡng văn hóa đối với một tôn giáo lớn có mặt lâu đời trên đất nước của họ, thì dù ở đâu họ cũng không bao giờ quên được. Do tâm nguyện như thế, nên họ lập thành một ban tổ chức, chia nhau công việc phận sự để mỗi người cùng nhau lo lắng thực hiện. Họ đã quyết định hùn tiền lại thuê một cái Hall để cho mọi người tụ hội lại hành lễ.

Tháng tư Phật Đản trở về
Lòng người con Phật tràn trề hân hoan
Cùng nhau câu hội đạo tràng
Nhất tâm đảnh lễ cúng dàng Như Lai.

Thế là, một buổi Đại Lễ Phật Đản đã được diễn ra vào ngày chủ nhật 13 tháng 5 năm 1979 (Kỷ Mùi), tại một cái Hall ở vùng Kew (hall không lớn lắm chỉ chứa khoảng chừng vài trăm người, theo một vài người cho biết như thế), dưới sự hướng dẫn và chủ lễ của đạo hữu Hồng Nhơn Phan Văn Đạt. Đồng hương Phật tử kéo nhau về dự lễ rất đông, ước lượng có khoảng vài trăm người tham dự. Tuy tổ chức lần đầu, mà kết quả rất là thành công viên mãn tốt đẹp.

Tiếp đón Thầy từ Hồng Kông sang.

Bao niềm mong ước của họ là sớm có được một vị thầy lãnh đạo hướng dẫn họ tu học. Có cảm tất có ứng. Vào ngày 9 tháng 7 năm 1980, đó là ngày mở ra một trang sử mới của Phật Giáo Việt Nam ở Úc, đã có một bậc Thầy đầy đủ đức độ từ Hồng Kông sang Úc. Thế là sự mơ ước chờ đợi từ bấy lâu nay, không ngờ hôm nay, họ lại được toại nguyện như ý. Được tin vui mừng này, một nhóm Phật tử đã ra tận phi trường Melbourne để cung nghinh một vị Thượng Tọa có pháp hiệu là Tắc Phước (danh xưng lúc bấy giờ). Hiện nay là Hòa Thượng Trưởng lão Thích Phước Huệ ở Tổ Đình Phước Huệ, Sydney.

Tưởng cũng nên nhắc sơ lại vài nét về cuộc hành trình vượt biên của Hòa Thượng. Theo lời Hòa Thượng kể lại, thì Hòa Thượng có một người đệ tử thân tín là ông Trương văn Bảy. Ông nầy đứng ra lo sắp xếp hết mọi việc cho Hòa Thượng. Người chủ tàu dự định, nếu mọi việc đi êm xuôi trót lọt thì cao lắm là hơn một tuần lễ mọi người sẽ đến trại tỵ nạn Hồng Kông. Thế nhưng, việc đời nó xảy ra không đúng theo như ý mình muốn. Nếu tất cả mọi việc đều theo như ý mình, thì cõi đời nầy đâu còn gì gọi là đau khổ. Tất cả đều là hạnh phúc an vui hết rồi.

Hòa Thượng còn cho biết thêm, kể từ khi chiếc tàu rời bến ở Việt Nam cho đến khi tới Hồng Kông. Tính ra phải mất thời gian đúng một tháng, lẻ một ngày. Dĩ nhiên, trên bước hải trình nầy, mọi người gặp rất nhiều khó khăn gian lao thử thách. Nhưng ai nấy vẫn giữ vững lập trường kiên định cương quyết khắc phục vượt qua mọi khó khăn. Thế là tàu phải lênh đênh giữa biển cả bao la hơn một tháng trời.

Sau khi đến Hồng Kông, cảnh sát đưa mọi người trong tàu nhốt vào trong kho đen. Hòa Thượng và mọi người già trẻ bé lớn đều cùng chung số phận. Tuy nhiên, ít lâu sau, thì họ có phần đối xử tử tế dễ dãi hơn đôi chút. Họ biết Hòa Thượng là một tăng sĩ Phật giáo, nên họ cho Hòa Thượng ra ngoài để tổ chức những buổi đại lễ Phật Đản và Vu Lan đúng theo lễ nghi truyền thống của Phật giáo. Thế là Hòa Thượng có phần được tự do thoải mái dễ thở hơn.

Bấy giờ những bậc tôn túc bên Mỹ như cố Hòa Thượng Thích Mãn Giác, pháp sư Giác Đức, đều có liên lạc với Hòa Thượng và hai vị nầy có ý định là muốn bảo lãnh Hòa Thượng sang Mỹ quốc. Lúc đầu, Hòa Thượng cũng muốn đi định cư ở Mỹ. Nhưng một nhân duyên kỳ lạ, là có một số Phật tử ở Úc đã từng quen biết nhiều với Hòa Thượng khi còn ở quê nhà, nên họ ngỏ ý thỉnh cầu Hòa Thượng sang Úc định cư, vì ở Úc hiện giờ chưa có một vị tăng sĩ Phật giáo Việt Nam nào. Họ tha thiết bày tỏ hết nỗi lòng mong muốn thỉnh cầu Hòa Thượng.

Thể theo sự tha thiết thỉnh cầu đó, hơn nữa, Hòa Thượng xét thấy, ở Úc Châu bấy giờ số Phật tử tỵ nạn định cư cũng khá đông, nhưng chưa có vị tăng sĩ Việt Nam nào lãnh đạo hướng dẫn họ tu học, do đó, nên Hòa Thượng quyết định làm mọi thủ tục giấy tờ để sang Úc định cư. Tính ra, từ khi Hòa Thượng đến Hồng Kông cho đến khi sang Úc, phải mất thời gian ở trại tỵ nạn Hồng Kông là hơn một năm.

Sở dĩ mọi người biết nhiều đến Hòa Thượng là vì khi còn ở Việt Nam, ngài đã có một quá trình tu học và làm việc Phật sự, từ cấp trung ương đến các tỉnh thành. Trước khi Hòa Thượng rời khỏi Việt Nam, bấy giờ ngài đang giữ chức vụ quan trọng trong Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, đó là Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự. Vì thế, nên hôm nay, nghe tin Hòa Thượng được định cư ở Úc, thì tất cả đồng hương Phật tử ở đây, họ rất vui mừng phấn khởi. Cho nên, khi nhìn thấy Hòa Thượng, mọi người đều xúc động đến rơi lệ. Họ chắp tay kính cẩn chào mừng Hòa Thượng trong lời nói nghẹn ngào xúc động. Thậm chí, có người không dằn được cơn xúc động mạnh nên bật thành tiếng khóc nức nở. Thật là, một quang cảnh lần đầu tiên, người Việt Nam tỵ nạn đón rước một bậc Thầy của họ trong niềm xúc động, làm cho tất cả những người Tây phương khác đều tỏ ra rất khâm phục và hết sức ngạc nhiên.

Kể từ đây, người Phật tử tại gia không còn cảm thấy bị bơ vơ lạc lõng không có thầy chỉ giáo hướng dẫn tu học. Bài hát của các anh chị em trong gia đình Phật tử ngày nào, mà nay như hiện lại trong tâm trí của mọi người: "Mừng Thầy đến với chúng con trong niềm vui tràn đầy, chúng con biết làm gì đây (câu này theo ý HT Nhất Hạnh nên sửa lại là: chúng con quyết lòng ngồi đây), chúng con nguyền tinh tấn, diệt bao tham sân hận, Thầy là con thuyền thanh lương, che mát chúng con v.v...

Dù trong lòng họ rất vui mừng khi đi đón thỉnh Thầy, nhưng kỳ thật lúc đó họ chưa có chuẩn bị được một nơi trú ngụ riêng biệt nào cho Thầy. Dù tấm lòng đạo tâm của họ sẵn có, nhưng vì hoàn cảnh sống ở cái buổi ban đầu mới lạ này, làm sao họ có đủ tiền bạc vật chất mà tạo dựng nên cơ sở vững chắc? Do đó, nên trong những tuần lễ đầu Hòa Thượng phải đến tá túc ở Tarahouse, nơi có vị sư người Úc trụ trì. Rồi sau đó, họ mới tìm cách thuê nhà.

Kỷ niệm mùa Vu Lan Báo Hiếu đầu tiên

Đối với người Phật tử ly hương, họ nhớ quê hương nhiều nhứt là vào dịp mùa Vu Lan Báo Hiếu. Nhất là đối với những người mới đặt chân đến xứ lạ quê người. Nghe Vu Lan đến, cõi lòng của họ đau nhói quặn thắt như tan nát, vì họ luôn nhớ đến những người thân yêu ruột thịt, như cha mẹ, chồng, vợ hay con cái của họ còn bỏ lại ở quê nhà trong lúc ra đi. Rồi nhớ đến mồ mả quê cha đất tổ, nơi đã hơn một thời nuôi dưỡng hun đúc đùm bọc họ. Vì đã hơn một thời, họ được lớn lên và trưởng thành nơi đó. Nay vì hoàn cảnh mà phải cắt đứt xa lìa nơi chôn nhau cắt rốn. Thật là chạnh lòng chua xót não nề! Nỗi lòng nhớ nhung thương tiếc đó làm sao có thể nói hết và không có bút mực nào có thể diễn tả hết được!

Chính vì nỗi nhớ niềm thương đó mà mỗi người tự động tìm đến quây quần bên nhau để rồi cùng nhau bày tỏ thắp nén hương cầu nguyện. Cầu nguyện cho Cửu huyền Thất tổ cho ông bà nội ngoại tông thân, cho tất cả những người thân thương và muôn loài chúng sanh trong pháp giới, kẻ còn người mất đều được an lành, siêu sanh thoát hóa.

Lần đầu tiên, họ được một vị Thầy đứng ra tổ chức hướng dẫn họ để làm lễ Vu Lan với một khung cảnh mới lạ trong một ngôi nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhưng họ cảm thấy thật là ấm cúng trong tình người và tình đạo tràn đầy hương vị giải thoát.

Cần nói rõ thêm, lúc nầy, Hòa Thượng vẫn còn ở trong Tarahouse của người Úc, nơi đây, họ tu theo Phật giáo Tây Tạng. Sở dĩ buổi đại lễ Vu Lan diễn ra tại nhà thờ, lý do là vì lúc bấy giờ, Linh Mục Bùi Đức Tiến đang làm Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do, nên ông mới giới thiệu Hòa Thượng với Linh Mục Huỳnh Sang đứng ra lo sắp xếp tổ chức nơi hành lễ. Vì là lần đầu tiên, nên quý đồng hương Phật tử đến tham dự buổi lễ rất đông. Một vị sư người Úc có làm một ngàn đóa hoa sen giấy thật đẹp để dâng lên cúng dường Tam bảo cho buổi lễ nầy.

Mùa Vu Lan năm ấy, tức vào năm 1980, tuy tổ chức đơn sơ, nhưng nó lại biểu hiện cả một tấm lòng trong tình nghĩa thầy trò lần đầu tiên thiết lễ Vu Lan Thắng Hội trên xứ người. Đó là một kỷ niệm thật khó quên của mảnh đời người tỵ nạn.

Cần nói rõ thêm, trong thời gian ở buổi đầu định cư nơi xứ người, tất cả đối với họ đều trở nên xa lạ mới mẻ. Trở ngại lớn nhứt của họ là vấn đề Anh ngữ. Chỉ có một số ít người, vì đã có học sinh ngữ Anh ở Việt Nam, nên khi đến đây hội nhập, đối với họ thì không có gì trở ngại khó khăn cho lắm. Ngoài ra, đại đa số đều phải bị bắt buộc dự học vào các lớp học Anh ngữ dành cho những người tỵ nạn và di dân. Vì thế, nên những người có gia đình, nhất là đối với các bậc phụ huynh có con cái nhỏ, phải nói rất là vất vả khó khăn ở buổi đầu để kiếm sống. Tuy nhiên, ở vào thời điểm này, vì số người Việt tỵ nạn cũng chưa có đông lắm, nên vấn đề tìm kiếm việc làm, tương đối cũng không đến nỗi khó khăn. Vì người dân bản xứ họ tỏ ra rất cảm thương và có phần kính trọng.

Nói lên điều này, để thấy rằng, đối với người Việt Nam, họ hấp thụ bởi một nền văn hóa "Tam Giáo Đồng Nguyên", nhất là văn hóa Phật giáo, một nền văn hóa lấy từ bi bao dung rộng lượng làm gốc. Nhờ đó, nên khi hội nhập vào một nền văn hóa mới, thì mọi người rất dễ thích nghi hài hòa không có gì trở ngại lắm. Điểm đặc biệt của nền văn hóa Việt Nam là khéo biết thu thái mọi nền văn hóa dị biệt, nhưng vẫn giữ được bản chất tinh hoa thuần túy là "Hòa nhi bất Đồng".

Chính vì điểm này, mà họ vẫn luôn gìn giữ bảo tồn những tập tục quý giá cổ truyền của họ. Nhất là về phương diện tín ngưỡng đạo giáo và đạo thờ cúng tổ tiên ông bà. Đó là bản sắc đặc thù của nền văn hóa cổ truyền Việt Nam. Đối với họ, ngoài cái gia đình nhỏ hẹp ra, họ còn phải nghĩ đến cái đại gia đình rộng lớn chung cho mọi người, đó là một ngôi chùa. Mà chùa thì phải có một vị thầy đầy đủ đức độ để chủ trì. Vị thầy, ngoài việc lo phụng sự cho Tam bảo, còn phải có bổn phận hướng dẫn dìu dắt tín đồ Phật tử tu học.

Sau đó không lâu, lại có thêm một vị tăng sĩ Việt Nam khác từ đảo tỵ nạn Bidong, Mã Lai sang Úc và định cư tại Melbourne. Đó là Thượng Tọa Thích Huyền Tôn (danh xưng lúc bấy giờ). Sau khi đến Úc, Thượng Tọa Huyền Tôn ở chung trong Tarahouse với Hòa Thượng một thời gian ngắn.

Thuê nhà làm chùa

Đã có thầy, tất nhiên, là phải có nơi cho thầy trú ngụ để trực tiếp hướng dẫn quý đồng hương Phật tử tu học. Đó là điều cần phải giải quyết cấp thiết hàng đầu không thể nào thiếu vắng được. Vẫn biết, thời điểm và hoàn cảnh lúc bấy giờ, đối với việc tạo dựng

một cơ sở theo đúng nhu cầu như ý muốn, thật tình mà nói, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Không phải như ở Việt Nam, việc kiến lập chùa chiền không có gì trở ngại khó khăn cho lắm, chỉ cần có tiền là có thể xây cất theo ý mình muốn như thế nào cũng được.

Trái lại, ở xứ sở này, thì lại khác. Dù cho mình có tiền, nhưng cũng chưa chắc là đã xây dựng được dễ dàng. Cũng phải trầy vi tróc vảy, vỡ óc điên đầu, trải qua lắm nhiêu khê chua cay mới có thể thành tựu được. Việc này sẽ nói đến ở phần sau. Vì nó đòi hỏi phải hội đủ nhiều điều kiện rất khó khăn, nhất là đối với vấn đề giấy phép xây cất.

Thế nên, ở bước khởi đầu này, việc mà mọi người chỉ dám nghĩ đến một cách khiêm tốn và có thể thực hiện được, đó là việc thuê nhà làm chùa. Nhưng, hễ nói đến chùa, là phải nói đến những nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng theo truyền thống Phật giáo. Mà sự sinh hoạt tụng kinh bái sám, thuyết pháp giảng kinh, hay làm những pháp sự khác, tất nhiên, là phải có gây ra sự ồn ào đến những người chung quanh.

Đó là chưa nói đến, có những đoàn thể sinh hoạt, như là đoàn thể Gia Đình Phật Tử chẳng hạn. Mà hễ có ồn ào, tất nhiên, là phải có sự đụng chạm đến hàng xóm chung quanh rồi. Một khi đã đụng chạm làm mất sự yên tĩnh của họ, thì họ sẽ thưa kiện với Hội Đồng Thành Phố sở tại, tức sẽ gây thêm lắm điều phiền toái rắc rối.

Thế là, từ cái khó này nó lại chồng chất lên cái khó khác. Dù vậy, nhưng vì nhu cầu cấp thiết, dù cho có khó khăn đến đâu, mọi người cũng phải nhứt quyết thực hiện cho kỳ được. Họ nói, tới đâu thì mình giải quyết tới đó. Chả lẽ thấy
khó rồi ngồi đó mà khoanh tay rế không dám làm gì hết hay sao?! Như thế, thì làm sao đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng tu học của đồng bào Phật tử?

Bấy giờ, có một Bà Sơ người Pháp dẫn Hòa Thượng đến gặp một vị Linh Mục (xin lỗi không nhớ tên) đang cai quản nhà thờ, để nhờ Ông giúp đỡ việc thuê nhà làm chùa. Nhờ sự giúp đỡ đó, nên mới có căn nhà thuê đầu tiên để làm cơ sở sinh hoạt Phật sự. Căn nhà thuê đầu tiên là ở số 17 Hoddle Street, Richmond, Victoria.

Viết đến đây, người viết rất cảm động qua tấm lòng cao đẹp của những vị ân nhân, như vị sư người Úc và quý vị Linh Mục cũng như Bà Sơ người Pháp đã tận tình hết lòng giúp đỡ cho Hòa Thượng nói riêng và cho người Phật tử Việt Nam định cư tại tiểu bang Victoria nói chung. Chính nhờ sự tận tình giúp đỡ của quý vị đó ở buổi ban đầu nầy, mà Phật Giáo Việt Nam mới có được những thành quả đáng kể như ngày hôm nay. Đó là điều mà Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam, chúng tôi xin chân thành đa tạ bằng tất cả tấm lòng tri ân sâu xa của chúng tôi đối với quý ngài. Xin quý ngài nhận nơi đây lòng biết ân của chúng tôi.

Yếu tố nhân sự

Tưởng cũng nên nói rõ, đây mới chỉ là cơ sở tạm thời ở bước đầu, cho nên, Hòa Thượng cũng chưa có đặt thành danh hiệu chùa. Tuy nhiên, dù là cơ sở tạm thời, nhưng cũng cần phải nghĩ đến cái yếu tố nhân sự. Vì có nhân sự thì mới có thể tiến hành phát huy những công việc Phật sự được. Muốn thực hiện được điều này, là phải có nhân sự cộng tác. Bởi thế, nên yếu tố nhân sự rất quan trọng cho việc xây dựng và phát triển Phật giáo hiện tại và mai sau.

Do đó, Hòa Thượng mời một vài Phật tử thân tín tâm huyết đến cơ sở nói trên, để họp mặt bàn về việc thành lập Hội Phật Giáo Việt Nam tại Victoria. Sau khi bàn thảo công cử, kết quả, Thượng Tọa Thích Huyền Tôn làm Hội Trưởng. Ông Đào Lai làm Phó Hội Trưởng và ông Trần Đăng Đại làm Tổng thơ ký, cùng một vài thành viên khác. Thế là Hội Phật Giáo Việt Nam đã
được thành lập tại Victoria vào ngày
28 tháng 10 năm 1980.

Cũng vào mùa Vu Lan năm 1980, sau khi làm lễ ở Melbourne, một số Phật tử ở Sydney ngỏ ý cung thỉnh Hòa Thượng lên Sydney để chủ trì và chứng minh cho buổi lễ, Hòa Thượng rất hoan hỷ nhận lời.

Sau Đại lễ Vu Lan năm ấy, bằng kinh nghiệm với cái nhìn tổng quát cho việc phát triển Phật Giáo dài lâu tại xứ sở Úc Châu này, nên vào đầu tháng mười cùng năm, Hòa Thượng lên Sydney hiệp lực cùng một số Phật tử sở tại, thành lập Niệm Phật Đường Phước Huệ tại số 326 Hamiton Road, Fairfield.

Bấy giờ, mọi Phật sự ở Melbourne Hòa Thượng giao lại cho Thượng Tọa Thích Huyền Tôn đảm trách. Chính ngôi Niệm Phật Đường Phước Huệ này là trụ sở chính thức để Hòa Thượng thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Một Đại Hội để duyệt xét hiến chương và thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đã diễn ra vào những ngày 17, 18 và 19 tháng 4 năm 1981, quy tụ các đại biểu của các tiểu bang: Victoria, New South Wales, Queensland và Western Australia.

B. Từng Bước Hình Thành

II. NHỮNG DIỄN BIẾN TỪNG BƯỚC TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG

Tạo mãi cơ sở Sau khi đảm nhận trọng trách do Hòa Thượng giao phó, Thượng Tọa Thích Huyền Tôn và một vài Phật tử tín tâm cật lực cộng tác, đề nghị nên tìm mua căn nhà để làm chùa. Sau khi thảo luận kỹ càng, mọi người đi đến quyết định là mua căn nhà số 8 Prince Street, thị xã Footscray để làm chùa. Bởi vì, kinh nghiệm cho thấy, việc thuê nhà làm chùa, nó có nhiều trở ngại khó khăn, nhất là việc sửa sang lại phòng ốc theo như ý mình muốn.

Vì là nhà thuê, mình không có quyền sửa chữa chi hết. Do đó, để cho tiện lợi trong việc thờ cúng cũng như để có chỗ rộng rãi hơn cho Phật tử tới lui lễ bái tu học, nên mọi người quyết định mua lại căn nhà này. Nhưng ai là người có đủ tư cách pháp lý đứng tên để mua? Vì là của chung nên cần phải có nhiều người đứng tên chung để mua. Được biết, năm người cùng ký tên chung để mua căn nhà này gồm có các đạo hữu: Nguyễn Thuyên, Lê Thiện Phúc, Nguyễn Thị Nhung, Trần Ngọc Thọ và Lại Thị Thu Hương.

Như vậy, họ mới có đủ pháp lý để vay tiền ngân hàng mua nhà lập chùa. Lý do, sở dĩ năm vị này đứng tên chung để mua là vì họ đã có cơ sở việc làm. Đó là theo luật bắt buộc phải có. Được biết, căn nhà này mua vào thời điểm khoảng đầu năm 1981. Và đã được Thượng Tọa Huyền Tôn đặt cho danh hiệu chùa là Đại Bi Quan Âm.

Thiên di chùa lần thứ nhứt

Sau khi hoàn tất mọi thủ tục giấy tờ hành chánh trong việc ký hợp đồng mua căn nhà nầy, và khi lấy chìa khóa xong, mọi người rất vui mừng, vì đây là lần đầu tiên, Phật tử đã có được một cơ sở thực thụ mà không phải lệ thuộc vào người chủ nhà, mình có quyền sử dụng theo ý mình muốn. Trước khi dời chùa về nơi đây, cần phải sửa sang trang hoàng lại phòng ốc cho thích hợp. Sửa xong, mọi người định ngày dọn về. Đây là thiên di chùa lần thứ nhứt, từ vùng Richmond đến vùng Footscray thuộc tiểu bang Victoria.

Bổ Sung Kiện Toàn Nhơn Sự

Sau khi dời chùa về địa điểm này, theo nhu cầu tín ngưỡng của đồng hương Phật tử ngày một gia tăng hơn, do đó, xét thấy, trước hết, cần phải bổ sung để kiện toàn nhơn sự. Thế là, Thượng Tọa Thích Huyền Tôn mời một số Phật tử về họp tại địa chỉ số 8 Prince Street, Footscray nhằm hoạch định hướng phát triển sinh hoạt cho Hội Phật giáo Việt Nam Tại Victoria. Đồng thời cũng là để bổ sung thêm nhơn sự còn khiếm khuyết. Sau khi thảo luận công cử, kết quả, hình thành một tân Ban Trị Sự Hội gồm những vị có trách nhiệm như sau:

Giáo Hội Trưởng: Thượng Tọa Thích Huyền Tôn, Giáo Hội Phó Nội Vụ: Đạo Hữu Lê Hữu Gia, Giáo Hội Phó Ngoại Vụ: Đạo Hữu Lê Thiện Phúc, Tổng Thơ ký: Đạo Hữu Nguyễn Văn Phong, Chánh Thủ Quỹ: Đạo Hữu Tâm Minh Nguyễn Thị Minh Nguyệt (về sau chức vụ thủ quỹ này do cô Kim Thanh làm thay cho đạo hữu Tâm Minh)

Đó là thành phần nhân sự cốt cán trong Ban Thường Vụ của Ban Trị Sự. Ngoài ra, còn có thêm một vài ủy viên khác. Tuy nhiên, theo anh Lê Thiện Phúc cho biết, thành phần nhân sự của Ban Trị Sự ở giai đoạn nầy không có nhiều ủy viên đảm trách trong các ngành như ở những giai đoạn sau nầy. Đó là những nhân sự trong cơ cấu tổ chức của Hội Phật Giáo Việt Nam đầu tiên tại Victoria.

Một Đại Hội Phật Giáo lần đầu tiên diễn ra tại cơ sở này

Cơ sở này là nơi hoạt động Phật sự tương đối cũng trải qua thời gian khá lâu. Tức từ năm 1981 cho đến năm 1985.

Trong thời gian 4 năm ở cơ sở này, có một Phật sự nổi bật vượt trội hơn hết, đó là lần đầu tiên, Hội đứng ra tổ chức một Đại Hội Phật Giáo định kỳ hai năm một lần vào những ngày 5 đến 8 tháng 04 năm 1985 (Đại hội này sau đại hội khoáng đại năm 1983 hai năm). Địa điểm Đại Hội là tại trường Footscray Technical College. Đại Hội đã quy tụ đầy đủ các Phái Đoàn Đại Biểu Phật giáo từ các nơi: New South Wales, Queensland, Canberra, Nam Úc, Tây Úc, Victoria, đặc biệt còn có 2 Phái Đoàn Phật giáo ở Wellington và Auckland. Trưởng ban tổ chức Đại Hội là giáo sư Nguyễn Thuyên cùng một số các nam nữ Phật tử khác đã được cử vào trong Ban Tổ Chức. Tuy tổ chức lần đầu, nhưng với kinh nghiệm sẵn có từ trước, nên Đại Hội đã tiến hành và thành công viên mãn tốt đẹp.

Cũng trong Đại Hội này, Thượng Tọa Thích Huyền Tôn xin từ nhiệm, vì lý do sức khỏe. Đại Hội đồng ý chấp thuận. Thế là, chức vụ Giáo Hội Trưởng cần phải có người thay thế. Đại Hội quyết định đề cử Đại Đức Thích Phước Độ với chức vụ quyền hội trưởng tạm thời. Một quyết định do Hòa Thượng Thích Phước Huệ thay mặt Tổng Hội ký vào ngày 1 tháng 6 năm 1985. Sau khi nhận quyết định, thầy Phước Độ từ Sydney xuống Melbourne vào thượng tuần tháng 6 năm 1985 để hoạt động Phật sự. Nhưng, rất tiếc, thầy chỉ sinh hoạt ở Melbourne chỉ được một thời gian ngắn, sau đó, thầy Phước Độ xin từ nhiệm và trở về lại Sydney.

Lúc bấy giờ, Đại Đức Thích Phước Nhơn (danh xưng lúc bấy giờ) đang sinh hoạt ở Tây Úc. Nhận thấy, cần phải bổ nhiệm người thay thế vào chức vụ này để tiếp tục sinh hoạt. Cho nên, với tư cách là Hội Chủ Tổng Hội, Hòa Thượng Thích Phước Huệ đã ra Quyết Định bổ nhiệm thầy Thích Phước Nhơn với chức vụ là Quyền Giáo Hội Trưởng thay thế cho Thượng Tọa Thích Huyền Tôn. Sở dĩ dùng chữ Quyền là vì chức vụ Giáo Hội Trưởng chưa mãn nhiệm kỳ.

Thiên di chùa lần thứ hai

Sau khi đảm nhận chức vụ này, Đại Đức Thích Phước Nhơn liền xúc tiến việc thiên di chùa về trụ sở mới, số 112 Pilgrim Street Footscray, Victoria. Đây là căn nhà mướn và thầy Phước Nhơn bỏ hai chữ Đại Bi còn lại là Quan Âm. Bấy giờ Phật tử gọi là chùa Quan Âm. Đó là việc dời chùa lần thứ hai.

Sau khi sắp xếp ổn định nơi trụ sở mới này, thầy Phước Nhơn đạt thơ mời Phật tử về dự Đại Hội. Đại Hội này được tổ chức vào ngày 18 tháng 8 năm 1985, tại số 575 Elizabeth Street, Melbourne, nhằm giải quyết hai vấn đề thiết yếu:

  • Xác quyết ngôi nhà số 8 Prince Street là thuộc tài sản của Hội.
  • Bầu lại Ban Trị Sự mới.

Cần nói rõ thêm ở điểm 1 này, sau khi căn nhà bán đi và thanh toán nợ nần xong, số tiền còn lại (khoảng hơn 20 ngàn Úc kim) bỏ vào quỹ của Hội để xây dựng chùa.

Sau khi bầu bằng cách bỏ phiếu kín, kết quả hình thành một tân Ban Trị Sự như sau:

  • Giáo Hội Trưởng: Đại Đức Thích Phước Nhơn.
  • Giáo Hội Phó Nội Vụ: Đạo hữu Hồng Nhơn Phan Văn Đạt.
  • Giáo Hội Phó Ngoại Vụ: Đạo hữu Nguyên Hoa Đoàn Hanh.
  • Tổng Thơ Ký: Đạo hữu Thiện Đại Lê Văn Bé.
  • Thủ Quỹ: Đạo hữu Nhật Mỹ Lê kim Thanh.
  • Ủy Viên Thanh Niên: Đạo hữu Minh Hoàng Diệp Khôi.
  • Ủy Viên Xã Hội: Đạo hữu Lâm Trí Dũng.
  • Ủy Viên Cư Sĩ: Đạo hữu Lâm Minh Sơn.
  • Ủy Viên Hoằng Pháp: Đạo hữu Thiện Đại Lê Văn Bé.
  • Ủy Viên Văn Hóa: Đạo hữu Tâm Hiển Nguyễn văn Hiếu.
  • Ủy Viên Báo Chí: Đạo hữu Chí Bảo Hoàng Trung Châu
  • Ủy viên nghi lễ: Đạo hữu Giác Phụ Lê Văn Quế.
  • Ủy Viên Hộ Trì Tam Bảo: Đạo hữu Diệu Độ Trương Thị Phong.

Trong thời gian ở tại cơ sở này, người có công lao lo việc trù đường cũng như quét dọn làm những công việc lặt vặt trong chùa thường xuyên, phải nói là Phật tử Diệu Độ. Ngoài ra, còn có một số quý Phật tử khác, như Phật tử Thùy Hoàn, Chúc Đại v.v... Những Phật tử Ưu bà di này gần như là trụ cột của chùa, vì họ thường tới lui lo mọi việc ngoại hộ cho chùa. Hai cô Phật tử Thùy Hoàn và Chúc Đại (Sư Cô Phước Hồng)

Sau thời gian hoạt động, số ban viên xin gia nhập ngày càng gia tăng lên đến gần một trăm vị.

Vào ngày 25 tháng 1 năm 1987, một buổi tiệc liên hoan của Ban Hộ Niệm đã diễn ra trong bầu không khí rất vui tươi và thân mật. Buổi tiệc này, do đạo hữu Thiện Đại, Trưởng Ban Hộ Niệm đứng ra tổ chức. Tất cả Phật tử trong Ban Hộ Niệm đa phần là người trọng tuổi đều có mặt đông đủ. Trong dịp này, đạo hữu Trưởng ban cho biết, sự sinh hoạt của Ban Hộ Niệm suốt thời gian qua kể từ ngày thành lập (31/8/86) cho đến nay, sự sinh hoạt tiến triển khá tốt đẹp. Trong buổi lễ này, không có Hòa Thượng chứng minh, chỉ có Đại Đức Thích Thiện Từ ở Phước Huệ xuống thay mặt Hòa Thượng ban đạo từ.

Ghi lại chi tiết như thế, để thấy rằng sự sinh hoạt của Ban Hộ Niệm thành lập chưa đầy một năm, mà số người xin gia nhập gia tăng rất đông. Đó là phần lớn nhờ vào sự chứng minh chỉ đạo của Hòa Thượng lãnh đạo tinh thần.

Vào đầu năm 1987, vì nhu cầu cấp thiết phải xây dựng ngôi Chùa Quang Minh tương lai, nên Ban Trị Sự Hội đã nhất quyết cung thỉnh Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo kiêm nhiệm chức vụ Giáo Hội Trưởng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Victoria. Hòa Thượng đã hoan hỷ hứa khả nhận lời. Kể từ đó, công việc của Hội đều nhắm thẳng vào một mục tiêu chính yếu là vận động để xây dựng ngôi chùa. Bởi lẽ, số Phật tử về chùa cúng bái hành lễ mỗi ngày một đông đảo hơn.

Cần nói rõ, vào những ngày lễ lớn, nhứt là vào dịp Tết Nguyên Đán, tối đêm giao thừa, mọi người về chùa dự lễ cúng bái hái lộc đầu năm, thật quá sức đông đảo, có khoảng vài ngàn người, đến đổi cảnh sát phải điều động một lực lượng cảnh sát hùng hậu đến để bảo vệ an ninh. Trên nền trời có một vài chiếc phi cơ lượn qua lượn lại để thị sát tình hình. Dọc theo con đường Anderson ở phía bên kia lộ có miếng đất trống chạy dài rất tiện lợi cho bãi đậu xe, vì thế, nên Hội phải xin phép council để cho mọi người có chỗ đậu xe ở bên đó. Quang cảnh tối đêm giao thừa, phải thành thật mà nói, thật là ồn náo rộn rịp rất phức tạp, làm cho hai căn nhà hai bên lắm khi họ phải bực mình khó chịu, dù mình cũng đã có giao tình mật thiết biết điều năn nỉ với họ.

Bổ nhiệm trụ trì lần thứ nhứt

Trong giai đoạn này, dù Hòa Thượng đã nhận chức Giáo Hội Trưởng, nhưng chùa vẫn chưa có một vị trụ trì. Lòng mong mỏi kỳ vọng của quý Phật tử là sớm có một vị trụ trì để lo điều hành công việc Phật sự.

Hữu cảm tất ứng, niềm khát vọng đó nay đã được thành tựu sở nguyện. Số là, Đại Đức Thích Tâm Phương (danh xưng lúc bấy giờ) đã được Hòa Thượng bảo lãnh từ trại tỵ nạn qua Úc và tạm trú ngụ tại chùa Phước Huệ. Do đó, nên Hòa Thượng bổ nhiệm thầy về làm trụ trì chùa Quang Minh.

Thế là, vào ngày 14 tháng 3 năm 1987, một buổi lễ ra mắt trụ trì đã chính thức diễn ra tại chánh điện chùa Quang Minh ở số 177 Morris Street, Sunshine, Victoria. Trong buổi lễ ra mắt này, Hòa Thượng đã giới thiệu sơ qua về Đại Đức Thích Tâm Phương trước một số đông đồng hương Phật tử về chùa dự lễ. Qua lời giới thiệu của Hòa Thượng, trên gương mặt của mọi người đều hiện rõ nét vui tươi, vì kể từ đây, ngôi chùa đã thực sự có thầy trụ trì để hướng dẫn dìu dắt Phật tử tu học. Sau đó, Hòa Thượng lần lượt giới thiệu những vị trong Ban Trị Sự.

Như vậy, suốt hơn một năm qua, kể từ khi chùa dời về địa chỉ này, công việc chùa phần lớn là do cô Nguyên Lưu và cô Phước Thuận đảm đang gánh vác hết mọi việc. Nhưng phần đám sám cúng bái cầu siêu cuối tuần vào mỗi sáng chủ nhật là do hai đạo hữu: Thiện Đại và Giác Phụ đảm trách. Còn phần lễ nghi thọ bát quan trai, thì tất cả đều đối trước Tam Bảo tự phát nguyện thọ lấy, vì không có thầy truyền giới. Điều này, đã được Phật chế cho phép, lý do, là vì không có Tăng Ni truyền thọ.

Hôm nay, có thầy rồi, thì Phật tử về chùa thọ bát cảm thấy rất vui mừng phấn khởi. Ai nấy đều vui cười hỷ hả hiện rõ trên gương mặt thân thương của mỗi người.

Sau khi đảm nhận trách nhiệm trụ trì, Đại Đức Thích Tâm Phương đã đẩy mạnh xúc tiến mọi công việc Phật sự. Ngoài chức vụ trụ trì ra, Hòa Thượng còn cử thầy kiêm nhiệm chức vụ Giáo Hội Phó đặc trách nội vụ. Do đó, mà thầy có đủ tư cách để lo việc Chùa việc Hội. Thầy đã thực hiện một số công tác Phật sự đáng kể như sau:

a) Tiếp tục đẩy mạnh trong công cuộc vận động tài chánh để xây chùa, với ý nguyện chung là quyết tâm tạo cho bằng được một cơ sở rộng lớn làm Trung Tâm Sinh Hoạt Phật giáo tại tiểu bang Victoria. Trong mùa Phật Đản lần thứ 2612, Phật lịch 2532, Tây lịch năm 1988, thay mặt ban vận động, Thầy đã có những lời kêu gọi Phật tử đóng góp, chúng tôi xin ghi chép lại nguyên văn một đoạn chính yếu như sau:

"... Như quý vị đã biết, cùng một nguyện vọng chung suốt trong mấy năm qua, chúng ta đồng một mơ ước mong sao có được một ngôi chùa trang nghiêm và rộng rãi để có nơi tu học và thờ tự, nhưng nguyện vọng đó chúng ta vẫn chưa đủ nhân duyên để thực hiện được.

Nay chúng tôi là những người đang thay mặt cho quý vị, cũng như nhận sự chỉ giáo của Hòa Thượng, đứng ra vận động và xây dựng ngôi nhà Phật Giáo tại tiểu bang Vic- toria này.

Chúng tôi tha thiết kêu gọi gia đình và bạn bè thân hữu của quý vị, đồng hy sinh một khoảng nhỏ lợi tức của chính mình, và gia đình của quý vị, cùng nhau phát tâm ủng hộ, cúng dường hoặc cho mượn, để góp phần công đức cho nguyện vọng chung sớm thành tựu.

Thưa quý vị, toàn dự án ở đợt 1 chúng tôi dự tính số phí phải tốn là $800.000 (tám trăm ngàn Úc kim. Số tiền này chúng ta chia làm 2 phần, $300.000 (ba trăm ngàn) chúng ta mua đất và $500.000 (năm trăm ngàn) chúng ta xây dựng ngôi chánh điện.

Đã tích cực hoạt động thường xuyên ủng hộ cho chùa. Phải nói Phật tử Thùy Hoàn là người rất có công lao đóng góp trong việc vận động ủng hộ gây quỹ cho chùa từ trước tới nay. Đồng thời, cô cũng là người giữ chức vụ Liên Chúng Trưởng trong đạo tràng Quang Minh liên tục trong suốt thời gian mười năm qua. Riêng Phật tử Diệu Độ đã vãng sanh cách nay cũng khá lâu ở tại chùa Linh Sơn, Melbourne.

Sau đại hội này một Ban Trị Sự mới, liền bắt tay vào việc là tổ chức một buổi Đại Lễ Vu Lan trọng thể tại Hall trường trung học Maribyrnong, với số người tham dự rất đông, có lễ bông hồng cài áo lần đầu tiên tổ chức rất đặc sắc. Người xướng ngôn điều khiển cho chương trình của buổi lễ này, là pháp hữu Thiện Đại. Sau buổi lễ chánh thức, có chương trình văn nghệ, do Gia Đình Phật Tử Đại Bi Quan Âm phụ trách trình diễn.

Sau đại lễ Vu Lan, vì nhu cầu Phật sự cấp thiết tại Tây Úc, nên Đại Đức Thích Phước Nhơn phải trở lại Tây Úc để tiếp tục lãnh đạo hoạt động Phật sự. Hòa Thượng Thích Phước Huệ tạm thời lãnh đạo tinh thần Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Victoria.

Tạo mãi cơ sở lần thứ hai

Sau khi nhận lãnh vai trò lãnh đạo tinh thần, Hòa Thượng cùng Ban Trị Sự kêu gọi Phật tử cho Hội mượn một số tiền không lời cộng với số tiền lạc quyên do quý Phật tử phát tâm hỷ cúng cũng như số tiền bán căn nhà số 8 như đã nói ở trên, và một số ngân quỹ còn trong ngân hàng, nên Hội đã mua được căn nhà rất khang trang tại số 177
Morris St. Sunshine, Vic. với giá tiền là $80.000 (tám chục ngàn Úc kim). Người đại diện cho công ty mua bán đất đai nhà cửa là anh Lê Bá Thuần. Anh này về sau đã
được cử vào trong Ban Kiến Thiết của Hội sẽ nói đến ở phần sau.

Thiên di chùa lần thứ ba

Sau khi đạo hữu Từ Thục Lê Bá Thuần lo hoàn tất mọi thủ tục hành chánh, thì hai vị đại diện Giáo Hội ký vào bản hợp đồng, là đạo hữu Hồng Nhơn Phan Văn Đạt với chức vụ là Giáo Hội Phó Nội Vụ xử lý Thường Vụ Hội Trưởng và đạo hữu Thiện Đại Lê Văn Bé với chức vụ là Tổng Thơ Ký.

Mọi thủ tục đã lo xong, kế tiếp là lo sửa sang trang hoàng lại bên trong, tức nơi chỗ thờ Phật chánh thức, để chuẩn bị cho việc dời chùa thỉnh Phật về tôn thờ. Sau khi công việc chuẩn bị đâu vào đó hoàn tất, lại một lần nữa, chùa được dời về tại địa điểm này vào thứ sáu ngày 8 tháng 11 năm 1985 (nhằm ngày 26 tháng 9 năm Ất Sửu). Đây là việc dời chùa lần thứ ba.

Bấy giờ, Hòa Thượng lại bỏ hai chữ danh xưng hiệu chùa Quan Âm mà đổi lại hiệu chùa là Nhật Quang Biến Chiếu Quang Minh, gọi tắt là Quang Minh. Hai chữ Quang Minh bắt đầu có từ đó mãi cho đến hôm nay. Vì Quang Minh là nghĩa sáng suốt. Hòa Thượng nói: "chùa khi còn ở địa chỉ 112 Pilgrim, sao mà nó quá tối tăm như hang chuột, nhà chỉ có một cửa trước thông vào, còn bên trong thì lại tối om, phía sau thì lại bị chấn ngang không có sân sau, cho nên, chùa không thể nào phát triển được. Lại

thêm những lúc trời mưa to, thì phải dùng thau để hứng những nơi dột nước mưa nhiễu xuống. Trông rất là buồn thảm! Để không còn cái cảnh tối tăm ảm đạm đó nữa, nên Hòa Thượng đổi danh xưng hiệu chùa lại là Quang Minh. Chùa có quang minh sáng sủa, thì mọi sinh hoạt Phật sự mới phát triển hanh thông trôi chảy khởi sắc được". Đó là lý do chính yếu mà Hòa Thượng đã đổi lại tên chùa.

Sau khi sắp xếp mọi việc đâu vào đó ổn định xong, Hòa Thượng cùng Ban Trị Sự liền tổ chức một buổi lễ An Vị Phật. Một buổi lễ An Vị Phật đã được tổ chức vào chủ nhật ngày 10 tháng 11 năm 1985. Trong buổi lễ này, tuy khung cảnh chật chội, nhưng Phật tử về tham dự rất đông. Thậm chí bên trong chánh điện không còn chỗ để Phật tử đứng hành lễ. Một số người phải đứng dọc theo lối đi bên cạnh chánh điện. Một số khác thì phải đứng bên ngoài phía trước chánh điện hướng mặt vô điện Phật mà hành lễ.

Buổi lễ diễn ra thật vô cùng trang trọng đầy thâm tình bạn đạo. Trong buổi lễ này, ngoài Hòa Thượng làm chủ lễ ra, còn có sự tham dự của Thượng Tọa Thích Huyền Tôn, Đạo hữu Hồng Nhơn, Đạo hữu Thiện Đại và một số quý vị khác trong Ban Trị Sự. Sau khi làm lễ xong, Hòa Thượng ban cho mọi người một thời pháp thoại ngắn. Buổi thọ trai hôm đó, tuy đạm bạc đơn sơ, nhưng tràn đầy thâm tình đạo vị thật là hết sức ấm cúng.

Kể từ khi chùa dời về đây, dưới sự lãnh đạo chỉ giáo gián tiếp của Hòa Thượng, mọi công việc Phật sự tương đối có thêm phần phát triển khởi sắc. Chùa lúc này chưa có vị trụ trì để trực tiếp hướng dẫn Phật tử tu học. Chỉ có cô Nguyên Lưu (lúc đó chưa thọ giới Tỳ kheo) đã được Hòa Thượng cử làm xử lý thường vụ, và cô Phước Thuận xuất gia ở chùa phụ lực. Bên cạnh đó, còn có ba đạo hữu nồng cốt là: Hồng Nhơn (Thích Phước Hựu), Thiện Đại (Thích Phước Thái) và đạo hữu Giác Phụ (Thích
Phước Thiền), thường xuyên tới lui chùa để phụ lực hướng dẫn Phật tử thọ Bát quan trai và hành lễ tu học.

Những diễn tiến Phật sự tại nơi đây

Thời gian này (1985), cứ mỗi hai tuần Phật tử về chùa thọ Bát quan trai một lần. Vào thời điểm này, ở vùng Đông Nam Melbourne thị trấn Springvale chưa có lập chùa. Nên cuối tuần quý Phật tử ở vùng đó cũng như ở các vùng phụ cận khác đều hội tụ về chùa mỗi lúc một đông hơn. Vì muốn đáp ứng nhu cầu đám sám và trợ niệm cho những Phật tử trong giờ phút hấp hối lâm chung, cũng như những người quá vãng, nên chùa quyết định thành lập một Ban Hộ Niệm để lo cho vấn đề này.

Thế là, vào ngày 31 tháng 8 năm 1986, sau khi công cử biểu quyết, một Ban Hộ Niệm đã hình thành, do đạo hữu Thiện Đại làm Trưởng Ban, với sỉ số ban viên khoảng 15 vị.

Qua một tháng vận động kể từ ngày 20 tháng 2 năm 1988, đến ngày 20 tháng 3 năm 1988, chúng tôi được 100 gia đình phát tâm ký vào sổ vàng hứa cúng với số tiền được $80.000 (tám chục ngàn Úc kim).

Thưa quý vị, đặc biệt chúng tôi chưa nhận tiền của quý vị ngay từ bây giờ, mà chúng tôi kính mời quý vị hứa ký vào sổ vàng với số tiền hứa cúng tùy tâm của quý vị.

Đến khi nào chúng tôi tìm được đất thích hợp, cũng như được phép xây dựng chùa, chừng ấy chúng tôi kính lời thông báo đến quý vị, đồng chung nhau đóng góp.

Kính thưa quý vị, để cho Ban Vận Động được yên tâm xúc tiến công tác Phật sự hết sức quan trọng trên, ước mong lời kêu gọi này được gia đình quý vị phát tâm đáp ứng tích cực cho nguyện vọng chung sớm thành tựu".

b) Hợp tác cùng Tổng vụ Hoằng Pháp khai giảng khóa Phật Pháp Phổ Thông căn bản cho Phật tử xuất gia và tại gia dự học. Số học viên ghi danh thụ học chánh thức có trên
30 vị. Khóa học kéo dài khoảng 2 năm, từ tháng 4 năm 1987 đến tháng 4 năm 1989.
Thời gian học vào lúc 2 giờ chiều mỗi ngày chủ nhật tại nhà đậu xe sửa lại ở phía sau chùa.

Tài liệu giảng dạy là 4 khóa Phật Học Phổ Thông do cố Hòa Thượng Thiện Hoa biên soạn. Ban giảng huấn gồm có: Hòa Thượng Thích Phước Huệ chủ giảng. Thượng Tọa Thích Huyền Tôn. Đại Đức Thích Tâm Phương và hai pháp hữu: Hồng Nhơn, Thiện Đại.

Sau khi học xong 4 khóa từ quyển 1 cho đến hết quyển 4, tức xong phần giáo lý Tứ Diệu Đế Thanh Văn thừa. Ban giảng huấn có tổ chức kỳ thi tốt nghiệp mãn khóa, bằng cách viết tiểu luận. Kết quả, học viên Thúy Phượng Nguyễn Thị Minh Nguyệt trúng tuyển hạng nhứt. Một buổi lễ trao chứng chỉ danh dự ưu hạng vào sáng thứ bảy ngày
8/4/1989 tại giảng đường chùa Quang Minh cũ. Chứng chỉ và phần thưởng nầy chính do Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo trao tận tay. Bài của cô viết đã được
đăng trên tờ Nguyệt San số 6 của cơ quan ngôn luận Phật Giáo Việt Nam vào dịp Đại
Lễ Phật Đản lần thứ 2613 năm 1989.

c) Để cho công việc chùa được trôi chảy hơn, vào ngày 31 tháng 5 năm 1987, thầy Tâm Phương mời Phật tử về chùa họp để bầu một Ban chức sự chùa. Sau khi thảo luận và công cử, một Ban Chức Sự chùa đã được hình thành như sau:

  • Chứng minh: Hòa Thượng Giáo Hội Trưởng.
  • Trực tiếp chỉ đạo: Đại Đức Thích Tâm Phương.
  • Cố vấn các ban : Ni Cô Nguyên Lưu.

Thành phần các ban:

Ban tri sự chùa:
  • Trưởng ban: Đạo hữu Thiện Đại Lê văn Bé.
  • Phó ban : Đạo hữu Giác Phụ Lê văn Quế.
Ban tri khách
  • Trưởng ban: Đạo hữu Minh Thông Đào Quang Ngãi.
  • Các ban viên: Tâm Thông Tài Tôn Thất, Tâm Chơn Nguyễn Kim Ngân.
Ban hương đăng
  • Đạo hữu Diệu Minh Nguyễn Thị Hồng Sang
  • Đạo hữu Diệu Toàn Nguyễn Thế Toản.
Ban trù đường
  • Trưởng ban: Đạo hữu Diệu Độ Trương Thị Phong.
  • Phó ban 1: Đạo hữu Tâm Minh Nguyễn Thị Minh Nguyệt
  • Phó ban 2: Đạo hữu Tâm Chơn Nguyễn Kim Ngân. Phó ban 3: Đạo hữu Diệu Đạo Huỳnh Thị Sạn.
  • Phó ban 4: Đạo hữu Chúc Đại Hồ Thị Lớn. Thơ ký: Đạo hữu Giác Phụ Lê Văn Quế.
  • Thủ bổn: Đạo hữu Thùy Hoàn Mai Thị Ngọ.
Các toán Ban trù đường:
  • Toán 1: Tâm Minh, Tâm Hòa, Diệu Ngộ, Thùy Hoàn.
  • Toán 2: Tâm Chơn, Diệu Nguyện, Hạnh Ngọc, Diệu Quang.
  • Toán 3: Diệu Đạo, Diệu Thạnh, Diệu Toàn, Diệu Quang.
  • Toán 4: Chúc Đại, Tịnh Nghiêm, Vạn Ninh, Diệu Độ.

d) Đã vận động Phật tử đóng góp và mua được lô đất mà ngôi chùa hiện đang tọa lạc.

đ) Đạo tràng Cực Lạc liên hữu phục hoạt trở lại vào năm 1989. Sau đó, tạm ngưng sinh hoạt một thời gian cho đến khi thầy Tâm Phương rời khỏi chùa Quang Minh.

e) Đầu năm 1989, nhân dịp đầu xuân, pháp hữu Thiện Đại lần đầu tiên, đã đứng ra tổ chức thuê xe buýt hành hương mười chùa chung quanh những ngôi chùa trong phạm vi tiểu bang Victoria. Số Phật tử hưởng ứng tham dự trong cuộc hành hương lần đầu tiên này là 2 chiếc xe buýt, khoảng gần cả trăm người. Đó là khởi nguyên của việc hành hương thập tự ở tiểu bang Victoria và từ đó, việc tổ chức hành hương đầu năm đã trở thành một thông lệ mãi cho đến ngày hôm nay.

f) Hợp tác cùng với Tổng Vụ Hoằng Pháp tổ chức khóa tu học 5 ngày từ ngày 1.1.1990 đến 5.1.1990 với danh xưng là khóa Thiền Trúc Lâm Yên Tử, có trên 60 tu sinh dự tu ở vùng núi Dandenong.

Ngoài ra, còn có tổ chức những buổi đại lễ Phật giáo như Phật Đản, Vu Lan v.v...Từ khi nhận lãnh trách nhiệm trụ trì cho đến khi thầy Tâm Phương rời khỏi Quang Minh vào khoảng đầu năm 1990, để kiến lập ngôi tự viện Quảng Đức hiện nay, tính ra thời gian là 3 năm.

Bổ nhiệm trụ trì lần thứ hai

Khi thầy Tâm Phương ra đi rồi, chùa lại không có trụ trì. Lúc này, công việc Phật sự lại gia tăng nhiều hơn. Thế nên, chùa không thể nào không có vị trụ trì. Do đó, Hòa Thượng lại bổ nhiệm Đại Đức Thích Như Định về làm trụ trì. Nhưng rất tiếc, thầy Như Định vì thiếu nhân duyên nên không thể ở chùa Quang Minh dài lâu. Thầy chỉ ở Quang Minh trước sau khoảng 6 tháng, rồi thì thầy cũng từ giã Quang Minh ra đi.

Trong thời gian thầy Như Định làm trụ trì ở Quang Minh, mọi công việc Phật sự vẫn sinh hoạt bình thường như trước không có gì tiến triển khởi sắc mới mẻ. Chỉ có Đạo Tràng Cực Lạc Liên Hữu tạm ngưng hoạt động. Cần nói rõ thêm về vấn đề này. Sau khi thầy Tâm Phương ra đi, khoảng thời gian đó chưa có trụ trì, nên quý liên hữu trong đạo tràng do liên hữu Tịnh Đức (Thiện Đại) lãnh đạo trực tiếp hướng dẫn, lại kéo nhau trở về chùa để sinh hoạt phụ giúp công quả cho chùa cùng tiếp tay phụ lực với Ni Cô Nguyên Lưu. Đến khi thầy Như Định về làm trụ trì, đạo tràng vẫn tiếp tục sinh hoạt, nhưng thời gian không bao lâu, vì nghịch duyên nên đạo tràng lại tạm ngưng sinh hoạt một lần nữa.

Sau khi thầy Như Định rời khỏi Quang Minh, một lần nữa, chùa Quang Minh lại vắng bóng trụ trì. Để chỉnh đốn lại đạo tràng, một Quyết Định do Hòa Thượng Liên Trưởng từ Phước Huệ Đạo Tràng gởi xuống. Nguyên văn của bản Quyết Định với nội dung như sau:

  • Tham chiếu phiên họp Hội Đồng Liên Xã Phước Huệ Đạo Tràng ngày 20 tháng 9 năm 1991.
  • Tham chiếu nhu cầu Phật sự của một số liên hữu ở chùa Quang Minh yêu cầu.

Quyết Định

ĐIỀU I: Nay chỉnh đốn các Liên Hữu Chùa Quang Minh thành lập Liên Ban Cực Lạc Liên Hữu Quang Minh Đạo Tràng là một chi nhánh, trực thuộc Liên Xã Cực Lạc Liên Hữu Phước Huệ Đạo Tràng.

ĐIỀU II: Mọi sinh hoạt Phật sự của Liên Ban Cực Lạc Liên Hữu Quang Minh Đạo Tràng đều căn cứ theo Quy Ước sinh hoạt của Liên Xã Cực Lạc Liên Hữu Phước Huệ Đạo Tràng (sẽ được biểu quyết trong ngày Đại Hội 21– 22.12.91

ĐIỀU III: Nay đề cử Liên Hữu Tịnh Đức địa chỉ số 1 Lachlan Rd West Sunshine Vic 3020, là Ban Trưởng Liên Ban Cực Lạc Liên Hữu Quang Minh Đạo Tràng. Liên Hữu Tịnh Đức có nhiệm vụ thành lập Ban Chấp Hành của Liên Ban và đệ trình về Liên Xã để hợp thức hóa trong vòng 1 tháng kể từ ngày ký Quyết Định này.

ĐIỀU IV:Ghi nhận Công Đức của Liên Hữu Tịnh Đức và các Liên Hữu Quang Minh Đạo Tràng đã nhiệt tâm xây dựng công tác Phật sự chung.

ĐIỀU V: Quyết Định này có hiệu lực kể từ ngày ký. Làm tại Sydney ngày 9 tháng 10 năm 1991.

Liên Trưởng
Ký tên
Tịnh Lạc

Sau khi nhận được Quyết Định này, Liên Hữu Tịnh Đức đã triệu tập quý liên hữu về chùa Quang Minh họp để nghe "Quyết Định" và rồi chỉnh đốn củng cố lại Đạo Tràng. Sau khi thành lập Ban Chấp Hành, liên hữu Tịnh Đức có đệ trình danh sách Ban Chấp Hành và quý liên hữu cũ và mới lên cho Hòa Thượng Liên Trưởng để duyệt xét và chuẩn y.

Từ đó, mọi sinh hoạt trở lại bình thường như trước, mãi cho đến khi thầy Minh Trí về làm trụ trì. (vấn đề này có nói qua trong tập sách nhỏ mang tựa đề là: "Một Đạo Tràng Lý Tưởng", cùng một tác giả biên soạn, quý vị nào muốn biết rõ thêm, xin đọc tập sách này).

Bổ nhiệm trụ trì lần thứ ba

Thế là, một lần nữa, chùa lại vắng bóng trụ trì. Công việc chùa càng lúc càng nhiều, nhất là vấn đề đám sám cầu siêu. Một mình Ni Cô Nguyên Lưu, phần thì trọng tuổi già yếu, phần thì nghi lễ không rành, nên việc tụng niệm cầu siêu hay đi đám tang, mọi việc đều do hai đạo hữu: Thiện Đại và Giác Phụ đảm trách toàn bộ. Tình trạng này, không thể kéo dài lâu được, nên cần phải thỉnh cho được một vị thầy về làm trụ trì.

Sau khi bàn thảo hội ý với nhau, tất cả đều đồng ý nên thỉnh cầu Hòa Thượng bổ nhiệm thầy Minh Trí về làm trụ trì. Lúc bấy giờ, thầy Minh Trí đang ở chùa Pháp Bảo, do Thượng Tọa Thích Bảo Lạc bảo lãnh.

Cần nhắc lại, khi mọi người góp ý thỉnh thầy Minh Trí, là vì trước đó vài ngày, thầy Minh Trí có xuống Melbourne và đến thăm chùa Quang Minh. Nhân đó, Ni Cô Nguyên Lưu và một vài Phật tử có ngỏ ý thỉnh thầy. Thầy rất hoan hỷ, nhưng phải bạch trình với Hòa Thượng để cho Hòa Thượng biết qua mà có thể bổ nhiệm. Sau khi trình bày tâm nguyện của Ban Trị Sự và quý liên hữu Phật tử muốn cung thỉnh thầy Minh Trí về làm trụ trì chùa Quang Minh. Thể theo nguyện vọng tha thiết thỉnh cầu đó, Hòa Thượng đã đồng ý chấp thuận. Với tư cách là Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo, Hòa Thượng ra Quyết Định số: 07/92/VHĐ/VP/QĐ bổ nhiệm thầy Minh Trí về làm trụ trì chùa Quang Minh.

Được tin này, mọi người rất vui mừng phấn khởi. Thế là, một buổi lễ ra mắt trụ trì được diễn ra vào lúc 11 giờ sáng thứ sáu ngày 12/6/1992 tại chánh điện, dưới sự chứng minh của Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo và đông đủ liên hữu Phật tử tham

dự. Buổi lễ diễn ra trong một khung cảnh rất ấm cúng trang nghiêm chứa chan đầy thâm tình đạo vị. Và hơn thế nữa, là đậm đà tình nghĩa thầy trò. Thầy Minh Trí ngoài chức vụ trụ trì ra, Hòa Thượng còn giao cho thầy nhận lãnh thêm chức vụ làm phụ tá Giáo Hội Trưởng. Cần nói rõ thêm, khi ban đạo từ trong buổi lễ này, Hòa Thượng nhấn mạnh là Hòa Thượng mong rằng: "kể từ hôm nay trở đi, thầy Minh Trí sẽ là trụ trì chùa Quang Minh vĩnh viễn, đừng như hai vị trước kia, nửa chừng lại xách gói ra đi. Đó là điều mà tôi (HT) rất tin tưởng vào sự ủng hộ của quý vị, nhất là quý vị trong Ban Trị Sự".

Sau khi thầy Minh Trí chánh thức làm trụ trì, quý liên hữu đến chùa thọ bát quan trai được hai kỳ đầu (2 tuần thọ một lần vào ngày chủ nhật), nhưng đến kỳ thứ ba, thì thầy Minh Trí công bố là không có thọ bát nữa. Việc quý liên hữu ngưng thọ bát, liên hữu Tịnh Đức (Trưởng Ban Cực Lạc Liên Hữu do Quyết Định của Hòa Thượng công cử đã nêu trên) không hề hay biết. Vì thầy Minh Trí không cho biết và thầy cũng không có nói rõ lý do vì sao phải tạm ngưng thọ bát như thế. Việc nầy, chứng tỏ thầy Minh Trí không tôn trọng "Quyết Định" của Hòa Thượng Liên Trưởng.

Sở dĩ nêu ra trường hợp của thầy Minh Trí như thế, là vì trong 3 vị trụ trì chùa Quang Minh, mà thầy Minh Trí là một trường hợp rất đặc biệt. Thầy đã được quý liên hữu Phật tử tha thiết thỉnh cầu. Nhưng rất tiếc là thầy không đáp lại đúng theo nhu cầu thiết yếu tu học của họ.

Thế là, từ đó, thêm một lần nữa, đạo tràng lại phải tạm ngưng sinh hoạt thời gian dài mãi cho đến tháng 12 năm 1998, mới bắt đầu sinh hoạt trở lại và cho đến ngày hôm nay.

Trở lại vấn đề trên, sở dĩ chúng tôi nêu ra dài dòng như thế, để thấy rằng sự kiên định lập trường của đạo tràng, khi đủ duyên thì mọi người sinh hoạt tu học, không đủ duyên, thì lại tạm ngưng. Đơn giản chỉ có thế thôi! Tạm ngưng, nhưng không bao giờ tan rã hẳn. Chỉ tạm ngưng trên phương diện của một tổ chức, chớ không phải tạm ngưng trong tinh thần tu học hay đi chùa. Chùa đâu có lỗi gì mà không đi.

Cứ mỗi lần vắng bóng trụ trì, thì chính những gương mặt thân thương đó, lại kéo nhau về chùa để hết lòng đóng góp phụ giúp cho chùa bằng mọi hình thức, tùy theo khả năng sẵn có của mình. Trong thời gian tạm ngưng sinh hoạt, nhưng mọi người vẫn luôn tới chùa không bao giờ tỏ thái độ buồn giận oán trách ai, mà chỉ nghĩ rằng việc tu hành đôi khi cũng bị những nghịch cảnh chướng duyên thử thách. Có thử thách khó khăn thì mới đo đạc được lòng dạ trung kiên của con người.

Tân Ban trị sự

Trong dịp Đại Lễ Vu Lan khoảng tháng 8 năm 1992, Hòa Thượng Giáo Hội Trưởng đã công bố danh sách thành phần Ban Trị Sự mới. Thành phần Ban Trị Sự mới gồm có:

  • Giáo Hội Trưởng: Hòa Thượng Thích Phước Huệ.
  • Phụ tá GHT : Đại Đức Thích Minh Trí.
  • Giáo Hội Phó Nội Vụ: Đạo hữu Minh Chiếu Nguyễn Văn Gấm.
  • Giáo Hội Phó Ngoại Vụ: Đạo hữu Minh Từ Đặng Văn Hiền.
  • Giáo Hội Phó Đặc Trách kế hoạch: Đạo hữu Trần Đăng Khoa.
  • Tổng Thơ Ký: Đạo hữu Thiện Đại Lê Văn Bé.
  • Phó Tổng Thơ Ký: Đạo hữu Huệ Châu Nguyễn Thị Ánh Ngọc.
  • Chánh Thủ Quỹ: Đạo hữu Nhật Mỹ Lê Kim Thanh.
  • Phó Thủ Quỹ: Đạo hữu Nguyên Hải Phạm Gia Châu.
  • Ủy Viên Nghi Lễ: Đại Đức Thích Tâm Phương.
  • Ủy Viên Pháp Chế: Đạo hữu Nguyễn Thanh Thúy.
  • Ủy Viên Hoằng Pháp: Đạo hữu Thiện Đại Lê Văn Bé.
  • Ủy Viên Cư Sĩ: Đạo hữu Nguyên Quán Đỗ Đình Chi.
  • Ủy Viên Giáo Dục: Giáo sư Phan Văn Giưỡng.
  • Ủy Viên Kiến Thiết: Đạo hữu Từ Thục Lê Bá Thuần.
  • Ủy Viên Thanh Niên: Đạo hữu Minh Hoàng Diệp Khôi.
  • Ủy Viên Báo Chí: Đạo hữu Huệ Châu Nguyễn Thị Ánh Ngọc.
  • Ủy Viên Văn Hóa: Đạo hữu Lâm Trí Dũng.
  • Ủy Viên Xã Hội: Đạo hữu Nguyễn Văn Hào.
  • Ủy Viên Vận Động Tài Chánh: Đạo hữu Hà Tiến Dẫn.
  • Ủy Viên Liên Lạc: Đạo hữu Minh Trí Huỳnh Văn Khôi.
  • Ủy Viên Hộ Trì Tam Bảo: Đạo hữu Diệu Minh Nguyễn Hồng Sang.

Việc bổ sung nhân sự vào trong Ban Trị Sự quả là một lực lượng rất hùng hậu. Những Phật tử dù mới hay cũ, tất cả cũng đều có chung một tâm nguyện là ước mong sao tại tiểu bang nhà có được một ngôi chùa kiểu mẫu khang trang rộng lớn để đủ sức dung chứa mọi người đến chiêm bái hành lễ tu học. Đó là nguyện vọng mà họ đã từng mong ước từ bấy lâu nay. Họ thay mặt cho Phật tử quyết tâm tham gia vào Ban Trị Sự, chỉ có mỗi một mục đích duy nhất, là mong sao được đóng góp công sức của mình phần nào vào công việc ích lợi chung này. Do đó, mà họ không ngần ngại phát tâm nhận lãnh trách vụ mà được trên Hòa Thượng và Phật tử giao phó. Tuy nhiên, tâm nguyện thiện chí của họ tuy sẵn có, nhưng còn phải tùy duyên và tùy theo hoàn cảnh của mỗi người mà họ hết lòng phụng sự đóng góp.

Sự đóng góp công sức và tài vật đó, được đánh giá qua tâm hành bao dung rộng mở của mỗi người. Dù có gian lao nguy khốn, nhưng lý tưởng quyết phải đạt cho kỳ được. "Khó khăn nào cũng phải vượt qua, nhiệm vụ nào cũng phải hoàn thành", đó là khẩu hiệu bằng tất cả tâm thành phấn đấu của người Phật tử.

C. Tiến Hành Xây Dựng Cơ Sở Đại Quy Mô:

III. THỬ THÁCH LỚN LAO

Chướng ngại buổi đầu

Vấn đề Hội đã tạo mãi được miếng đất này và tiến hành công việc gặp những khó khăn rắc rối phức tạp ra sao, đồng thời, Hội phải ứng phó giải quyết qua từng giai đoạn khó khăn này như thế nào, đó là những vấn đề mà chúng tôi xin được trình bày cặn kẽ sau đây.

Như đã nói ở trên, kể từ sau ngày Hòa Thượng chánh thức nhận lãnh trách nhiệm Giáo Hội Trưởng, Hòa Thượng đã nghĩ ngay đến việc kiến tạo ngôi chùa khang trang quy mô làm trung tâm văn hóa Phật giáo tại tiểu bang Victoria. Đó là một tâm nguyện lớn lao nhứt của Hòa Thượng, cũng như của toàn thể Phật tử tại tiểu bang nhà.

Cũng chính vì cái tâm nguyện lớn lao đó, mà trong suốt thời gian kể từ năm 1986 mãi cho đến khi tạo mãi được miếng đất, không lúc nào Hòa Thượng không quan hoài đến việc xây dựng ngôi chùa.

Trong suốt thời gian từ năm 1987 đến 1990, Hòa Thượng cùng một vài vị trong Ban Trị Sự đã đi tìm kiếm rất nhiều miếng đất, nhưng không chỗ nào vừa ý. Bởi lẽ, vì là đất xây chùa, nên cần phải có một cảnh trí tương đối khá yên tĩnh, trang nhã và phải cách xa dân cư chung quanh để tránh sự phiền toái rắc rối sau này. Nhưng cũng không thể cách quá xa thành phố, nơi có nhiều đồng hương Phật tử quy tụ sinh sống. Nếu cách quá xa, thì rất trở ngại cho việc họ tới lui tu học hoặc cúng bái lễ lộc cầu siêu, cầu an v.v...

Bởi những lý do trên, nên suốt thời gian dài mà chưa tìm ra được một thửa đất nào thích hợp với ý mình muốn. Một cơ may đưa tới, số là, anh Đặng Văn Hiền nhân đọc báo, thấy chủ đất đăng tin bán miếng đất này (chánh điện tạm hiện nay). Sau đó, thầy Tâm Phương và một vài Phật tử đến tận nơi xem qua và rồi trình lên cho Hòa Thượng biết. Nhận được tin, Hòa Thượng liền xuống Melbourne cùng với một vài vị trong Ban Trị Sự đến nơi xem qua. Mọi người đều vừa ý và quyết định hối thúc Hòa Thượng nên mua gấp. Nếu bỏ lỡ cơ hội này, thì sau này rất khó tìm.

Thể theo ý kiến của mọi người, Hòa Thượng liền giao trách nhiệm cho anh Huỳnh Công Hiệp, vì anh là Tổng thơ ký (thời gian này là nhiệm kỳ II của Giáo Hội: 1987 – 1989, pháp hữu Thiện Đại, vì lý do sức khỏe xin nghỉ chức vụ Tổng thơ ký, nên Hòa Thượng mời đạo hữu Huỳnh Công Hiệp giữ chức vụ này) của Hội nên liên lạc với chủ đất để dọ hỏi giá cả. Sau thời gian kèn cựa qua lại, cuối
cùng họ quyết định bán với giá là 305 ngàn Úc kim. Đây là lô đất đầu tiên với diện tích là 4.448 m2. Lô đất này mua vào ngày 3 tháng 5 năm 1990. Tính từ khi bắt đầu dọ hỏi giá cả, cho đến khi ngã giá trải qua thời gian là 5 tháng.

Sau khi mua đất xong, giai đoạn kế tiếp là xúc tiến ngay việc thiết lập hồ sơ để xin giấy phép quy hoạch (Planning permit). Trước hết phải có cái họa đồ (theo nguyên tắc coun- cil đòi hỏi), tức thiết kế họa đồ tổng thể. Thế là Hòa Thượng mời anh Kiến Trúc Sư (KTS) Trần Nam Sanh để lo vấn đề thiết kế này. Trong một buổi họp của Ban Trị Sự, có mặt anh Trần Nam Sanh, Hòa Thượng và Ban Trị Sự góp ý với anh Sanh để anh có một ý niệm tổng quát mà phát họa ra toàn bộ mô hình. Anh đã thực hiện một bản vẽ

toàn khối vị trí xây cất các công trình với bình đồ, thiết đồ ngang dọc các diện đồ và phối cảnh đủ để lập hồ sơ xin giấy phép.

Tác phẩm này chính do anh đã bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức (không nhận thù lao) để thực hiện. Lẽ ra, công trình thiết kế này, sẽ do anh thực hiện cho đến khi hoàn tất xây cất. Nhưng rất tiếc, vì anh quá bận công việc mưu sinh gia đình, nên anh không thể tiếp tục thực hiện ở giai đoạn xin giấy phép xây cất (building permit).

Thiết lập các bản vẽ xong, Hội liền cử anh Hiệp lãnh trách nhiệm thay mặt Hội để lo nộp hồ sơ cho tòa thị chính Sunshine để xin giấy phép về chỉnh trang đô thị (Town Planning Permit).

Vài tuần sau, Hội đã nhận được giấy phép, do tòa thị chính Sunshine cấp. Tuy nhiên, sau đó, họ yêu cầu Hội phải tiến hành lo việc thử nghiệm đất (soil test) để bổ túc vào hồ sơ.

Việc thử nghiệm đất lần đầu đã được tiến hành do công ty ACC Koodward Clyde phụ trách.

Lễ đặt Đá

Có giấy phép trong tay, Hội liền xúc tiến ngay việc đặt viên đá đầu tiên. Một buổi lễ đặt đá đã diễn ra vào lúc 11 giờ sáng thứ bảy ngày 21 tháng 9 năm 1991.

Trước đó một ngày, Đại Đức Thích Tâm Phương phó ban tổ chức đặc trách trần thiết, cùng bác Minh Chiếu và một số Phật tử túc trực trên mảnh đất suốt ngày hôm ấy để lo điều động nhân sự dựng lều và sắp đặt bàn ghế. Khổ nỗi, vì gió quá lớn, nên rất khó dựng lều. Những nhân công đến dựng lều, đều tỏ ra rất bực dọc, khốn khó và chán nản, họ muốn bỏ cuộc ra về. Nhưng, thầy Tâm Phương và bác Minh Chiếu phải hết lời năn nỉ, họ mới chịu giúp giùm. Nếu không, thì hỏng việc, vì sáng mai là ngày lễ chánh thức. Nên nhớ rằng, đây là một buổi lễ rất quan trọng, vì sau hơn 10 năm mòn mỏi đợi chờ, nay mới có được ngày này. Do đó, Ban tổ chức đã đạt thơ mời rất rộng rãi.

Cuối cùng, họ phải cố gắng vật lộn hết sức khó khăn vất vả với thần gió, nên việc căng lều mới được hình thành. Suốt đêm hôm đó, bác Minh Chiếu cùng một số các anh chị em trong Gia Đình Phật Tử ở lại để trông nom đồ đạc (vì sợ kẻ bất lương đến thăm viếng thì nguy to).

Phải thành thật mà nói rằng, suốt ngày hôm ấy, Ban tổ chức, nhứt là Hòa Thượng đều tỏ ra rất ưu tư lo lắng. Mọi người đều thầm cầu nguyện ngày mai trời sẽ quang đãng tươi sáng hơn.

Sáng lại, trước khi buổi lễ chánh thức cử hành, tuy bầu trời có âm u, nhưng không đến nỗi xấu lắm.

Từ các nơi, đồng hương Phật tử lần lượt tựu về, mỗi lúc mỗi đông hơn, cho đến khi bắt

đầu hành lễ, thì số lượng người dự lễ đông chật cả hội trường (ước lượng có khoảng hơn hai ngàn người).

Thành phần quý quan khách tham dự, ngoài chư Tôn Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni ở tiểu bang Victoria ra, còn có chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng ở các tiểu bang khác về tham dự. Như Thượng Tọa Thích Như Huệ (Nam Úc) Đại Đức Thích Quảng Ba v.v...

Về phần quý quan khách Úc tham dự gồm có các cấp chánh quyền tiểu bang và liên bang, như quý ông:

  • Tổng trưởng tài chánh liên bang Ralph willis, đại diện thủ tướng Bob Hawke.
  • Dân biểu Ian Baker, bộ trưởng nông nghiệp đại diện bà thủ hiến Joan Kirner.
  • Thượng nghị sĩ Jim Short, Tổng trưởng đối lập về tài chánh, đại diện cho Tiến sĩ
  • John Hewson , lãnh tụ đối lập liên bang.
  • Dân biểu Robert Clark, đại diện cho ông Jeff Kennett, lãnh tụ đối lập tiểu bang
  • Victoria.
  • Bà Thượng Nghị Sĩ Licia Kokocinski, vùng Tây Melbourne. Ngoài ra, còn có sự hiện diện của 5 vị thị trưởng: Thị trưởng thành phố Sunshine, Ông Nelson; thị trưởng TP Footscray, Ông Graham; thị trưởng TP Fitzroy, Bà Ireland; thị trưởng TP Collingwood, Bà Fleet; và thị trưởng TP Richmond, Ông Nguyễn Sang và một số nghị viên khác trong đó có nghị viên Trần Đức Dũng mới đắc cử ở Collingwood.
  • Về phía các tôn giáo bạn gồm có: Giám Mục Philip Huggins và Linh Mục Jonh
  • Baldock thuộc Tổ chức Hội Nghị thế giới Tôn Giáo và Hòa Bình.
  • Bà Margaret Gibson Giám Đốc Di Trú và Sắc Tộc tại Miền Tây và các viên chức thuộc Bộ di trú và sắc tộc tại Victoria. Ông Cavito và các đại diện của Phật Giáo Úc, Tích Lan... Và một số giáo sư của các trường Đại Học, các cựu chiến binh Úc tham chiến tại Việt Nam, cùng sự hiện diện của các phóng viên các tờ báo "The Age" "Western Times" "Independent". Đồng thời, với sự hiện diện đại diện của các cơ quan ngôn luận truyền thông, báo chí Việt ngữ tại Victoria.
  • Về phía quý quan khách Việt và Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Victoria gồm có: ông phó chủ tịch Nguyễn Văn Rạng và quý vị đại diện Ban Chấp Hành cũng như một số quý vị đại diện các tôn giáo bạn, các hội đoàn, đoàn thể và toàn thể quý đồng hương Phật tử xa gần đồng về tham dự.

Đúng 11 giờ sáng, buổi lễ chánh thức bắt đầu khai mạc. Trong lúc Hòa Thượng Thích Phước Huệ Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo đọc diễn văn khai mạc và mọi người đang lắng lòng nghe, thì bỗng nhiên trời nổi cơn giông mãnh liệt. Và tiếp theo là một trận mưa to ào ạt trút xuống. Vì gió thổi xoáy mạnh làm cho căn lều bộc gió như muốn tung bay sập ngã. Tất cả mọi người đều sợ hãi, nhôn nhao, hằng ngàn trái tim hồi hộp như muốn ngừng đập cùng một lúc.

Thấy vậy, mọi người tự động đứng lên, kể cả quan khách Úc, ai nấy đều hì hục nắm ghì thật chặt những dây căng lều và bấu víu chung quanh tấm vải dù to lớn. Nhờ thế, mà căn lều không bị tung ngã. Giả như, nếu hôm đó căn lều bị sập ngã đi, thì chắc chắn

buổi lễ sẽ dang dở không thành (vì không có nơi khác để làm lễ). Cũng may, có lẽ nhờ Phật lực thầm gia hộ, nên cơn bão từ từ lắng dịu lại và buổi lễ vẫn tiếp tục cho đến khi hoàn mãn. Phải chăng, đây cũng là điềm báo trước cho những việc khó khăn xảy đến sau này, mà chúng tôi sẽ trình bày sau.

Điều mà không ai có thể phủ nhận được, tinh thần sắc son vì đạo của quý đồng hương Phật tử ngày hôm ấy, họ bất chấp mưa to gió lớn lạnh lẽo, thậm chí có các cụ già tuổi trên 80 mà cũng vẫn có mặt để tham dự. Điều đó, đủ chứng minh rằng, sự vui mừng của họ, khi nhìn thấy sự hình thành của một ngôi chùa ở đây trong tương lai, dù đây mới chỉ là một thành quả đạt được khiêm tốn ở bước khởi đầu. Làm sao không vui mừng cho được?! Suốt hơn mười năm qua, họ hằng ao ước cầu mong sớm có một ngôi chùa, vì ngôi chùa là một biểu tượng thiêng liêng, là truyền thống che chở linh hồn Việt tộc trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và cứu nuớc. Do đó, cho nên nơi nào có Phật tử, thì chắc chắn nơi đó sẽ mọc lên ngôi chùa.

Thành Lập Ban Kiến Thiết

Xin nhắc lại, sau khi kiến trúc sư Trần Nam Sanh bận việc xin nghỉ, Ban Trị Sự liền mời anh kiến trúc sư Võ Trung Trực tiếp tục lo công việc này. Anh Võ Trung Trực là một nhân viên làm việc cho một nhà thầu có tên là AA Group Pty / Ltd.

Sau buổi lễ đặt đá, Hòa Thượng chỉ thị cho Ban Trị Sự cấp thời thành lập một Ban Kiến Thiết để lo xúc tiến công việc xây cất. Thừa chỉ thị này, bác Minh Chiếu, Giáo Hội Phó Nội Vụ đã điện mời một số quý đạo hữu về chùa Quang Minh họp. Buổi họp bắt đầu vào lúc 2giờ30 chiều ngày 22 tháng 12 năm 1991. Với sự có mặt một số quý đạo hữu sau đây:

  • Minh Chiếu Nguyễn văn Gấm
  • Minh Từ Đặng văn Hiền
  • Thiện Đại Lê văn Bé
  • Kiến trúc sư Võ Trung Trực
  • Trần viết Hùng
  • Kỹ sư Vưu chí Dũng.

Sau khi hội thảo góp ý, tất cả đều đồng ý cung thỉnh Hòa Thượng Giáo Hội Trưởng làm Trưởng Ban. Và các đạo hữu khác được cử vào những chức vụ như sau:

  • Phó Ban Đặc Trách Ngoại Vụ: Đạo hữu Minh Từ Đặng Văn Hiền.
  • Phó Ban Đặc Trách Nội Vụ: Đạo hữu Minh Chiếu Nguyễn Văn Gấm.
  • Phó Ban Đặc Trách kỹ thuật: Kiến trúc sư Võ Trung Trực.
  • Thơ ký: Đạo hữu Thiện Đại Lê Văn Bé.
  • Kiểm Soát: Sư Cô Nguyên Lưu.

Các ban viên của nhóm kỹ thuật gồm có:

  • Đạo hữu Trần Đăng Khoa
  • Đạo hữu Trần Viết Hùng
  • Đạo hữu Vưu Chí Dũng.

Sau khi nhận lãnh trách nhiệm, KTS Võ Trung Trực duyệt lại các đồ án thiết kế trước đây, do KTS Trần Nam Sanh thực hiện. Trong một buổi họp có mặt đầy đủ Ban Trị Sự, anh Trực trình bày mọi chi tiết về các đồ án này. Anh cho biết, sau khi duyệt xét, thì các đồ án do anh Trần Nam Sanh vẽ chỉ đủ để xin giấy phép quy hoạch (planning permit). Muốn được giấy phép để thi công, tức giấy phép xây cất (building permit) thì còn có nhiều điểm thiếu sót cần phải được bổ túc. Nhứt là việc đo đạc diện tích phải khá chính xác không được sai lạc nhiều, nên anh cần phải đo lại. Người hợp tác trực tiếp thường xuyên với anh Trực để lo vấn đề xin giấy phép xây cất nầy là ông Samcoco và Vưu Chí Dũng.

Lúc đầu, phần trách nhiệm chính là anh Trực. Anh đã được Hội giao phó và tin tưởng. Vì anh là một Phật tử phát tâm làm việc thiện nguyện góp phần công đức, nên anh không nhận thù lao. Mặc dù Hội có đề nghị trả, nhưng anh nhứt quyết từ chối. Về sau, có lẽ vì anh quá bận việc, nên anh giao lại phần trách nhiệm chính cho ông Samcoco. Song có điều, khi giao trách nhiệm lại cho ông này, anh không có báo cáo cho Ban Kiến Thiết biết.

Cho đến khi, nhân một hôm, Hòa Thượng từ Sydney điện xuống hỏi thăm anh để biết rõ mọi việc tiến hành ra sao, thì lúc đó anh mới cho Hòa Thượng biết là anh đã giao trách nhiệm này lại cho ông Samcoco rồi.

Được tin ấy, sau đó, Hòa Thượng chỉ thị cho bác Minh Chiếu, thay mặt Hội ký giấy giới thiệu ủy quyền cho nhà thầu AA. Mục đích là để cho họ được danh chánh ngôn thuận mà tiện bề tiếp xúc với các cơ quan thẩm quyền liên hệ. Mà người đại diện cho nhà thầu này để trực tiếp lo mọi thủ tục xây cất là ông Samcoco. Nhưng bác Minh Chiếu vì không rành Anh ngữ cho lắm, nên nhờ anh Hiền ký hộ (vì bác sợ khó khăn sau này khi liên lạc tiếp xúc với họ). Thế là, anh Hiền đã ký một chứng minh thư giới thiệu nhà thầu AA có đủ pháp lý mà thay mặt Hội để lo mọi thủ tục trong việc thiết lập hồ sơ xin xây cất.

Duyệt xét lại hồ sơ xây cất

Tuy Hòa Thượng đã ủy quyền cho họ (nhà thầu AA) nhưng ngài vẫn cảm thấy không mấy yên tâm. Do đó, nên Hòa Thượng lại từ Sydney xuống Melbourne để tìm hiểu sự việc cho cặn kẽ hơn. Thế là, vào ngày 24 tháng 7 năm 1992, Hòa Thượng liền triệu tập một cuộc họp khẩn cấp của Ban Kiến Thiết. Trong buổi họp này, có sự hiện diện của 2 thành viên thuộc Hội Đồng Thành Phố Sunshine là ông George và Gray, (sở dĩ có mặt hai ông này là vì trước đó Hòa Thượng có nhờ anh Thuần mời).

Mục đích của buổi họp này, là để cho hai vị thành viên Hội Đồng Thành Phố trình bày xác quyết việc thiết lập hồ sơ xây cất đã được tiến hành tới đâu. Vì hai ông này có nhiệm vụ đặc trách theo dõi công trình xây cất của Hội, nên họ có trách nhiệm đến để trình bày. Theo hai vị này cho biết, thì việc xây cất hội trường (hall) chánh điện, thư viện và văn phòng xã hội phúc lợi (welfare) có thể được tiến hành xây cất mà không cần phải chờ đợi đổi vùng (vì đất đang xin để xây chùa thuộc vùng kỹ nghệ nhẹ (light industry zone ) chứ không phải vùng gia cư (residental zone).

Cũng trong buổi họp này, Hòa Thượng đã công bố kể từ hôm nay trở đi, đạo hữu Từ Thục Lê Bá Thuần sẽ chánh thức thay mặt Ban Kiến Thiết (BKT) để trực tiếp liên hệ với council.

Trở lại vấn đề trên, sau khi nhận lãnh trách vụ chính, ông Samcoco tức nhà thầu AA đã thực hiện một số công tác sau đây:

  • Bản vẽ xây cất hội trường.
  • Bản vẽ họa đồ vị trí, landscaping gồm các đường cao độ của toàn khu vực xây cất.
  • Bản tính kết cấu và các bản vẽ kết cấu của hội trường.
  • Bản điều kiện xây cất (theo bản phúc trình của BKT)

Tất cả việc làm của ông Samcoco đều được tính trả tiền thù lao theo giờ giấc. Giá mỗi giờ là 35 Úc kim. Phần lớn là những giờ ông đi họp với council.

Thử đất đợt hai

Cũng trong giai đoạn này, nhà thầu AA mướn công ty Acc Woodward tiếp tục thử đất đợt hai. Tưởng cũng nên nói rõ ra đây, mục đích của việc thử nghiệm đất là xem trong lòng đất có bị chất độc ô nhiễm không. Như ở đoạn trước có đề cập đến, đây là điều luật mà chánh phủ đã ban hành, sau khi chùa mua đất. Do đó, mà Bộ Môi Sinh bắt buộc phải thử nghiệm đất, trước khi xây cất.

  • Thử đất lần thứ nhứt (trước tháng 10/91), về phí tổn, theo bác Minh Chiếu cho biết, thì lúc đầu họ đòi mười ngàn, chùa trả năm ngàn, còn năm ngàn thì council trả. Nhưng về sau thì họ không lấy.
  • Thử đất lần thứ hai, phí tổn tất cả là 18 ngàn Úc kim. Số tiền này do chùa trả hết.

Cần nói rõ thêm, trong việc thử đất đợt đầu, do nhà thầu CE Lawrence phụ trách, đã phát hiện phần đất bên trên là đất bồi không thể xây cất được. Nếu muốn xây cất, thì phải đào sâu xuống ít nhất là 8 mét. Nhưng điều này nhà thầu AA không trình qua cho BKT biết.

Theo dự trù của BKT, thì sau buổi họp khẩn cấp trên vào ngày 24 tháng 7 năm 1992, thì BKT sẽ nộp tất cả hồ sơ (của Samcoco đã nêu trên) vào đầu tháng 8 để cho council duyệt xét. Và nếu không có gì trở ngại, thì sẽ được phép khởi công xây cất vào tháng mười. Phải nói rằng, người hồ hởi phấn khởi nhứt là anh Thuần, phó Ban Kiến Thiết. Ngay ngày hôm sau, anh ra một bản tin "Mừng" dán trên bản thông báo tại chùa Quang Minh. Sở dĩ anh vui mừng như thế, là vì anh đinh ninh rằng, mọi thủ tục hồ sơ do nhà thầu AA thực hiện đã hoàn tất.

Cái khó khăn từ trước tới nay, chỉ là vấn đề chờ đợi chuyển vùng. Bởi lẽ, theo dự án trước đây, BKT định xây cất hội trường và tăng xá trước. Xây tăng xá là để cho chư tăng ở. Nhưng điều này, Hội Đồng Thành Phố không chấp thuận. Lý do, họ nói rằng, nếu có người ở, thì cần phải làm thủ tục chuyển vùng (vì nơi này là khu kỹ nghệ, không phải là khu gia cư, nếu muốn ở phải chuyển vùng). Chính vì điểm này, mà kéo dài thời gian chờ đợi họ duyệt xét cũng khá lâu.

Nay thì BKT đổi ý, không xây tăng xá trước mà chỉ xây một cái hội trường thôi. Do đó, nên council đồng ý cho phép xây cất trước mà không cần phải đợi chuyển vùng. Bởi thế, nên anh Thuần khoái chí cho ra bản tin mừng trình cho đồng bào Phật tử biết ngay. Phật tử đến chùa thấy tin này, ai nấy đều vui mừng khôn xiết. Thậm chí có người vì quá xúc động, nên vội la lên: "bà con ơi! Mình sắp sửa có chùa mới rồi, council đã đồng ý chấp thuận cho mình xây cất rồi, thật là mừng quá trời".

Nhưng, (lại cũng bị chữ nhưng này) than ôi! nỗi vui mừng ấy chưa nguôi, thì vài hôm sau, người ta lại thấy một bản tin số 2 của BKT. Đây không phải là tin mừng mà là tin buồn. Xin ghi lại nguyên văn bản tin như sau:

"Trong bản tin trước, chúng tôi đã loan báo là chúng tôi (BKT) sẽ nộp bản vẽ cho Hội Đồng Thành Phố Sunshine vào đầu tháng 8/92. Tuy nhiên, sau khi nhận bản vẽ của nhà thầu AA, thì chúng tôi nhận thấy có những điểm sau đây:

  1. Bản vẽ chưa đầy đủ: "Nhà thầu vẽ thiếu bản vẽ bình diện của toàn Plan".
  2. Bản vẽ không thích hợp với thực tế: Nếu chúng ta xây theo bản vẽ của nhà thầu AA, thì sau khi công trình hoàn tất, sân trước của hội trường chỉ còn có 6 thước là đến miệng hố, chưa kể là sân của chánh điện chỉ còn có 2 thước.
  3. Phí tổn rất cao: theo bản vẽ này chúng ta có thể tốn trên một trăm ngàn để làm móng cho hội trường và có thể trên ba trăm ngàn cho móng của chánh điện.

Vì những điểm nêu trên nên Hòa Thượng cho chúng ta nghiên cứu phần đất thấp để
dời hội trường và chánh điện.

Chúng tôi đang nhờ vẽ lại bản vẽ mới và nhờ thử đất tại vùng đất thấp".

Phần một của thông báo trên, nói rằng bản vẽ chưa đầy đủ. Vấn đề này, trong bản phúc trình của BKT có nêu rõ những chi tiết sau đây:
A. Một số các hồ sơ, bản vẽ kỹ thuật còn thiếu sót như:

  • Thiếu bản vẽ thiết trí đồ ngang của toàn khu theo điều kiện yêu cầu của sở Thiết kế tòa thị chính.
  • Thiếu bản tính và bản vẽ chi tiết hệ thống thoát nước mưa.
  • Thiếu bản vẽ chi tiết hệ thống thoát nước dơ.
  • Thiếu tài liệu về nguồn điện cung cấp cho toàn khu.
  • Thiếu bản đồ thiết trí hệ thống phòng chữa cháy cho hội trường.

Phần ba của bản thông báo nói rằng, phí tổn rất cao. Đó là BKT nêu lên một con số tốn kém tổng quát. Về chi tiết của sự tốn kém này, theo bản phúc trình của BKT đã trình bày như sau:

B. Bản tính toán và bản vẽ thiết kế phần nền móng quá tốn kém và không hợp lý về
phương diện thí công.

b1) Theo thiết kế, sàn nhà hội trường đúc bê tông cốt thép dày 210 mm, đà đòn ngang, dọc đỡ sàn 0,6 mét bề ngang và 1, mét bề cao. Các đà này được đỡ bởi một hệ thống trụ cột 0,6 mét chiều ngang, 3 mét chiều dài, và chiều sâu có thể sâu đến 7 mét. Các trụ

cột chỉ cách khoảng 1.5 mét. Như vậy, để thí công được phần móng, phải đào toàn bộ
chiều dài vòng quanh hội trường có nơi phải đào sâu hơn 7 thước.

Riêng về chiều ngang trong trường hợp phải móc đá ngầm hay các vật liệu phế thải lớn, phải đào rộng hơn bề ngang dự kiến rất nhiều. Không ai dám bảo đảm không có chất độc trong khối đất khổng lồ được đào lên này, và nếu có, thì toàn bộ công trình sẽ bị đình chỉ, có nghĩa là chùa sẽ phải dời đi nơi khác, thì khi đó phải giải quyết như thế nào đây?

Ngoài ra, còn phải làm dàn đá và khuôn để đúc các trụ cột vĩ đại đó. Sở dĩ kỹ sư thiết kế không chọn giải pháp khoan từng trụ cột một theo các mũi khoan có đường kính hình tròn, là vì lý do khu đất này có nhiều tảng đá lớn và các đồ phế thải lớn bằng kim loại theo như tài liệu cung cấp của bản thử đất của CE Lawrence.

b2) Hạ tầng cơ sở phải thiết lập cho công trình này như đường xe, bãi đậu xe, sân chánh điện, đường cống v.v...
Xây cất trên khu đất thấp tổn phí rất cao, không những hiện nay mà còn phải sửa chữa
thường xuyên do đất lún sau này.

Vì những điểm nêu ở lý do B trên và căn cứ vào bản vẽ các đường cao độ ở vùng đất thấp do nhà thầu AA Group cung cấp, cho thấy là khu đất này tương đối bằng phẳng, Hòa Thượng đã chỉ thị cho BKT nghiên cứu phần đất thấp để xây cất các công trình chính, đó là hội trường và chánh điện. (Theo bản phúc trình của BKT 24/9/1992)

Bổ sung nhân sự và tiến hành công việc

Để công việc xây cất nói trên, chóng đạt kết quả hữu hiệu hơn, nên Hòa Thượng đã bổ
sung thêm một vài vị có khả năng chuyên môn vào trong BKT và Kỹ Thuật như sau:

  • Phó Ban Kế Hoạch: Kỹ sư Trần Đăng Khoa.
  • Phó Ban Kiến Thiết: Đạo hữu Từ Thục Lê Bá Thuần.
  • Kiểm Soát: Đạo hữu Trần Viết Hùng.
  • Kỹ Sư: Đạo hữu Vưu Chí Dũng.
  • Kế Toán: Đạo hữu Trần Trung
  • Kiến Trúc Sư cố vấn: Trần Nam Sanh
  • Điêu khắc gia: Lê Thành Nhơn
  • Họa Sĩ: Lê Đình Châu.
  • Nguyên Hải Phạm Gia Châu.

Sau khi nhận lãnh trách nhiệm, BKT mới đã hoạt động rất tích cực. Nhận thấy việc làm của nhà thầu AA Group không thu đạt hiệu quả, nên BKT đã liên hệ với văn phòng của KTS Robert Wignall để yêu cầu họ duyệt xét lại những hồ sơ cũ và bổ túc những điều còn khiếm khuyết.

Sau khi duyệt xét, KTS Robert đã vẽ lại một hồ sơ gồm có:

  1. Vẽ lại họa đồ vị trí toàn khu với các công trình hội trường và chánh điện ở vùng đất thấp, nơi có thế đất tương đối bằng phẳng.
  2. Liên hệ với các công ty chuyên môn để hỏi giá thiết kế các phần còn thiếu sót như đã ghi ở phần trước và BKT sẽ lựa chọn.
  3. Vẽ họa đồ thiết đồ ngang cho toàn khu.
  4. Giữ lại đồ án hội trường do AA thiết kế để tránh tốn kém.

Ngoài ra, BKT cũng đã yêu cầu hãng cố vấn CE Lawrence thử đất và thiết kế phần nền móng ở thế đất tương đối bằng phẳng dựa trên tài liệu đo đất trước đây do AA Group đã nộp cho tòa thị chính. KTS Robert đã hoàn tất các yêu cầu a,b,c, trên đây.

Một buổi họp giải quyết những vấn đề quan trọng

Để những vấn đề trên được trình bày chi tiết rõ ràng hơn, nên nhân buổi họp đầu tiên của tân Ban Trị Sự trong nhiệm kỳ mới vào ngày 6/9/1992, anh Thuần có mời KTS Robert đến để trình bày. Đồng thời cũng để cho ông ta trình bày những dự án cần thực hiện trong tương lai. Buổi họp này do Hòa Thượng Giáo Hội Trưởng kiêm Trưởng Ban Kiến Thiết chủ tọa và có mặt gần đầy đủ quý vị trong tân Ban Trị Sự.

Ông Robert nói: Theo cái họa đồ mô hình cũ, thì hầu hết những phần quan trọng đều nằm trên phần đất cao (đất bồi). Nếu như thực hiện toàn bộ trên phần đất ấy, thì phí tổn sẽ lên đến nửa triệu Úc kim. Vì phần đất trên là phần đất bồi, nên việc đổ móng tạo nền rất là tốn kém. Do vậy, nên thể theo yêu cầu của Hội, ông phải vẽ lại những phần quan trọng để dời xuống phần đất dưới. Vì phần đất phía dưới triền rất rắn chắc.

Những phần quan trọng đó là: Chánh điện, hội trường đa dụng và tăng xá. Tuy nhiên, ông cho biết, hiện tại council đòi hỏi chúng ta phải nộp cho họ một cái họa đồ carpark, song song với việc xây dựng hội trường. Ông cho biết thêm, cái họa đồ cũ do nhà thầu trước vẽ, có rất nhiều điểm còn thiếu sót. Những điểm thiếu sót đó, theo council cho biết như sau:

  • Các nhà công cộng không có cửa thoát hiểm.
  • Không có hệ thống cứu hỏa, cũng như các ống thoát nước. Những việc này nhà thầu trước không làm.

Thứ sáu ngày 4/9/92 anh Thuần có họp riêng với ông ta để tìm ra những điều cần thiết cho vấn đề xây cất này. Sau khi thảo luận hội ý, ông ta có lập ra một danh sách, trong đó ghi rõ những gì cần phải thực hiện trước để cho council duyệt xét chấp thuận.

  • Công việc đầu tiên mà chúng ta phải có, đó là con dấu của council ấn trên cái họa đồ của chúng ta. Thế nhưng cho đến hôm nay, chúng ta vẫn chưa có được điều đó. Vì council đòi hỏi chúng ta phải có bản vẽ rõ ràng trên bình diện tổng quát thiết lập. Điều này, nhà thầu cũ không có nộp bản vẽ quan trọng này. Sau khi chúng ta được council đóng dấu chấp thuận rồi, thì chừng đó chúng ta mới thực hiện những bước kế tiếp. Lẽ ra, nhà thầu cũ phải chịu trách nhiệm, nhưng cho đến nay chúng ta vẫn chưa có những cái giấy đó.
  • Về phần điện lực, chúng ta phải có nhà biến điện riêng, chớ không phải đem điện từ ngoài vào. Không biết council có đòi hỏi chúng ta điều này không? Nhưng theo kinh nghiệm của ông, thì những công trình thực hiện đại quy mô như thế này, phần lớn bắt buộc chúng ta phải có. Ông cần phải theo dõi để biết rõ điều đó.
  • Điện lực cũng đòi hỏi chúng ta phải có những cột đèn dọc theo carpark, để có đủ ánh sáng cho carpark. Việc thiết kế này, hiện chúng ta cũng chưa có. Một điều nữa, điện lực cũng đòi hỏi chúng ta phải có đèn báo động thoát hiểm. Điều này, phải được tính kỹ càng.
  • Vấn đề ống thoát nước: theo Melbourne Water, thì họ cũng đòi hỏi chúng ta phải cung cấp cho họ hệ thống ống thoát nước như thế nào. Vì trên khu đất của chúng ta có hai phần rõ rệt: cao và thấp. Phần thấp khi nước từ trên cao đổ xuống thì sao? Điều này, cần phải vẽ trình bày rất rõ ràng với council, để họ duyệt xét và chấp thuận. Nhưng cho đến nay, những việc đó cũng chưa có.
  • Vấn đề cứu hỏa: theo sở cứu hỏa, họ cũng đòi hỏi chúng ta phải có cái họa đồ về hệ thống này để họ duyệt xét. Nhưng hiện tại, mình cũng vẫn chưa có. Ông Robert cho biết thêm, muốn thực hiện những điều nói trên, buộc chúng ta phải có sự kiểm soát độ cao của mặt đất. Tức kiểm soát đo đạc về cái thế đất trước.

Về việc này, anh Thuần nói, anh có liên lạc với Vưu Chí Dũng. Sau khi hỏi, thì anh Trực cho biết nên kêu nhóm mới làm land survey. Ông Robert nói, nếu như nhóm thầu cũ có làm việc này, thì ông ta sẽ liên lạc với họ để xin bản sao. Như thế, chúng ta đỡ phải tốn kém mướn land survey.

Anh Thuần nói, nếu sau buổi họp này, được Hòa Thượng cũng như Ban Trị Sự (BTS) cho ông Robert thực thụ chánh thức đứng ra đại diện cho Hội để lo về mặt kiến trúc này, thì ông ta sẽ liên lạc với nhà thầu cũ để họ chuyển tất cả hồ sơ cho ông ta. Khi đó, ông ta mới nắm vững và mới biết sự diễn tiến của nó như thế nào. Điều này, đã được Hòa Thượng cũng như BTS hiện diện đồng ý chấp thuận. Đồng thời giao phó trách nhiệm này cho anh Thuần lo.

Ông Robert nói thêm, tất cả những vấn đề trên muốn thực hiện được, tất nhiên, chúng ta cần phải có nhóm kỹ sư về công chánh. Nhóm này, họ sẽ lo mọi việc vẽ các đường cống rãnh, ống thoát nước v.v... cho toàn bộ các họa đồ của chúng ta, nhứt là nơi carpark.

Một vấn đề mà council cũng đòi hỏi thêm là việc thiết trí các đèn công cộng, các dấu hiệu xe ra vô như thế nào. Ông Robert nhắc lại, trong giấy phép council cấp, đều có ghi rõ những chi tiết về vấn đề này.

Ngoài ra, theo điều lệ của council, họ cũng đòi hỏi chúng ta phải cho họ biết rõ là chúng ta xây tường bằng gạch màu gì. Vì tất cả đều có ghi rõ trong planning permit. Những vấn đề này, khi chúng ta nộp họa đồ cho council để họ tiện bề cứu xét luôn. Đồng thời, council cũng cho biết, theo nguyên tắc, thì chương trình thực hiện công

trình này, thời gian không thể kéo dài quá năm năm. Dĩ nhiên, trên nguyên tắc là như thế, nhưng theo Robert thì chắc chắn công trình của chúng ta không thể nào hoàn tất đúng theo thời gian mà council đã ấn định. Do đó, chúng ta có thể làm đơn xin triển hạn.

Ông Robert trình bày đến đây, thì anh Hùng trong BKT đã nêu ra câu hỏi là công việc thực hiện của ông ta phải mất thời gian bao lâu và tốn kém bao nhiêu?

Ông Robert cho biết, về thời gian, theo ông ta, nếu hồ sơ được chuyển qua (từ nhà thầu cũ) thì không hơn một tuần lễ nữa là sẽ nộp cho council. Còn về sự tốn kém, ông cho biết, phí tổn toàn bộ họa đồ mô hình là mười ngàn Úc kim. (Tất cả phí tổn này kể cả sửa chữa lại, nếu không đồng ý và tính luôn giờ giấc đi họp với council ).

Sau khi nghe KTS Robert trình bày cặn kẽ, mọi người đều lộ vẻ rất vui mừng. Người vui mừng nhứt phải nói là Hòa Thượng. Vì ngài là người có trách nhiệm lo lắng hơn ai cả. Những nếp nhăn suy tư trên vầng trán của BKT trong những ngày khó thở qua, giờ đây như tan biến. Ai nấy đều tin chắc rằng mọi việc sẽ được yên xuôi, chỉ còn chờ đợi thời gian rất ngắn khi mà con dấu của council ấn trên cái họa đồ là sẽ bắt đầu khởi công xây cất.

Sau buổi họp này, vì muốn cho chắc chắn về vị trí xây cất trước khi nộp hồ sơ xây cất cho council, KTS Robert đã hỏi lại nhà thầu AA Group về sơ đồ đo đất. Nhưng nhà thầu AA Group cho biết là không có sơ đồ này. Do đó, nên KTS Robert đã yêu cầu cho đo đất lại ở phần đất thấp, để kiểm soát lại bản vẽ do AA Group thiết lập. Kết quả cho biết, là bản vẽ đường cao độ do AA Group lập ở vùng đất thấp hoàn toàn không đúng với thế đất thật và sai biệt rất lớn.

Theo bản vẽ của AA Group thì độ chênh lệch theo chiều cao của mặt ngang của hội trường nhỏ hơn một mét, trong khi đo lại bản vẽ sau cùng cho thấy độ chênh lệch là 7 mét. Ngoài ra, độ chênh lệch của chánh điện là 8 mét.

Sau khi nghe KTS Robert trình bày, BKT đã yêu cầu tạm thời đình hoãn việc nộp hồ sơ xin xây cất để thông báo các sự kiện tìm thấy trên đây với Hòa Thượng và Ban Trị Sự Hội.

Được tin này, Hòa Thượng tức tốc xuống Melbourne để triệu tập cuộc họp giữa BTS và BKT. Cuộc họp bắt đầu vào lúc 7 giờ tối thứ năm ngày 24 tháng 9 năm 1992, tại chùa Quang Minh. Trọng tâm của buổi họp này, là để nghe qua bản phúc trình của BKT. Đồng thời, cũng để thảo luận góp ý tìm phương cách giải quyết những khó khăn vừa mới phát hiện. Nội dung của bản phúc trình này, như chúng tôi cũng đã có trình bày qua ở những phần trước. Tuy nhiên, BKT cũng có nêu ra những điểm khó khăn hiện nay như sau:

  • Phần đất trên là đất bồi, không thể xây cất được.
  • Phần đất thấp có độ dốc quá chênh lệch.
  • Bản vẽ đo đạc phần đất thấp của nhà thầu AA Group nộp cho tòa thị chính không chính xác.
  • Nếu thực hiện bằng bất cứ giải pháp nào cho việc tạo nền móng thì cũng phải phí tổn một số ngân khoản khá cao.

Phần nhận xét của bản phúc trình, BKT có nêu ra những nhận xét như sau:

  • Thế đất thiên nhiên của lô đất này là một sườn đồi có triền dốc lớn, cao độ từ mặt đường xuống đến điểm thấp nhất của khu vực xây cất là 15 mét. Xin nhắc lại là theo tài liệu của AA Group thì chỉ có 4 mét. Còn phần đất bằng hiện tại chỉ là phần đất bồi lấp, không thể xây cất, như đã trình bày ở trên. Việc giải quyết xây cất cho một công trình đòi hỏi có nhiều mặt bằng rộng lớn như sân hội trường, sân chánh điện, sân cho công chúng trước chánh điện và hội trường v.v... chỉ có thể thực hiện được bằng một trong những phương án như sau:
    1. Xây trên nền đất sẽ đắp, đặt nền móng trên đất thiên nhiên của sườn đồi.
    2. Xây trên sườn đồi ở vùng đất thấp.
    3. Xây một phần trên sườn đồi, một phần trên mặt phẳng ngang, bằng cách cắt sườn đồi và làm tường chắn đất.

Dù áp dụng phương pháp nào kể trên, cũng sẽ phải tốn ngân khoản rất lớn riêng cho phần nền móng. Và phần cuối cùng của bản phúc trình là phần đề nghị. Phần đề nghị này, do 3 đạo hữu trong BKT (Trần Đăng Khoa, Trần Viết Hùng, Từ Thục Lê Bá Thuần) đã hội ý lập bản phúc trình và có nêu ra đề nghị như sau:

"Chúng ta đã phải chịu tốn kém và mất nhiều thời giờ, công sức, trong việc cố gắng xây dựng cho được ngôi chùa trên lô đất triền đồi có độ nghiêng quá lớn đã trót mua mà vẫn không đạt được kết quả. Nếu cứ tiếp tục, phí tổn phụ trội về phần nền móng sẽ hết sức lớn lao, nhất là khi xây chánh điện và xây dựng các công trình thuộc hạ tầng cơ sở. Do đó, chúng tôi xin đề nghị:

  • Không nên xây chùa trên lô đất này.
  • Yêu cầu AA Group bồi thường thiệt hại về các thiết kế bổ túc không dùng được vì đã dựa trên những tài liệu sai lầm về đường cao độ ở vùng đất thấp do AA Group đo đạc:
  • Bản vẽ thiết kế cây cảnh.
  • Bản vẽ họa đồ vị trí do Kts Robert Wignall vẽ,
  • Bản thử đất và thiết kế móng do CE Lawrence".

Sau khi nghe qua bản phúc trình và sự trình bày của BKT, cuộc họp đã bàn thảo rất sôi nổi, mục đích là để tìm một giải pháp để giải quyết cho được ổn thỏa. Hai giải pháp được nêu ra là: "đi hay ở". Cuộc họp đã thảo luận phân tích cân nhắc lợi hại kỹ càng xoáy mạnh xoay quanh hai vấn đề then chốt này. Sau khi thảo luận, phân tích, thì ý kiến đa số là nên tiếp tục ở lại. Tuy nhiên, cuộc họp giao phần trách nhiệm cho BKT nhờ các chuyên gia nghiên cứu, chiết tính giá cả qua các giải pháp đã được bàn thảo ở trên (xem lại 3 phương án trong phần nhận xét của BKT) rồi đệ trình sau. Đồng thời song song với việc xúc tiến trên, Hòa Thượng chủ tọa tuyên bố: "Khi nào có quyết định dời đi, thì khi ấy sẽ có quyết định chung của toàn thể Phật tử".

Kiên quyết vượt qua

Mặc dù Ban Trị Sự và Ban Kiến Thiết đang gặp khó khăn, nhưng mọi người vẫn không nản chí chùn bước. Càng khó khăn, họ lại càng có quyết tâm cao. Nhất là sự có mặt của Hòa Thượng làm cho mọi người có thêm sức mạnh trong niềm tin vững chắc hơn. Hòa Thượng và quý vị trong Ban Trị Sự nhứt quyết không bỏ cuộc giữa chừng hoặc thay đổi là phải dời đi nơi khác. Dù cho có ai đó, với ý đồ muốn phá hoại gây khó khăn cho mọi người bỏ cuộc. Chẳng những mọi người không tỏ ra nản lòng thối chí, mà họ còn phấn chấn nỗ lực hơn nữa, để tiếp tục xúc tiến trong công cuộc vận động tài chánh.

Tưởng cũng nên nhắc lại về việc thành lập Ban Vận Động Tài Chánh. Vì muốn cho sự vận động tài chánh chóng có hiệu quả, nên bác Minh Chiếu thay mặt Ban Trị Sự Hội trình lên để thỉnh ý Hòa Thượng về việc thành lập một Ban Vận Động Tài Chánh. Dù rằng, sự vận động trước đây đã có, nhưng với tư cách cá nhân chớ chưa có thành lập một Ban Vận Động chánh thức.

Sau khi thỉnh ý và đã được Hòa Thượng đồng ý tán thành. Chẳng những tán thành thôi, mà Hòa Thượng còn căn dặn bác Minh Chiếu là nên thực hiện vấn đề này càng sớm càng tốt. Thế là, bác Minh Chiếu điện thoại mời một số quý Phật tử về chùa dự họp. Buổi họp đã được diễn ra tại chánh điện chùa Quang Minh cũ vào lúc 2 giờ chiều thứ bảy, ngày 6 tháng 12 năm 1991. Với sự tham dự một vài vị trong Ban Trị Sự và một số quý Phật tử.

Sau khi đề cử và biểu quyết, kết quả đã thành hình một Ban Vận Động Tài Chánh với những chức vụ sau đây:

  • Trưởng ban: Đạo hữu Minh Chiếu Nguyễn Văn Gấm. Phụ tá trưởng ban: Đạo hữu Lý Vị Trung.
  • Phó ban 1: Đạo hữu Nguyên Quán Đỗ Đình Chi.
  • Phó ban 2: Đạo hữu Chúc Đại Hồ Thị Lớn.
  • Phó ban 3: Đạo hữu Lâm Thị Ba.
  • Phó ban 4: Đạo hữu Ngọc Anh.
  • Chánh thơ ký: Đạo hữu Nguyễn thị Hồng Nhung. Phó thơ ký: Đạo hữu Nguyễn thị Thu.
  • Thủ quỹ: Đạo hữu Thùy Hoàn Mai thị Ngọ.
  • Cố vấn: Ni Cô Nguyên Lưu.
  • Kiểm soát: Đạo hữu Thiện Đại Lê Văn Bé.

Sau khi thành hình, Ban Vận Động tài chánh này đã có những hoạt động rất tích cực. Có nhiều phương cách vận động, nhưng tựu trung cũng không ngoài những việc làm cụ thể để gây quỹ như sau:

  • Tổ chức bán vé đại nhạc hội.
  • Tổ chức sổ xố.
  • Bán những món hàng đấu giá, do Phật tử hiến tặng.
  • Tổ chức những buổi tiệc cơm chay.
  • Buôn bán thực phẩm hằng tuần và vào những buổi đại lễ Phật Đản, Vu Lan v.v...
  • Gầy hụi không lời.

Trong các cách gây quỹ nói trên, chỉ có việc tổ chức Đại Nhạc Hội, thì mang hình thức quy mô trọng đại hơn hết. Do đó, cần phải có sự đóng góp của nhiều người. Muốn cho việc làm được suôn sẻ và có kết quả cao, tất nhiên, cần phải có một buổi họp để cùng nhau chia sẻ công việc mà làm. Anh Hà Tiến Dẫn, với tư cách là Ủy Viên Vận Động Tài Chánh, anh đã thay mặt Hội, tham gia vào công việc tổ chức Đại Nhạc Hội này. Vì thế, nên anh đã trình qua Ban Trị Sự và rồi anh mời một số Phật tử về chùa bàn việc tổ chức và phân phối bán vé.

Cuộc họp diễn ra vào lúc 1 giờ chiều ngày 13 tháng 9 năm 1992, tại chùa Quang Minh cũ, số 177 Morris Street, Sunshine, Victoria. Buổi họp này do thầy Minh Trí làm chủ tọa và đạo hữu Thiện Đại làm thơ ký ghi biên bản. Với tư cách chủ tọa cuộc họp, thầy Minh Trí có vài lời nói về lý do của buổi họp. Sau khi niệm Phật cầu gia bị, tiếp theo là anh Hà Tiến Dẫn trình bày chi tiết của việc tổ chức buổi Đại Nhạc Hội như sau:

Anh nói: việc tổ chức Đại Nhạc Hội sắp tới đây, tức vào ngày 25 tháng 9 năm 1992, thời gian thật quá cấp bách, vì không có dự tính trước. Bởi lẽ, sau khi được tin nữ ca sĩ Ngọc Lan đến trình diễn tại Sydney, bác sĩ Trần Thanh Nhơn và ông Trần Bá Phúc có thiện ý muốn nhân dịp này mời ca sĩ Ngọc Lan xuống Melbourne trình diễn một show để gây quỹ xây dựng chùa Quang Minh. Sau khi hội ý, hai ông liền mời anh Hà Tiến Dẫn và bác Minh Chiếu thay mặt Hội đến tham dự buổi họp hội thảo tại tửu lầu nhà hàng Vinh Sang vào ngày thứ bảy 12/9/1992.

Kết quả của buổi hội thảo đó, đại khái gồm có những điểm chính sau đây:

  • Mục đích tổ chức buổi Đại Nhạc Hội này, nhằm gây quỹ để xây dựng chùa Quang Minh.
  • Vai trò chính của việc tổ chức, không phải do Hội hoàn toàn đứng ra lo, mà anh Hà Tiến Dẫn chỉ đại diện cho Hội để hợp tác cùng hai ông: bác sĩ Nhơn và ông Trần Bá Phúc mà thôi.
  • Tất cả mọi chi phí trang trải cho việc tổ chức này, cả ba ông đều xuất tiền túi ứng trước và sau khi hoàn tất trang trải mọi chi phí xong, số tiền còn lại sẽ cúng dường vào quỹ của Hội để xây dựng chùa.
  • Ban tổ chức Đại Nhạc Hội gồm các ông: Bác sĩ Trần Thanh Nhơn, Ông Trần Bá Phúc và anh Hà Tiến Dẫn.
  • Phân nhiệm công việc: Bác sĩ Nhơn và Ông Phúc sẽ lo điều động mọi việc: mời ca sĩ, ban nhạc (Sydney), người điều khiển chương trình, thuê hall, đăng báo quảng cáo, in vé v.v...
  • Ấn định số vé in là 2 ngàn và mỗi vé ủng hộ là 25 Úc kim. Ngoài ra, còn có một số vé đặc biệt: 100 đô và 150 đô cho mỗi vé.
  • Có bán vé và sổ số tại chỗ.

Tất cả những công việc này, anh Hà Tiến Dẫn có trình lên Hòa Thượng Giáo Hội Trưởng mọi chi tiết đã được Hòa Thượng đồng ý chấp thuận. Do đó, nên buổi họp hôm nay là để tiến hành công việc vận động phân phối vé mà anh Hà Tiến Dẫn lãnh phần trách nhiệm này.

Sau khi hội thảo đề cử, một Ban Vận Động phân phối vé đã được hình thành như sau:

  • Trưởng ban: Sư Cô Nguyên Lưu.
  • Phó ban 1: Đạo hữu Chúc Đại Hồ Thị Lớn.
  • Phó ban 2: Đạo hữu Thùy Hoàn Mai Thị Ngọ.
  • Phó ban 3: Đạo hữu Hồ Thị Xuân Hương.
  • Thơ ký: Đạo hữu Nhật Mỹ Lê Kim Thanh.
  • Thủ quỹ: Đạo hữu Từ Thục Lê Bá Thuần.

Về việc phân phối vé có ba tiêu thức chính:

  • Nhờ các shop bán hộ giùm, tối đa là 20 vé cho mỗi shop.
  • Nhờ các chùa phân phối giùm, tối đa là 20 vé.
  • Nhờ các thân hữu bán giúp (cách này hữu hiệu hơn).

Thu hồi tất cả vé phân phối trước ngày thứ năm 24/9/1992. Số còn thừa lại sẽ bán tại chỗ vào đêm trình diễn.

Anh Hà Tiến Dẫn còn đề nghị tổ chức một nhà hàng cơm chay và anh nói đã có trình lên Hòa Thượng và cũng đã được Hòa Thượng tán thành. Anh còn nói tiếp, việc liên lạc thuê nhà hàng thì anh lo, còn việc nấu nướng ở nhà hàng thì do quý cô lo.
Cuộc họp kết thúc vào lúc 3 giờ chiều cùng ngày. Mọi người rất hân hoan vui vẻ ra về.

Phải nói trong giai đoạn này, tất cả mọi việc đều tập trung vào công việc chính yếu là phải nỗ lực vận động tài chánh để có đủ số tiền trong công việc xây dựng chùa. Đó là mục tiêu nhắm tới của Hòa Thượng cũng như của tất cả mọi người.

Đến đây, chúng tôi xin được tạm kết qua những công việc khó khăn mà cả hai Ban: Trị Sự và Kiến Thiết đã gặp phải. Dõi theo qua sự trình bày trên, chúng ta thấy rằng, thật cả một vấn đề khó khăn nan giải. Khó khăn ngay từ bước khởi đầu trong việc thiết lập họa đồ xây cất. Sự khó khăn này tuy có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính vẫn là ở nơi nhà thầu AA Group. Vì việc làm của họ không được minh bạch.

Đó là giai đoạn cực kỳ khó khăn, mà Hòa Thượng, BTS và BKT đã phải rất vất vả để đối phó giải quyết trong vấn đề này. Vì mọi người đều tin tưởng vào việc làm của họ. Họ là người đứng ra đại diện cho Hội để lo tất cả mọi vấn đề thủ tục pháp lý xây cất. Những việc làm của họ được tính theo giờ giấc nhất định mà Hội phải trả tiền thù lao sòng phẳng. Như vậy, chính họ là người phải chịu trách nhiệm. Chính vì điểm này, nên trong phần đề nghị của quý vị trong BKT là đòi kiện họ, buộc họ phải bồi thường mọi thiệt hại và danh dự của Hội mà lâu nay Hội đã tin cậy họ.

Tuy nhiên, với tấm lòng từ bi vị tha của đạo Phật, Hòa Thượng cũng như quý vị trong Ban Trị Sự cũng không muốn gây ra làm lớn chuyện việc này. Dù sao thì mọi công việc cũng đã qua. Nếu phải thưa kiện lại càng gây thêm sự khó khăn rắc rối đình trệ cho công việc của Hội mà thôi. Song có điều, Hòa Thượng cũng như BTS quyết định phải thực hiện cho kỳ được xây ngôi chùa trên mảnh đất đầy khó khăn này. Có khó khăn mới đánh giá cao được tâm huyết của lòng người.

Quyết tâm thực hiện

Sau buổi họp đó, một số người trong BKT đã bỏ cuộc, chỉ còn lại ba người nồng cốt: Hòa Thượng, bác Minh Chiếu và kỹ sư Vưu Chí Dũng. Hòa Thượng quyết tâm đeo đuổi để thực hiện việc xây cất cho kỳ được. Sở dĩ Hòa Thượng quyết tâm như thế, là vì bấy lâu nay nguyện vọng tha thiết của quý đồng hương Phật tử là muốn sớm thấy hình thành một ngôi chùa có tầm vóc rộng lớn làm trung tâm sinh hoạt Phật giáo cho tiểu bang này. Đó là một nguyện vọng thiết tha mà họ đã đặt hết niềm tin kỳ vọng vào Giáo Hội, nhứt là đối với Hòa Thượng. Do đó, dù có khó khăn thử thách trắc trở đến đâu, Hòa Thượng cũng như Ban Trị Sự quyết định không bao giờ bỏ cuộc.

Chính vì thế, nên Hòa Thượng và Ban Trị Sự phải tìm một phương cách khác để giải quyết những vấn đề khó khăn trước mắt. Nghĩa là phải chuyển qua tìm một nhà thầu xây cất mới. Một hôm, Hòa Thượng, bác Minh Chiếu và kỹ sư Vưu Chí Dũng, ba người cùng đi đến để tiếp xúc với nhà thầu có tên là Howden Wardrop.

Sau khi thảo luận, nêu rõ mọi vấn đề, thì nhà thầu đòi hỏi chùa phải có $600.000 đồng (sáu trăm ngàn đồng) ứng trước, thì họ mới nhận lãnh. Lúc đó, trong quỹ của chùa hiện có là $200.000 (hai trăm ngàn đồng), cộng với số tiền chánh phủ tài trợ $150.000 (một trăm năm chục ngàn đồng) (sở dĩ có được số tiền của chánh phủ tài trợ này, là do công sức của anh Đặng Văn Hiền vận động. Vì lúc bấy giờ, anh làm Giáo Hội Phó đặc trách lo về những vấn đề ngoại vụ, nên anh đã thay mặt Hội mà vận động xin được số tiền này), và vay ngân hàng Commonwealth $250.000 (hai trăm năm chục ngàn đồng). Cộng chung là $600.000. Cần nói thêm, trong số tiền $600.000 này là tính chung với số tiền bán căn nhà chùa cũ ở số 177 Morris Street, Sunshine, với số tiền bán được là $80.000 (tám chục ngàn đồng).

Nêu rõ chi tiết số tiền trên, là để thấy rằng, sự đòi hỏi của nhà thầu cần phải có sự đáp ứng đúng số tiền như thế, thì họ mới chịu thực hiện. Đó cũng là điều gây khó khăn cho Hội. Tuy nhiên, đã phóng lau tất phải theo lau. Dù có khó khăn trong vấn đề tài chánh, nhưng Hội cũng vẫn cố gắng tìm mọi phương cách xoay sở để giải quyết.

Sau khi đáp ứng đủ số tiền mà nhà thầu đòi hỏi, bấy giờ cả đôi bên đều đi đến quyết định chung là thỏa thuận ký vào văn kiện một bản hợp đồng xây cất.

Vào ngày 10 tháng 2 năm 1993, nhà thầu cho xe ủi đất đến ủi và dọn dẹp những cỏ rác hoang dại trên mảnh đất này. Ai cũng biết miếng đất này là miếng đất hoang phế có nhiều loại cỏ mọc hoang vu và nhiều đồ phế thải. Cho nên, trước khi khởi công xây cất, tất nhiên, cần phải dọn dẹp cho sạch sẽ. Bác Minh Chiếu là người trực tiếp đứng ra trông coi việc làm của họ.

Sau khi dọn dẹp cỏ rác, ủi đất bằng phẳng xong, và trước khi nhà thầu khởi công xây cất, Hòa Thượng cùng chư Tôn Đức Tăng Ni và Ban Trị Sự cũng như một số quý Phật tử đều tập trung trên mảnh đất sắp sửa xây cất để thiết lễ tụng kinh cầu nguyện cho mọi việc xây cất được suôn sẻ kết quả tốt đẹp. Buổi lễ được thực hiện vào ngày 28 tháng 10 năm 1993, tức nhằm ngày
21 tháng chạp âm lịch năm NhâmThân.

Buổi lễ thiết cúng này, nếu nói theo tập tục thế gian, là xin phép Thổ Địa, vị thần trông coi đất đai, mục đích là để cho công việc xây dựng được êm xuôi. Đó không phải là việc làm mê

chùa, người ta hay cúng vái xin phép vị thần trông coi đất đai, nơi họ sắp sửa xây cất. Đây cũng là biểu lộ nét đặc thù mang tính cách văn hóa của một nền văn hóa truyền thống cao đẹp Việt Nam.

tín mà đó là biểu lộ tấm lòng biết ân của một con người đối với đất đai sông núi. Vì những vật tượng y báo này là những vật thể liên hệ mật thiết đến đời sống của con người. Do đó, vấn đề ân nghĩa là vấn đề tối hệ trọng trong cung cách hành xử đạo đức của con người, mà biểu hiện rõ nét nhứt là hai yếu tố tối quan trọng là: đất và nước. Đây là hai yếu tố căn bản giúp cho sự sống của con người. Cho nên, khi xây dựng một căn nhà hay một ngôi

Sau khi duyệt xét qua mọi thủ tục, nhà thầu Howden Wardrop bắt đầu khởi công xây cất Chánh điện tạm hiện thời là vào ngày 25 tháng 10 năm 1993 và hoàn tất công trình vào ngày 10 tháng 6 năm 1994. Như vậy, tính ra, từ lúc đặt viên đá đầu tiên (21/9/91) cho đến khi hoàn tất công trình này phải mất thời gian là hơn 2 năm.

Tân Ban Trị Sự nhiệm kỳ 1993 - 1995

Những Phật tử tại gia tham gia sinh hoạt trong Ban Trị Sự là những vị tự nguyện phát tâm làm công quả giúp cho chùa. Vì vậy, tùy theo khả năng, thời gian và hoàn cảnh sống của họ mà họ có thể giúp được điều gì cho chùa, thì họ sẽ sẵn sàng. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào phần lớn là công ăn việc làm, cũng như hoàn cảnh gia đình của họ. Bởi thế, ta không lấy gì làm lạ, những nhân sự trong Ban Trị Sự luôn luôn có sự thay đổi người. Theo Hiến chương của Giáo Hội đã quy định, thì một nhiệm kỳ của Ban Trị Sự là 2 năm.

Vào ngày 12 tháng 9 năm 1993, văn phòng Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo đã ký Quyết Định công nhận thành phần Tân Ban Trị Sự GHPGVNTN tại Victoria nhiệm kỳ 1993-1995 với danh sách như sau:

  • Giáo Hội Trưởng cung thỉnh: Hòa Thượng Thích Phước Huệ.
  • Phụ tá Giáo Hội Trưởng kiêm trụ trì chùa Quang Minh: Đại Đức Thích Minh Trí (1)
  • Phó trụ trì: Đại Đức Thích Minh Trí (2)
  • Giáo Hội Phó Nội Vụ: Đạo hữu Minh Chiếu Nguyễn Văn Gấm.
  • Giáo Hội Phó Ngoại Vụ: Đạo hữu Minh Từ Đặng Văn Hiền.
  • Tổng Thư Ký: Đạo hữu Trí Hòa Huỳnh Công Hiệp.
  • Phó Tổng Thư Ký: Đạo hữu Huệ Châu Nguyễn Thị Ánh Ngọc.
  • Tổng Thủ Quỹ: Đạo hữu Nhật Mỹ Lê Kim Thanh.

Các Ủy Viên:

  • Ủy viên Nghi Lễ: Đại Đức Thích Tâm Phương.
  • Ủy Viên Giáo Dục: Giáo sư Phan Văn Giưỡng và Nguyễn Văn Vinh.
  • Ủy Viên Văn Hóa: Đạo hữu Nguyễn Văn Hiếu.
  • Ủy Viên Kiến Thiết: Đạo hữu Tâm Đạo Vưu Chí Dũng.
  • Ủy Viên Vận Động Tài Chánh: Đạo hữu Hà Tiến Dẫn.
  • Ủy Viên Thanh Niên: Đạo hữu Minh Hoàng Diệp Khôi.
  • Ủy Viên Đặc Trách Luật Pháp: Luật sư Nguyễn Thanh Thúy.
  • Ủy Viên Hộ Trì Tam Bảo: Đạo hữu Diệu Minh Nguyễn Hồng Sang.
  • Ủy Viên Liên Lạc: Đạo hữu Minh Pháp Trần Đức Hải.

IV. SÓNG GIÓ ĐÃ QUA

Thiên di chùa lần thứ tư

Sau khi hoàn tất Chánh điện tạm hiện thời, nhà thầu liền giao chìa khóa. Nhận được chìa khóa, tất nhiên, là phải lo trang trí bên trong, nhứt là nơi chỗ thờ Phật chính. Song song với việc làm này, vào ngày 3 tháng 9 năm 1994, là ngày khởi công xây tượng đài Quán Âm lộ thiên phía trước chánh điện. Mọi chi phí cho công việc này khi hoàn tất, với giá là $35.587,60 cent (ba mươi lăm ngàn năm trăm tám mươi bảy đồng sáu mươi cent Úc kim). Được biết số tiền chi phí này là do gia đình của bác Ngô Văn Giảng phát tâm hỷ cúng.

Lo xong mọi việc đâu vào đó, Hòa Thượng liền định ngày thiên di về chùa mới và sau đó là làm lễ khai quang An Vị Phật. Một buổi lễ An Vị Phật diễn ra vào ngày 23 tháng 10 năm 1994, do Hòa Thượng chứng minh và chủ lễ với sự tham dự đông đủ của chư Tôn Đức Tăng Ni và một số đông quý đồng hương Phật tử.

Buổi lễ An Vị Phật hôm ấy, khung cảnh và lòng người tất nhiên, là phải khác hơn lần An Vị Phật ở ngôi chùa cũ số 177 Morris Street, Sunshine rất nhiều. Bởi lẽ, tâm nguyện và niềm khát vọng lớn lao của Hòa Thượng, chư Tôn Đức Tăng Ni cũng như của quý đồng hương Phật tử, suốt hơn mười mấy năm qua nay mới được thành tựu. Đó là niềm hoan hỷ rất lớn lao không sao nói hết. Dù vẫn biết, đây chỉ là giai đoạn tạm thời. Nhưng ít ra, cũng đã có nơi tương đối khá khang trang ổn định. Kể từ nay trở đi, chắc chắn không còn cái cảnh nay dời mai đổi. Hơn thế nữa, tránh được mọi sự phiền toái rắc rối đối với những người chung quanh. Tất nhiên, không còn phải lo âu sợ hãi trong vấn đề than phiền thưa kiện.

Sau khi dọn về nơi đây, mọi công việc Phật sự càng lúc càng dồn dập thêm nhiều. Đồng hương Phật tử về chùa càng lúc càng đông hơn, mọi nhu cầu đám sám, nhứt là những ngày cuối tuần việc làm lễ không còn cái cảnh chật chội như trước. Mọi người về chùa tụng niệm bái sám rất thoải mái an vui. Vì đã có nơi khang trang rộng rãi hơn xưa nhiều.

Về phần đối nội, thì cũng vẫn giữ mức độ sinh hoạt bình thường. Nhưng vấn đề đối ngoại thì có khác. Bởi càng lớn thuyền thì lại càng lớn sóng. Do đó việc đối ngoại giao tiếp với các cấp chánh quyền địa phương sở tại ngày càng gia tăng hơn.

Khi giao tiếp với họ, tất nhiên, là cần phải sử dụng đến lợi khí Anh ngữ. Vì đây là ngôn ngữ xã giao tiếp xúc chính ở xứ sở này. Tuy rằng, trong Ban Trị Sự cũng có người rất thông thạo sinh ngữ Anh. Trường hợp như anh Tổng Thơ Ký Huỳnh Công Hiệp chẳng hạn. Vì anh là người du học và có bằng tiến sĩ ở Úc. Và hơn nữa, anh đang giảng dạy ở các trường đại học. Vì vậy, anh cũng quen biết nhiều đối với những nhân vật trong giới trí thức của Úc cũng như đối với các cấp chánh quyền. Đó là một lợi điểm rất tốt cho việc mở rộng trong vấn đề ngoại giao lo cho chùa. Nhưng dù sao, anh cũng vẫn còn phải lo công việc mưu sinh riêng của anh. Khi nào chùa hay Giáo Hội cần đến thì anh mới có mặt để phụ giúp. Cho nên anh không thể trực tiếp cáng đáng hết mọi việc.

Ngoài anh Hiệp ra, còn có anh Đặng Văn Hiền. Anh Hiền là một Phật tử đã từng đóng góp cho Giáo Hội rất nhiều trong việc ngoại giao. Anh tốt nghiệp đại học về ngành hành chánh khi còn ở Việt Nam. Còn ở Úc, thì anh làm việc cho chánh phủ, nên anh có nhiều lợi thế ngoại giao với các cấp chánh quyền, từ liên bang đến tiểu bang, nhứt là ở tiểu bang Victoria, nơi mà anh đã sinh sống.

Do đó, nên Hòa Thượng Giáo Hội Trưởng nhờ anh rất nhiều trong công việc ngoại giao. Bởi vì, mục tiêu chính yếu mà Hòa Thượng và Ban Trị Sự nhắm tới là bằng mọi giá, phải xây cho được một ngôi chùa Phật Giáo Việt Nam kiểu mẫu làm trung tâm sinh hoạt Phật giáo có tầm cỡ lớn nhứt ở Úc và Thái Bình Dương. Đó là một hoài bảo lớn lao của Hòa Thượng như đã nói ở trên.

Đó là nói về việc đối ngoại, còn việc đối nội, ngoài thầy trụ trì Thích Minh Trí 1 và phó trụ trì Thích Minh Trí 2 ra (Thầy Minh Trí 2 ở Quang Minh không bao lâu thì đi nơi khác), thì bên cạnh đó còn có Bác Minh Chiếu. Bác Minh Chiếu khi qua Úc, gia đình của bác định cư ở Nam Úc (Adelaide). Bác đã từng tham gia hoạt động trong Ban Trị Sự của Hội Phật Giáo Việt Nam ở Nam Úc, dưới sự lãnh đạo của HT Thích Như Huệ. Nhờ đó, mà bác có thêm kinh nghiệm làm việc Phật sự ở xứ người.

Khi nhận lãnh chức vụ Giáo Hội Phó Nội Vụ, bác đã tận tâm lực đóng góp công lao trong việc xây dựng chùa. Bác là người rất được Hòa Thượng tín nhiệm. Vì khi còn ở Việt Nam, bác cũng đã biết nhiều về Hòa Thượng. Bác đã từng theo học các khóa Phật pháp, do các bậc Tôn Đức ở chùa Ấn Quang và Xá Lợi giảng dạy. Do đó, mà bác thấm nhuần đạo pháp và phát tâm rộng lớn. Phải công tâm mà nói, bác là một trong số những người có đạo tâm cao và rất tích cực đóng góp lo cho chùa. Bác tham gia làm việc trong Ban Trị Sự Hội kể từ năm 1990, sau khi bác từ Nam Úc tới Melbourme định cư được hai năm.

Về phần nắm giữ tài chánh cho chùa suốt gần hơn hai thập niên qua, kể từ năm 1981 cho đến hôm nay (2008), trải qua bao lần thay đổi nhân sự trong các chức vụ, nhưng chỉ có mỗi một chức vụ Thủ Quỹ là không bao giờ thay đổi. Người có vận số cao nắm giữ phần tài chánh cho chùa, (nói nắm giữ, nhưng thật ra là giao hết tiền mặt cho ngân hàng, còn lại thủ quỹ chỉ giữ phần sổ sách thâu xuất mà thôi), mà chưa hề bị một tai tiếng nào trong việc làm này, phải nói đó là cô Kim Thanh. Cái tên của cô nó gắn liền với công việc mà cô đã phát tâm làm việc cho chùa. Kim là vàng, là tiền bạc, còn Thanh là trong sạch, không lem nhem, nhơ nhuốc. Có lẽ, việc làm thủ quỹ cho chùa rất phù hợp với cái tên của cô. Phải chăng, đây cũng là do nhân duyên trong nhiều đời mà cô đã từng làm việc này để hết lòng lo đóng góp phụng sự cho Tam Bảo.

Cần nói thêm, sau khi chùa dời về địa chỉ 177 Morris Street, Sunshine, trong Ban Trị Sự nhiệm kỳ 1987- 1989, đạo hữu Trần Văn Sang làm Chánh Thủ Quỹ và Cô Kim Thanh làm phó. Nhưng anh Sang chỉ làm được một thời gian ngắn, sau đó, vì bận việc, nên anh xin nghỉ và rồi từ đó cô Kim Thanh giữ chức vụ Chánh Thủ Quỹ cho đến hôm nay.

Bên cạnh cô Kim Thanh còn có cô Huệ Tịnh Hồng Kim Hoa. Cô này giữ vai trò Phó Thủ Quỹ phụ lực với cô Kim Thanh suốt hơn mười năm qua, từ khi chùa dời về trên mảnh đất mới này vào năm 1994 cho đến nay. Sau khi nhận lãnh chức vụ này, cô Huệ Tịnh có mặt thường xuyên ở văn phòng vào mỗi ngày chủ nhật. Nhờ đó, mà cô Kim Thanh cũng nhẹ bớt đi một phần nào công việc.

Trong giai đoạn này, vai trò của một vị trụ trì ở vào vị thế rất quan trọng. Ngoài vấn đề phẩm hạnh đạo đức và trình độ giáo lý nội điển ra, còn phải có khả năng lãnh đạo, tổ chức và điều hành công việc về mọi mặt. Muốn thế, tất nhiên, phải là người có tánh năng động xông xáo hoạt bát và phải có trình độ Anh ngữ khá. Dù rằng, không phải tròn vẹn hết (làm gì có chuyện này chỉ có các bậc Thánh nhơn mà thôi), nhưng ít ra cũng phải có khả năng tương đối trong lãnh vực chuyên môn trọng trách của mình, đó là điều mà vị thầy trụ trì cần phải có.

Xây dựng cổng tam quan và hàng rào

Đã có chùa, dù lớn hay nhỏ, nó cũng đòi hỏi là phải có cái cổng chùa. Vì đây cũng là một sắc thái tiêu biểu của lối kiến trúc mỹ thuật đặc thù của Phật giáo. Ngoài vấn đề tiêu biểu hình thái kiến trúc ngoại diện ra, nó còn biểu hiện một nền triết lý Phật giáo rất sâu xa. Vì thường người ta xây cổng chùa phải có ba cửa ra vào, mà trong nhà Phật gọi đó là Tam Môn, hay nói đủ là "Tam Giải Thoát Môn". Đó là ba cánh cửa giải thoát. Cánh cửa lớn chính giữa là tượng trưng cho "Không Môn" (cửa Đại bát nhã trí huệ) ; hai cánh cửa nhỏ hai bên là tượng trưng cho "Vô Tướng và Vô Tác". Chữ "Không" ở đây, xin chớ vội lầm hiểu là không đối với có, hay là không trơn như lông rùa sừng thỏ. Mà chữ "Không" nói ở đây, tức là biểu hiện cho cái Không của Bát Nhã. Vì sự sinh thành của vạn pháp là do duyên khởi. Đã do duyên sinh, thì thể tánh của nó là không. Vì sao? Vì do nhiều thứ hợp lại mà có. Không một cái gì đơn độc mà thành. Đó là triết lý duyên sinh vô ngã của Phật giáo.

Như vậy, cái có đó chỉ là giả có, như trăng dưới nước hay như bóng trong gương, chớ không phải thật có. Như cái nhà, do hội đủ điều kiện lại thì hợp thành tạm gọi là cái nhà. Nhưng thực thể của cái nhà thì không thật có. Vì sao? Vì do nhiều thứ khác hợp lại. Đã có hợp, tất nhiên phải có tan. Đó là lý vô thường vô ngã. Vì vô ngã nên thể tánh của cái nhà là Không. Vì vô thường nên cái nhà theo thời gian mà hoại diệt. Như vậy, cái nhà nó chỉ có giả tướng mà không có cái tướng chân thật, nên nói nó là "Vô Tướng". Và vì cái nhà do đủ duyên hợp lại mới có, không có một cái gì đơn độc tạo nên, nên nói là "Vô Tác", tức không có ai làm chủ tể tạo tác cả.

Nói cái nhà là để tiêu biểu cho vạn hữu vũ trụ trên thế gian này. Từ đó suy rộng ra, các vật thể khác cũng đều như thế. Bởi nó có một ý nghĩa mang tính chất triết lý sâu xa như vậy, nên khi xây chùa xong, là người ta nghĩ ngay đến việc xây cổng chùa. Do đó, mà việc kế tiếp phải làm là Hòa Thượng và Ban Trị Sự phải lo xây cổng Tam Quan.

Còn trên cổng có hai con rồng trực diện nhau hay nói cách khác là "lưỡng long tranh châu". Rồng là tiêu biểu tượng trưng cho sự linh hoạt, hùng tráng, dũng mãnh tung hoành ngang dọc biến hóa phi thường. Vì thế, mà dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa gọi là con Rồng cháu Tiên. Tiên là biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa dịu, an nhàn thoát tục.

Riêng trong Đạo Phật, rồng là một trong "Tám bộ chúng" có nhiệm vụ là luôn luôn bảo hộ Phật Pháp. Trong nhà Phật thường gọi là Thiên Long Bát Bộ (Trời, Rồng, Càn Thát Bà, Dọa xoa, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già)

Đức Phật dùng oai đức cảm hóa các vị thần này và chúng đã trở thành những vị bảo hộ Phật pháp rất đắc lực.

Chính giữa hai con rồng trực diện với nhau là hình thể của một bánh xe có 8 căm. Đây gọi là bánh xe chuyển pháp luân. Tám căm là tượng trưng cho Bát Chánh Đạo, tức tám con đường chơn chánh đưa con người đến chỗ an lạc hạnh phúc.

Cổng Tam Quan bắt đầu xây dựng vào ngày 21 tháng 3 năm 1995 với tổng số chi phí là $72.500 (bảy mươi hai ngàn năm trăm đồng Úc kim), do 25 thí chủ phát tâm hỷ cúng. Đó là những thương gia thuộc Mạnh Thường Quân sinh sống ở vùng Footscray. Gồm có các vị như sau:

  • Ông bà tiệm vàng Kim Ngọc.
  • Ông bà quán hủ tiếu mì Phú Vinh.
  • Ông bà Hải Phát tiệm thực phẩm Á Châu.
  • Ông bà Trần Bá Phúc.
  • Bác sĩ Trần Thanh Nhơn.
  • Ông bà tiệm bánh mì Hòa Bình.
  • Ông bà Gift shop Ming Ming.
  • Ông bà Diamond Head Fashions.
  • Shuey Shing Pty Ltd.
  • Nan - Fong Trading Co.
  • Nien Chiang Pty Ltd.
  • Kiến Phát Trading Co pty Ltd.
  • Indochine Food.
  • Ông bà Nguyễn Hữu Lịch
  • Ông bà tiệm phở Dzũng Tân Định Richmond.
  • Ông bà tiệm vàng Kim Trang.
  • Ông bà Trương Gia Vinh.
  • Ông bà Trần Văn Mãng (Adelaide).
  • Công Thành (Kung – Sinh) pty Ltd.
  • New World Trading Co.
  • Thế Quang Pty Ltd.
  • New Era Trading Co Pty Ltd.
  • Ông bà Châu Video

Ngoài những nhà Mạnh Thường Quân nói trên, còn có một Ban chuyên theo dõi phụ trách điều động công việc xây cổng chùa, gồm có:

  • Bác sĩ Trần Thanh Nhơn đặc trách trông coi đôn đốc tổng quát.
  • Ông Trần Bá Phúc đặc trách ngoại vụ.
  • Ông Hiệp Thành và Ông Hải Phát lo phần vận động tài chánh.
  • Bác Minh Chiếu và kỹ sư Vưu Chí Dũng đặc trách phần kỹ thuật.
  • Luật sư Paul Russo chịu trách nhiệm về việc điều hợp.

Cần nói rõ, sau khi kêu gọi và được các vị nói trên hưởng ứng ủng hộ đóng góp xây cất, sau đó, Ban Trị Sự có viết thư cảm tạ những vị này và đã được đăng trong báo Nhân Quyền số phát hành ngày 9 tháng 3 năm 1995, với nội dung xin ghi lại nguyên văn như sau:

"Hưởng ứng lời kêu gọi Xây Cổng Tam Quan Chùa Quang Minh vùng Braybrook của Hòa Thượng Thích Phước Huệ, Giáo Hội Trưởng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tiểu bang Victoria và Đại Đức trụ trì Thích Minh Trí, các vị có tên (đã nêu trên xin miễn lặp lại, lời người ghi), đã đồng phát tâm ủng hộ và đóng góp Xây Cất Cổng Chùa. Trị giá đồ án Xây Cất Cổng Chùa là $62,274 (sáu mươi hai ngàn hai trăm bảy mươi bốn Úc kim).

      • Phần 1: $52,274 Xây Cổng Tam Quan
      • Phần 2: $10,000 (Úc kim) xây thêm tượng rồng và trang trí Cổng Tam Quan. Tổng số 25 phần mỗi phần đóng góp ủng hộ là $2,500 (hai ngàn năm trăm Úc kim)

Công trình xây cất sẽ được bắt đầu trung tuần tháng 3/1995.

Thay mặt Hòa Thượng Giáo Hội Trưởng và Ban trị sự Chùa Quang Minh, chúng tôi xin chân thành cảm niệm công đức vô lượng của quí vị và xin nguyện cầu hồng ân Tam Bảo thường hằng gia hộ cho quí liệt vị đạo tâm kiên cố, dũng mãnh tinh tấn phò trì Phật pháp phúc lạc vô biên thường hoạch kiết tường viễn ly khổ ách.

Úc Đại Lợi, ngày 22 tháng 02 năm 1995
T.U.N. Hòa Thượng Giáo Hội Trưởng
Đại Đức Thích Minh Trí.

Sau khi tiến hành xây cất hoàn tất, ai trông thấy cũng thầm khen lối kiến trúc đường nét hoa văn thật là độc đáo. Nhìn thấy cổng Tam Quan đứng sừng sững giữa khung trời bao la chan hòa lòng từ bi vị tha vô lượng như đón chào tất cả khách thập phương bước chân vào cõi thiền môn thanh tịnh. Mọi người như trút bỏ mọi gánh nặng não phiền cáu bợn mà đã vì cuộc sống phải bon chen tranh giành vật lộn, gây ra bao nhiêu nghiệp ác khổ đau cho mình và người phải gánh chịu trong cõi đời đầy tang thương hệ lụy này.

Sau khi hoàn thành Cổng Tam Quan, tiếp theo là Ban Trị Sự liền nghĩ đến việc xây hàng rào. Việc xây hàng rào chung quanh nhà, ngoài việc tăng thêm giá trị cũng như làm ấm cúng cho ngôi nhà, nó còn có công dụng là ngăn ngừa được phần nào đối với những kẻ bất lương. Và hơn nữa, ở xứ này, hầu như mỗi nhà đều phải có cái hàng rào. Đó là theo luật định ở Úc. Điều này, chùa cũng không ngoại lệ. Do đó, nên chùa đã quyết định xây hàng rào. Công việc này, do một thiện nam phát tâm trông coi thợ làm và đồng thời anh cũng đứng ra vận động tài chánh, đó là đạo hữu Nguyễn Văn Dũng, chủ công ty du lịch Ngọc Minh.

Xây hàng rào hoàn tất vào ngày 22 tháng 5 năm 1995, với tổng số chi phí là $40.000 Úc kim (bốn chục ngàn Úc kim)

Thành lập quán cơm chay

Trong công việc gây quỹ để lo xây dựng chùa, ngoài các cách như đã nói qua ở phần trên, còn một cách rất quan trọng có tầm mức cơ bản để kiếm tiền lợi nhuận lâu dài, đó là Hội đã sang được một quán cơm chay ở tại thị trấn Footscray, với giá tiền là $35.000 (ba mươi lăm ngàn Úc kim) và đặt tên là Bồ Đề Trai.

Sau khi sang và sửa lại trang trí bên trong, Hội liền cho khai trương vào ngày 16 tháng 6 năm 1995. Công việc quản lý điều hành quán này, Hội giao trách nhiệm cho Sư Cô Nguyên Lưu.

Cần nói rõ thêm, trong phần tiểu sử nói về cuộc đời hành đạo cũng như trong quá trình đóng góp cho chùa Quang Minh của Sư Cô Nguyên Lưu, trong đó có một đoạn nói về việc sang lại quán cơm chay này. Theo Sư Cô Nguyên Lưu lúc còn sinh tiền cho biết, số tiền sang lại quán này không phải do trong Hội xuất ra, mà chính Sư Cô đứng ra vay mượn của Phật tử để trang trải. Sau khi bán được 6 tháng đầu, thì số nợ vay mượn được hoàn trả lại chu tất. Sau đó, tiền lời bán được hằng tháng, Sư Cô đều cúng vào quỹ để xây dựng Đại Hùng Bảo Điện Quang Minh.

Nói đến Sư Cô Nguyên Lưu, hầu như đa số Phật tử thường tới lui chùa Quang Minh đều biết rõ qua sự đóng góp công sức cũng như tài vật của Sư Cô. Một sự đóng góp rất lớn lao trong quá trình xây dựng chùa Quang Minh. Kể từ sau ngày đến Úc, Sư Cô đã gắn liền với chùa Quang Minh trong những công việc mà Sư Cô đã đảm trách, chính do Hòa Thượng giao phó. Từ trách nhiệm Xử Lý Thường Vụ ở ngôi chùa Quang Minh cũ, cho đến nhận lãnh trách nhiệm quản lý quán cơm chay Bồ Đề Trai, suốt thời gian dài đó, Sư Cô đã bỏ ra rất nhiều công sức năng lực để đóng góp. Sư Cô đã đóng góp một cách tích cực năng động trong công cuộc xây dựng chùa.

Công bố bổ nhiệm chức vụ Giáo Hội Phó ngoại vụ

Đến năm 1996, đạo hữu Minh Từ Đặng Văn Hiền đang làm Giáo Hội Phó đặc trách ngoại vụ, vì công ăn việc làm, nên đạo hữu từ nhiệm chức vụ Giáo Hội Phó để di chuyển lên Sydney sinh sống. Trong thời điểm này là điểm "nóng" trong việc giao tiếp với Hội Đồng Thành Phố Brimbank thật tối thiết yếu. Vì công việc đang tiến hành lo dự án xây cất ngôi Đại Hùng Bảo Điện, nên việc ngoại giao phải có người khá thông thạo Anh ngữ để tiếp tục lo công việc này. Do đó, nên Hòa Thượng Giáo Hội Trưởng Ủy nhiệm Đại Đức Thích Phước Tấn thay chức vụ của anh Hiền. Tức chức vụ Giáo Hội Phó Ngoại Vụ. Nội dung nguyên văn lá thơ Ủy Nhiệm như sau:

Ủy Nhiệm Thơ

Vì lý do sức khỏe, tôi xin ủy nhiệm Đại Đức Thích Phước Tấn thay tôi trong việc điều hành công tác ngoại vụ của Giáo Hội PGVNTN tại Victoria, kể từ ngày nhận ủy nhiệm này.
Sydney, 9/3/1996
T.M. Ban Thường Vụ
Giáo Hội Trưởng
Ký tên
Hòa Thượng Thích Phước Huệ.

Kể từ đó, Đại Đức Thích Phước Tấn có mặt tại chùa Quang Minh để xúc tiến lo mọi công việc ngoại giao mà Hòa Thượng đã giao phó trọng trách cho thầy.

Với khả năng khá giỏi về Anh ngữ, nên việc tiếp xúc với các cơ quan chánh quyền sở tại, đối với thầy Phước Tấn cũng không có gì trở ngại khó khăn cho lắm. Do đó, rất thuận lợi cho mọi thủ tục lo tiến hành xây cất ngôi Đại Hùng Bảo Điện.

Đến năm 1997, thầy Minh Trí xét thấy không còn nhân duyên để tiếp tục lo công việc xây dựng chùa Quang Minh nữa, nên thầy đã làm đơn xin từ nhiệm. Thầy đã đệ đơn lên Viện Hoằng Đạo chánh thức xin từ nhiệm kể từ ngày 15 tháng 2 năm 1997 với nội dung nguyên văn như sau:

Melbourne 15/02/1997

Kính gởi: Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo GHPGVNTN ÚC Đại Lợi & Tân
Tây Lan – kiêm Giáo Hội Trưởng GHPGVNTN tại Victoria.
369 Victoria Street,Wetherill Park NSW 2164
Trích yếu v/v: Đơn Xin Từ Nhiệm Trụ Trì

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch Hòa Thượng,
Con Tỳ Kheo Thích Minh Trí hiện tại trụ trì Chùa Quang Minh số 18 Burke St, Braybrook Vic 3019. Trân trọng kính đơn nầy trình lên Hòa Thượng sự việc như sau:

Xét rằng ở Victoria, chùa Quang Minh là một ngôi Đại Già Lam có danh tiếng tốt được nhiều nơi biết đến. Con đã được Hòa Thượng thương tình bổ nhiệm làm trụ trì hơn bốn năm qua. Công việc Phật sự mỗi ngày ở đây mỗi tăng trưởng, hầu đáp ứng nhu cầu phát triển cho tâm linh, tín ngưỡng của Cộng Đồng Phật tử ở tiểu bang nầy. Nó đòi hỏi một vị trụ trì phải là người có đủ tài đức, có óc năng nổ hoạt động khéo léo, phải là cánh tay đắc lực sát cánh phụ giúp với Hòa Thượng lèo lái con thuyền Hoằng dương Chánh pháp, tế độ quần sanh.

Nhưng bất hạnh thay, con đã làm Hòa Thượng quá thất vọng. Vì con đã là một mẫu người không có khả năng làm việc đó, kém đức, kém tài, lại thụ động thiếu năng nổ trong vai trò người lãnh đạo, nên không giúp ích được gì cho Giáo hội. Con cảm thấy quá hổ thẹn, tự xét mình không còn xứng đáng tiếp tục trong cương vị trụ trì chùa Quang Minh Đại Già Lam nữa. Để tránh ngồi choáng chỗ ngăn trệ Phật sự của các vị khác.

Vì vậy, hôm nay con kính đơn nầy ngưỡng mong Hòa Thượng từ bi hoan hỷ vì đại sự của Giáo hội, mà chấp thuận cho phép con được từ nhiệm kể từ ngày hôm nay. Trong khi chờ đợi sự chấp thuận của Hòa Thượng, con thành tâm đảnh lễ Tam Bảo từ bi gia hộ cho Hòa Thượng đạo thể được an khang, phúc quả viên thành.

Khể thủ
Ký tên
Tỳ Kheo Thích Minh Trí.

Sau khi gởi đơn từ nhiệm, thầy Minh Trí đã thực thụ rời khỏi chùa Quang Minh vào ngày 17 tháng 4 năm 1997.

Như vậy, tính từ khi thầy Minh Trí nhận lãnh chức vụ trụ trì cho đến khi thầy rời khỏi Quang Minh, thời gian khoảng 5 năm. Suốt thời gian dài đó, tuy thầy không có phát triển những hoạt động Phật sự khởi sắc lắm, nhưng ít ra thầy cũng đã đóng góp phần nào trong vai trò lãnh đạo với nhiệm vụ của một vị trụ trì.

Cũng trong năm này, vào dịp Đại Lễ Vu Lan, trước số đông đồng hương Phật tử dự lễ, Hòa Thượng tuyên bố là Giáo Hội Trung Ương chánh thức bổ nhiệm Đại Đức Thích Phước Tấn đảm nhận chức vụ Giáo Hội Trưởng của GHPGVNTN tại Victoria và kiêm nhiệm trụ trì chùa Quang Minh. Cần nói rõ thêm, trước đó, dù đã có giấy ủy nhiệm, nhưng chưa có cơ hội đông đủ Phật tử để Hòa Thượng công bố, nay nhân dịp Đại Lễ Vu Lan Phật tử về chùa tham dự đông đảo, nên Hòa Thượng mới công bố.

Sau khi chánh thức đảm nhận hai trọng trách, do Viện Hoằng Đạo bổ nhiệm, thầy Phước Tấn đã nỗ lực đẩy mạnh mọi sinh hoạt của Hội. Sự lãnh đạo hoạt động của thầy, không những lo trong phạm vi cho chùa không thôi, mà thầy còn mở rộng phạm vi trong những lãnh vực hoạt động khác, đặc biệt nhứt là về lãnh vực giao tiếp cứu tế xã hội. Thầy giao tiếp và giúp đỡ rất rộng rãi với mọi giới. Vì vậy, tiếng tăm của thầy càng lúc mọi người càng biết đến nhiều. Không những trong giới Cộng Đồng Người Việt mà ngay cả các Cộng Đồng Sắc Tộc khác, nhứt là trong giới chánh quyền cũng đều biết đến.

Do bản chất của một người năng hoạt động, thêm vào đó thầy có khả năng qua nhiều lãnh vực, mà lợi khí sắc bén của thầy trong khi giao tiếp với mọi sắc dân trong những Cộng Đồng Sắc Tộc khác, đó là Anh ngữ. Nhờ nói thông thạo Anh ngữ, nên việc giao tiếp của thầy rất là thuận lợi. Đó cũng là một yếu tố thiết yếu tạo nên việc dễ dàng trong công cuộc xây dựng chùa.

Nói về đức hạnh, thì thầy là người rất cởi mở hiền hòa nên dễ hòa đồng với mọi người. Nhất là giới trẻ cũng rất thích giao tiếp với thầy, vì chúng dễ cảm thông hơn. Chính vì thế, mà thầy đã chiếm được cảm tình và sự hỗ trợ của mọi người, mọi giới, nhất là giới chánh quyền địa phương. Các tờ báo Úc địa phương, họ cũng luôn quan tâm theo dõi và đăng nhiều bản tin cũng như những hình ảnh sinh hoạt của chùa. Điều đó, cho thấy uy tín của thầy cũng như việc làm của những vị có trách nhiệm trong Ban Trị Sự rất được sự chú ý của họ. Và đó cũng là điều rất thuận lợi cho công cuộc xây dựng chùa.

Xây dựng hội trường đa dụng và mái nhà bán thực phẩm

Một công trình kế tiếp thật quan trọng sau công trình xây cất chánh điện tạm, đó là công trình xây dựng hội trường đa dụng với diện tích là 600m2. Dĩ nhiên, công trình này cũng nằm trong toàn bộ mô hình chung của những dự án xây cất. Hội trường này, tuy không đủ sức dung chứa quý đồng hương Phật tử trong những ngày Đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan, hay Tết Nguyên Đán, nhưng
nó cũng không đến đổi để cho chùa phải lo chạy đi tìm kiếm vất vả thuê hall như trước kia. Đó cũng là một niềm vui chung rất lớn lao của toàn thể đồng hương Phật tử.

Chính nhờ cái hội trường đa dụng này, mà mỗi năm chùa đỡ phải tốn kém chi phí rất nhiều. Song song với việc xây cất hội trường này, bên cạnh đó còn có xây thêm một mái nhà lợp tôle nằm sát cạnh dọc theo hội trường. Mái nhà này, hiện nay là nơi bày bán các loại thức ăn và một vài thứ vật dụng linh tinh khác. Mục đích chính là để gây thêm ngân quỹ cho chùa.

Có thể nói, đây là mái ấm chung của quý đồng hương Phật tử về chùa vào những buổi sáng chủ nhật cuối tuần. Họ ngồi bên nhau vừa thưởng thức hương vị đậm đà đặc sản của những tô bún Huế nóng hổi đầy mùi vị quê hương của xứ Thần Kinh và những ly cà phê sữa đá thơm ngon, rồi vừa hàn huyên tâm sự trong thâm tình đồng hương, đồng đạo. Thật là một tâm cảnh rất thú vị lý tưởng tuyệt vời!

Dù là ăn uống tại chỗ hay mua thức ăn đem về, tất cả cũng đều biểu lộ tấm lòng thiện ý nhằm muốn đóng góp thêm chút ít tài chánh cho chùa. Ngoài việc ăn uống trả tiền ra, chùa còn khoản đãi một bữa cơm chay thanh đạm để cho mọi người gieo thiện duyên với Tam Bảo. Một khung cảnh thật ấm cúng tràn đầy hương vị tình người và tình đạo.

Gian nhà được chia làm hai phần: một bên để bày bán thức ăn, một bên là văn phòng Chùa, Hội và phòng phát hành những Phật cụ cũng như của một vài đoàn thể khác.

Đối diện song song với mái nhà bày bán thức ăn là khu vực nhà bếp và nhà vệ sinh. Đây là vùng địa phận của các nữ tướng hỏa đầu quân quản trị. Sở dĩ nhà bếp có được những tiện nghi vật dụng trong việc nấu nướng này, phải nói phần lớn là do công lao vận động đề nghị của Thượng nghị sĩ Rod Kemp với chánh phủ liên bang. Vì theo Ông, với bếp cộng đồng của chùa sẽ cung cấp các buổi ăn cho những người có lợi tức thấp, đồng thời cũng là nơi thuận lợi để mở ra các lớp huấn nghệ làm bếp nhằm phục vụ các bữa ăn cho Cộng Đồng. Do sự theo dõi và đề nghị của Thượng nghị sĩ Rod mà chánh phủ liên bang đã cấp cho nhà bếp Quang Minh với số tiền là 165 ngàn Úc kim.

Chính nơi đây đã sản xuất nhiều loại thực phẩm đặc biệt để cung ứng cho những buổi tiệc cơm chay gây quỹ, những khóa tu học định kỳ và đặc biệt, những kỳ thọ bát hằng tuần, những bữa ăn miễn phí, và nhất là cung ứng cho việc buôn bán kiếm tiền để bỏ vào quỹ xây dựng chùa. Đó là sự đóng góp công đức rất lớn của các nữ tướng hào kiệt giàu lòng tâm đạo phụng sự cho ngôi Tam Bảo.

Được biết, hội trường và mái nhà này, xây cất hoàn tất vào ngày 14 tháng 11 năm 1997, với tổng số chi phí là $107.375 (một trăm lẻ bảy ngàn ba trăm bảy mươi lăm Úc kim).

Xây dựng ngôi nhà lục giác thờ tượng Tam Thánh

Phật tử khi đến chùa lễ bái cầu nguyện, sau khi họ vào chánh điện lễ Phật và thắp vài nén hương tưởng niệm ở hai bên bàn thờ vong linh xong, họ liền bước thẳng ra nơi chỗ thờ Tôn Tượng Tam Thánh. Tam Thánh gồm có đức Phật A Di Đà đứng chính giữa còn hai bên tả hữu là hai vị Đại Bồ tát: Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Từ ngoài nhìn vào thì Đức Bồ tát Quán Thế Âm đứng bên cánh tay trái của Đức Phật A Di Đà, còn bên tay phải của Ngài là Đức Bồ tát Đại Thế Chí. Đây là hai vị Đại Bồ tát đứng hầu hai bên, như để phụ tá với Đức Phật Di Đà. Những Phật tử tu theo pháp môn Tịnh Độ, thì thường hay tôn thờ tượng Tam Thánh nầy.

Chùa Quang Minh là tu theo hệ phái Tịnh Độ tông dưới sự hướng dẫn chỉ giáo của Hòa Thượng Trưởng Lão Tông Trưởng thượng Phước hạ Huệ. Nên nơi đây là một đạo tràng Tịnh độ. Do đó, việc quy hướng Tôn thờ Tượng Tam Thánh, đó là sở nguyện chung của các liên hữu. Nên Hòa Thượng đã cho xây dựng một ngôi nhà lục giác bên hông chánh điện tạm hiện thời để cho quý đồng hương Phật tử tiện bề lễ bái gieo chủng duyên Tịnh Độ sâu dày. Khi lễ lạy Tam Thánh, tất nhiên, mỗi người đều thiết tha phát nguyện chí thành cầu sanh Tịnh Độ. Đó cũng là một phương tiện rất hữu ích giúp cho Phật tử, liên hữu trồng sâu thêm căn lành với pháp môn niệm Phật và với Đức Phật A Di Đà.

Được biết, ngôi nhà này được xây dựng và thỉnh Tôn Tượng Tam Thánh về thờ hoàn tất vào đầu năm 2000. Tất cả số tịnh tài chi phí cho công trình nầy là do một số quý Phật tử đặc biệt phát tâm hỷ cúng. Từ đó đến nay, nơi đây lúc nào cũng có quý đồng hương Phật tử thường tới lui chiêm ngưỡng lễ bái.

Tạo mãi thêm đất đai

Để đáp ứng nhu cầu số đồng hương Phật tử cũng như các đoàn thể sinh hoạt khác, mỗi ngày mỗi đông hơn, nên Hội xét thấy cần phải mở rộng thêm địa bàn sinh hoạt nơi đây. Ngoài lô đất đã mua đầu tiên ra, cũng may là những lô đất nhỏ nằm kế bên lần lượt người chủ đất họ cũng muốn bán luôn cho chùa. Vì dẫu họ có bán cho người khác chắc cũng không ai muốn mua. Vì không thể xây cất nhà kế bên chùa, làm sao họ chịu đựng được sự ồn náo. Đó cũng là một cơ duyên thuận lợi tốt cho chùa để mở rộng thêm quần thể kiến trúc toàn khu theo một dự án ngắn và dài hạn ở tương lai.

Phải nói, trong thời gian ba năm kể từ 1995 đến năm 1997 chùa có nhiều thuận lợi là lần lượt mua thêm được ba lô đất kế bên nối liền của lô đất đầu tiên.

  • Lần thứ nhứt, mua được lô đất số 1, diện tích là 3.305m2 với giá tiền là $125.000 (một trăm hai mươi lăm ngàn Úc kim )
  • Lần thứ hai, mua được lô đất số 2, diện tích là 2.434m2 với giá tiền là $118.000 (một trăm mười tám ngàn Úc kim)
  • Lần thứ ba, mua được lô đất có diện tích là 8.500m2 với giá tiền là $246.000 (hai trăm bốn mươi sáu ngàn Úc kim)

Như vậy, tổng diện tích đất mà chùa hiện có, là hơn 6 mẫu tây. Theo dự án xây cất dài hạn, thì trên những lô đất này, ngoài ngôi Đại Hùng Bảo Điện ra, sẽ lần lượt xây dựng thêm một vài cơ sở thiết dụng khác như: Tăng xá, bảo tháp, khu vãng lai, trung tâm thiền thất, trung tâm giáo dục, và bãi đậu xe v.v...

Ngoài ra, còn có một vài công việc Phật sự khác đáng ghi nhớ trong năm 1998 này:

  • Thầy trụ trì Thích Phước Tấn mời pháp hữu Thiện Đại giảng kinh Pháp Hoa vào mỗi buổi sáng chủ nhật hằng tuần, tại hội trường đa dụng, số thính chúng dự nghe rất đông.
  • Pháp hữu Thiện Đại đã xin phép Hòa Thượng Liên Trưởng cho phục hoạt Cực Lạc Liên Hữu, sau thời gian dài tạm ngưng hoạt động. Việc thỉnh cầu này đã được Hòa Thượng chấp thuận. Trước mặt đại chúng đông đảo, Hòa Thượng tuyên bố: Đại Đức Thích Phước Tấn làm Trưởng ban và pháp hữu Thiện Đại làm Chánh thư ký.
  • Sau đó, pháp hữu Thiện Đại biên soạn Nội Quy và rồi phổ biến, đồng thời thành lập Ban lãnh chúng và thu nhận các liên viên. Đạo tràng Cực Lạc Liên Hữu Quang Minh bắt đầu sinh hoạt từ năm đó. Và cũng chính quý liên hữu trong đạo tràng này, về sau đã tích cực đóng góp công sức và tài vật cho việc xây dựng ngôi Đại Hùng Bảo Điện Quang Minh rất nhiều.

Làm đường và tạo cây cảnh ở dưới triền đồi

Đến chùa Quang Minh, nếu chúng ta không đưa mắt nhìn về hướng phía thung lũng triền đồi, để thấy toàn cảnh sắc dàn trải phô bày muôn ngàn vẻ đẹp trước mắt, thì thật đó cũng là một điều thiếu sót rất lớn. Thật vậy, sau khi lễ Phật xong, bạn thử ra phía trước chánh điện nhìn xuống dòng sông Maribynong thơ mộng nước lững lờ trôi chảy, bạn sẽ cảm thấy cảnh trí nơi đây thật là nên thơ duyên dáng hữu tình ngoạn mục. Cảnh sắc thiên nhiên, tự nó đã có một mãnh lực thu hút lòng người thưởng ngoạn rất lớn. Đã thế, mà chùa còn tạo thêm cảnh trí cho khách ngoạn du, thì thật là càng làm tăng thêm vẻ đẹp thanh kỳ mỹ tú nơi đây, đầy sức hấp dẫn quyến rũ người ta biết chừng nào!

Một con đường đổ đá chạy dài ngoằn ngèo hình thể giống như một con rồng nằm dài uốn khúc. Thật vậy, dù không phải là người có kiến thức về phong thủy học, nhưng tôi cũng có thể hình dung như một con rồng vĩ đại đang nằm ẩn mình dưới thấp và đầu của nó thì cất cao ngẩng đầu lên, còn đuôi thì xòe ra như hình rẻ quạt. Nếu đứng từ phía dưới cuối đuôi rồng, đưa mắt nhìn lên phía trên, ta sẽ thấy như là một quần thể kiến trúc hiện đang tọa lạc ở trên đầu con rồng. Nhất là ngôi Đại Hùng Bảo Điện đứng sừng sững cao vút giữa trời đất bao la như sẵn sàng chào đón khách thập phương lạc lối hãy mau quay về nẻo thiện.

Rồng là một loài động vật rất linh thiêng và biến hóa khôn lường. Biểu trưng cho một sự tiến hóa tốt lành. Có lẽ chính vì thế, mà trong bao nhiêu năm qua, kể từ khi ngôi chùa dời về đây, mọi sinh hoạt Phật sự đều nhịp nhàng trôi chảy ngày càng thăng tiến và khởi sắc tốt đẹp. Dù có gặp rất nhiều chướng ngại khó khăn thử

thách từ mọi phía, nhưng tất cả đều vượt qua hết. Âu đó cũng là một nhân duyên kỳ lạ! Phải chăng, đây cũng là một nhân duyên thử thách lớn lao: "tiền hung hậu kiết, khổ tận cam lai". Ngoài việc trải đá ra, thầy trụ trì còn phải để tâm đến làm những bậc thang vừa tầm chân bước lên, để mọi người khỏi phải trợt chân vấp té.

Thầy cũng đã kêu gọi Phật tử đóng góp nhiều loại cây để trồng chung quanh triền đồi. Được biết việc trồng cây tạo thêm cảnh đẹp này đã trải qua nhiều lần. Nhưng lần nào, cũng được quý liên hữu Phật tử già trẻ đều hưởng ứng nồng nhiệt. Mỗi người cầm một cái xuổng nhỏ trên tay hăng hái xăng xái để đào từng lỗ rồi đặt cây xuống. Đó cũng là biểu hiện có một cách nhìn xa tạo thêm thắng cảnh nên thơ trong tương lai.

Vì đã nói đến chùa, tất nhiên là phải nói đến cây cảnh. Chùa có nhiều cây cao bóng mát, thì tạo thêm cảnh chùa có nhiều trang nhã u tịch thanh vắng và mát mẻ. Cảnh trí yên tịnh, thanh lịch là nhờ có nhiều cây to tàn lá sum suê rậm mát. Đến nơi đâu mà có được cảnh trí như thế, thì tự nhiên lòng người cảm thấy rất nhẹ nhàng thoải mái mát dịu. Nhất là đối với thời đại khoa học máy móc điện tử ngày nay, làm cho tâm trí người ta luôn luôn bất an rối loạn như tơ vò.

Càng sống đua đòi trục vật theo nền khoa học kỹ thuật vật chất, thì lòng người càng thêm điên đảo thác loạn. Trở về cảnh chùa tìm nơi yên tĩnh nhờ có cây cao bóng mát gió thổi vi vu, lắng nghe tiếng chim kêu ríu rít trên cành, tạo nên một bản nhạc thiên nhiên đầy thú vị. Có thế, thì lòng người ta mới cảm thấy vơi đi bao nỗi ưu phiền nặng trĩu khó thở.

Do nghĩ thế, nên suốt trong bao năm qua, lúc nào thầy trụ trì cũng nghĩ đến việc tạo khung cảnh chung quanh chùa có nhiều cảnh đẹp để mọi người có thêm cơ hội nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Đó là cách nuôi dưỡng và phát triển đời sống tâm linh hay nhứt ở cái xứ sở văn minh trục vật này.

Cần nói thêm, trong thời gian gần đây, ngoài việc trồng cây ra, chùa còn tạo thêm một khu vườn trông cũng rất xinh lịch đẹp mắt. Được biết khu vườn nhỏ nằm ở phía dưới triền đồi nầy là do Phật tử Tony Lê Nguyễn phụ trách. Anh đã đứng ra thúc đẩy và hướng dẫn những thiện nguyện viên trong công tác tạo nên khu vườn nầy. Khu vườn tuy không rộng lớn lắm, nhưng cũng đủ để trồng một vài thứ hoa màu như rau cải, bầu bí, sả, ớt v.v... Một sự trồng trọt vừa tiêu khiển giải trí, cũng vừa đem lại chút ít nguồn lợi vật thực cho chùa.

Ngoài ra, trước cổng Tam Quan dọc theo triền đồi phía trước Thánh tượng Bồ Tát Quan Thế Âm lộ thiên, chùa cũng cho đổ đất đá để mở rộng thêm tiền đình và lối đi cho được rộng rãi thoải mái. Việc làm nầy cũng nằm trong quy hoạch tạo thêm phong cảnh trang nhã mỹ quan chung quanh chùa. Chắc chắn tương lai không xa, cảnh trí chung quanh của ngôi Đại Già lam Quang Minh nầy, sẽ trở thành một thắng cảnh có nhiều sắc thái kỳ quan mỹ tú trông rất hấp dẫn thú vị đẹp mắt.

Đặt đúc tượng Đấng Trung Tôn và 2 tượng Bồ Tát

Khi xây chùa, tất nhiên, người ta phải nghĩ ngay đến việc thờ Phật. Hiện nay, ở các chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc Tông thường người ta chỉ thờ một tượng Phật Thích Ca ở chính giữa chánh điện và hai bên có hai vị Đại Bồ tát. Chùa Quang Minh cũng thế. Để cho việc thờ Phật tôn trí trang nghiêm cân xứng với ngôi Đại Hùng Bảo Điện, Hòa Thượng liền cho người đặt tượng Phật tại Đài Loan. Vì nơi đây, có những tay thợ chuyên môn đúc tượng Phật. Họ là những người có tay nghề giỏi nên việc đúc tượng của họ vừa bảo đảm vững chắc lại vừa có tướng hảo quang minh.

Tượng Đấng Trung Tôn Thích Ca Mâu Ni được đúc bằng đồng với kích thước chiều cao là khoảng 4 mét, nếu tính luôn tòa sen và bệ để thờ thì chiều cao là 7m6. Tôn tượng nầy, do gia đình Phật tử Mã Bình (tiệm lò bánh mì Sunshine) phát tâm hỷ cúng. Còn tòa sen là do gia đình của liên hữu Như Lữ phát tâm hỷ cúng. Được biết, với giá tiền chi phí cho việc đúc tượng Phật cũng như tòa sen, ở vào thời điểm của năm 2000 là vào khoảng trên $50.000 (năm mươi ngàn Mỹ kim).

Riêng về hai tượng của hai vị Đại Bồ tát Quan Âm và Địa Tạng, so với tượng đấng Trung Tôn, thì không được cân xứng lắm. Tuy nhiên, nếu đứng từ xa bên trong chánh điện nhìn vào, thì ta thấy cũng không đến đổi thấp lắm. Mặc dù hai tượng được tôn trí chiều cao không quá 4 thước. Được biết, tôn tượng Quán Thế Âm, là do gia đình Phật tử Tâm Sở và một số Phật tử khác phát tâm hỷ cúng. Tôn tượng Địa Tạng là do gia đình của Phật tử Diệu Tâm và một số Phật tử khác góp phần hỷ cúng.

Những liên hữu Phật tử phát tâm làm công quả thường xuyên gây quỹ cho chùa

Như đã nói công việc xây dựng chùa là công việc đóng góp chung của mọi người. Hầu hết quý đồng hương Phật tử sinh sống ở tiểu bang nhà, ít nhiều gì họ cũng đã phát tâm góp phần công của vào công việc hữu ích chung này. Tuy nhiên, sự đóng góp còn tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mỗi người. Trong bao nhiêu năm qua, có nhiều Phật tử đã bỏ ra rất nhiều công sức để đóng góp. Nhưng trong thời gian gần đây, kể từ khi ngôi chùa đã hình thành tạm thời, thì có nhiều Phật tử đã về chùa vào những ngày cuối tuần, họ cùng nhau nỗ lực tích cực góp phần công quả cho chùa.

Ai cũng biết việc gây quỹ cho chùa nhằm tiến đến xây dựng ngôi Đại Hùng Bảo Điện Quang Minh thực thụ khang trang rộng lớn, dĩ nhiên, phải có nhiều hình thức gây quỹ.

Ngày xưa, nhớ lại, có nhiều gia đình Phật tử gây quỹ bằng cách bỏ tiền vào lon tiết kiệm. Họ chắt mót từng đồng từng cắc để cúng dường cho chùa. Quý thầy kêu gọi phát lon cho họ kể cả các trẻ em cũng tham gia vào việc gây quỹ tiết kiệm cúng dường này. Có nhiều phụ huynh đã tạo cơ hội muốn cho con cháu của mình biết làm điều thiện tài bồi phước đức. Họ làm như thế, chỉ với một tâm nguyện duy nhất là muốn cho mọi người có được một mái ấm chung để tôn thờ và lễ bái tu học. Đó là một nghĩa cử cao đẹp và cũng là một nguồn an ủi thiêng liêng duy nhất để nuôi dưỡng đời sống tâm linh của họ trên xứ lạ quê người.

Với tấm lòng bi nguyện từ tâm rộng lớn đó, họ đã biểu hiện cúng dường Tam Bảo bằng nhiều cách khác nhau. Tùy theo căn cơ trình độ và hoàn cảnh của mỗi người mỗi khác. Có người đến chùa chỉ thích làm công quả bằng tay chân. Có người đến chùa muốn dùng trí óc của mình để làm việc gì đó giúp cho chùa. Có người đến chùa chỉ thích khép mình theo quy luật của thiền môn để tu học v.v...

Dù thể hiện dưới bất cứ dạng thức nào, tất cả cũng nhằm một mục đích chung là muốn tài bồi thêm cho mình có thêm nhiều phước trí và lợi ích chung cho mọi người. Đó cũng là thể hiện tinh thần tự lợi và lợi tha của Phật giáo.

Với phong cách hướng thượng đó, phải nói chùa Quang Minh từ những năm qua và nhất là trong giai đoạn gần đây, có một lực lượng người công quả khá hùng hậu. Họ bày bán đủ thứ nhu cầu thực phẩm vào mỗi buổi sáng của những ngày chủ nhật hằng tuần. Người chủ động điều hợp nhân sự chính trong việc này là hai Phật tử: Diệu Tâm và Tâm Sở.

Hai vị này đều là liên hữu trong đạo tràng và cũng là thành viên trong Ban Trị Sự Hội. Cô Ba Diệu Tâm là một Phật tử kỳ cựu của chùa Quang Minh. Cô đã tham gia sinh hoạt trong Ban Hộ Niệm cũng như trong Cực Lạc Liên Hữu khi chùa Quang Minh còn ở địa chỉ đường Morris, Sunshine . Riêng cô Tâm Sở bắt đầu có mặt trực tiếp lo công việc trù đường cho chùa kể từ năm 1994, sau khi chùa dời về nơi đây mãi cho đến hôm nay.

Phải nói hai cô này là chủ yếu cốt cán của Ban Trù Đường. Cho nên, mọi việc sắp xếp nấu thức ăn ở nhà bếp phần lớn là trách nhiệm ở nơi hai cô này.

Được biết, hằng năm vào những ngày đại lễ như Phật Đản, Vu Lan nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán, các khâu buôn bán thức ăn kiếm được khá nhiều tiền. Trong các khâu buôn bán nầy, phải nói khâu hái ra tiền nhiều nhất là khâu bán bún Huế. Ai cũng biết bún Huế ngon là nhờ nước lèo. Người có tay nghề chuyên môn trong lãnh vực nầy là cô Tâm Hải. Cô đã bỏ ra nhiều công sức để nấu những nồi nước lèo rất to. Bên cạnh cô còn có một vài liên hữu Phật tử khác cũng tận tâm phụ giúp với cô. Nói chung, hầu hết những người trong các khâu buôn bán nầy họ phải chịu cực, chịu khổ vất vả nhiều nhứt. Mỗi kỳ đại lễ như vậy, thường là họ phải thức khuya dậy sớm để lo chuẩn bị nấu

nướng mọi thứ thức ăn để bán. Tất cả tiền mà họ kiếm được đều bỏ vào quỹ xây dựng chùa. Công lao đóng góp của họ cũng khá lớn lao thật đáng tán dương khích lệ.

Ngoài những liên hữu Phật tử phát tâm công quả trong việc buôn bán thức ăn này ra, còn lại một số những vị khác, nhứt là bên các vị thiện nam cũng đã góp phần đắc lực lo công quả giúp cho chùa trong một vài lãnh vực chuyên môn khác như là:

  • Dọn quét lau chùi sạch sẽ chung quanh chùa.
  • Sắp xếp bàn ghế vào những dịp đại lễ, nhất là vào những buổi tiệc cơm chay gây quỹ.
  • Săn sóc làm đẹp cây kiểng.
  • Trồng vạn thọ bán vào dịp Tết.
  • Thiết lập hệ thống âm thanh ánh sáng v.v...

Khi đề cập đến vấn đề hệ thống âm thanh, không thể không ghi nhận công đức đóng góp của đôi vợ chồng trẻ Tony Lê Nguyễn và Mỹ Phương. Hai vị này lo phần âm thanh cho những ngày đại lễ cũng như những buổi lễ đặc biệt tổ chức tại chùa. Đó là một sự đóng góp rất nhiệt thành. Ngoài ra, Tony Lê Nguyễn còn phụ trách trang Website Quang Minh. Những tin tức cập nhật của chùa hay của đạo tràng, cũng như những bài viết qua nhiều đề mục trong các lãnh vực: Phật giáo, văn hóa, văn học, xã hội v.v... anh đều phổ biến thông tin trên website. Nhờ đó, mà mọi người có thể nghiên cứu học hỏi thêm và biết được phần nào những sinh hoạt của chùa.

Những Phật tử làm công quả đóng góp trực tiếp giúp xây dựng ngôi Đại Hùng Bảo Điện, tuy có nhiều phần vụ đóng góp khác nhau, nhưng phần lót gạch phải nói là do cặp vợ chồng Đặng Minh Chiêu và Trần Bích Thủy pháp danh Hạnh Thông đảm trách. Hai vị nầy đã phát tâm làm công quả giúp cho chùa vào hai ngày cuối tuần thứ bảy và chủ nhật. Họ là những người thợ chuyên môn trong việc làm nầy. Ngoài ra, còn có các Phật tử khác như vợ chồng của Phật tử Tịnh Từ và đạo hữu Lê Văn Thắng là những người bên cạnh phụ lực cho hai người thợ chánh. Phật tử Hồ Thanh, anh là người sinh sống ở Sydney, nhưng anh cũng thường xuyên xuống để phụ giúp những việc linh tinh cần thiết trong công trình xây cất nầy. Ngoài công việc phụ trách chuyên môn của anh ra, anh còn được Thầy và Ban Trị Sự giao phó trách nhiệm cho anh việc quan sát cân nhắc bảo vệ an toàn cho công nhân làm việc tại công trường. Đó là những Phật tử đã tận tâm lực đóng góp thường xuyên một cách tích cực.

Trong số các thiện nam công quả, phải nói đặc biệt nhất là có một người Úc tên của ông là Robert Amond, người ta thường gọi ông là Bob. Ông đã quy y và có pháp danh là Minh Phúc. Tuy trọng tuổi, nhưng ông rất siêng năng. Ông thường đến chùa vào những ngày cuối tuần để lo quét dọn lau chùi và làm mọi việc lặt vặt chung quanh chùa. Tánh tình của ông hiền hòa nói năng từ tốn vui vẻ rất dễ thương mến. Ông đã mất vào ngày 17 tháng 8 năm 2008, hưởng thọ 80 tuổi.

Ngoài ra, còn có nhiều Phật tử khác đã nhiệt tâm đóng góp trong lãnh vực chuyên môn về vấn đề hoằng pháp. Những vị nầy chuyên đặc trách phần vụ ở thư viện lo việc sang băng dĩa qua nhiều thể loại băng giảng khác nhau, nhằm mục đích ấn tống phát hành phổ biến Phật pháp rộng rãi khắp nơi. Đây cũng là một đóng góp công đức rất lớn lao trong công việc hoằng dương Phật pháp ở xứ người.

Thật ra, còn rất nhiều những Phật tử khác mà họ đã âm thầm tích cực đóng góp công của cho chùa mà chúng tôi không thể nào liệt kê danh tánh của họ ra hết ở đây được. Kính mong quý vị hãy thứ lỗi bỏ qua cho chúng tôi. Chúng tôi vẫn biết quý vị là những Phật tử rất nhiệt tâm nhiệt thành hằng tâm hằng sản, đem hết sức mình đóng góp công quả cho chùa một cách rất âm thầm tích cực mà quý vị không cần ai biết đến. Đó là quý vị đã thể hiện tâm hành của Bồ tát đạo. Dù không ai biết đến, nhưng chư Phật, chư Bồ tát, chư long thần hộ pháp đều biết và chứng minh cho tấm lòng cao đẹp quý giá của quý vị hết rồi. Chúng tôi xin kính cẩn nghiêng mình thán phục việc làm đóng góp âm thầm của quý vị.

Đạo tràng Quang Minh

Chùa ngoài việc đáp ứng những nhu cầu tín ngưỡng thông thường của đại chúng, nó còn là nơi đáp ứng được nhu cầu tu học cho Phật tử. Mà việc tu học mới là nền tảng chính yếu của người Phật tử. Người Phật tử sau khi quy y Tam Bảo, còn cần phải nghiên cứu tìm hiểu học hỏi Phật pháp. Nếu không, thì chưa xứng danh và đúng nghĩa là người Phật tử.

Bởi vì có học hỏi Phật pháp, thì người Phật tử mới biết được đường lối tu hành. Vì vậy, từ xưa các bậc Cổ Đức thường khuyến nhắc: "Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đải sách". Lời dạy này, nhằm khuyên bảo thức nhắc chúng ta tu và học phải đi đôi với nhau. Vì học là bổ túc cho sự tu hành đúng theo chân lý Phật dạy.

Học như người có đôi mắt sáng. Còn hành như người có đôi chân vững mạnh. Có mắt sáng mà không có đôi chân vững mạnh để đi, thì cũng không bao giờ tới đích mình muốn. Ngược lại, có đôi chân vững mạnh mà không có đôi mắt sáng, thì trong khi đi sẽ dễ bị sa hầm sụp hố tà kiến rất nguy hiểm. Vì thế, là người Phật tử chúng ta nên nhớ: "Tu và học cả hai phải được ứng dụng song hành với nhau".

Đạo tràng Quang Minh, nói đủ là Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng. Như trên, chúng tôi đã có nói qua, đạo tràng bắt đầu phục hoạt vào năm 1998 cho đến nay là tròn 10 năm. Sự sinh hoạt tu học của đạo tràng có quy củ, có tổ chức lề lối nề nếp hẳn hoi. Tổng số liên viên chánh thức hiện nay có khoảng trên 220 vị (2008).

Mười năm qua, đạo tràng sinh hoạt tu học rất tiến bộ hòa hợp nhịp nhàng. Tất cả đều có chung một chí hướng, một mục đích duy nhất là cùng nhau niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Đây là tôn chỉ và cũng là hướng tiến mà đạo tràng đã và đang nhắm tới. Vì thế, trong những năm qua đạo tràng luôn luôn gắn liền với ngôi chùa. Đạo tràng là nơi tập trung tu học của một đoàn thể. Quang Minh là ngôi chùa cũng là nơi che chở bảo bọc cho một đoàn thể luôn được ấm lòng tu học.

Theo ý hướng đó, giữa đạo tràng và chùa tuy hai tên gọi dường như có khác nhau, nhưng thực tế thì chỉ là một. Đạo tràng là chùa mà chùa cũng là đạo tràng. Rời chùa thì không thể có đạo tràng. Như vậy, giữa chùa và đạo tràng có sự liên hệ mật thiết tương quan khắn khít chặt chẽ với nhau.
Minh định như thế, để thấy rằng trong bao nhiêu năm qua, dưới sự chứng minh và chỉ

đạo của Hòa Thượng Liên Trưởng, tất cả các liên viên trong đạo tràng coi chùa Quang Minh là một cơ sở mái nhà chung của mọi người. Do đó, nên ai nấy đều phải có bổn phận lưu tâm bảo vệ đóng góp duy trì và phát triển.

Nói một cách khác nghiêm khắc hơn, chùa Quang Minh là nơi hun đúc nuôi dưỡng tạo cho họ có được một đời sống an ổn trong tinh thần cầu tiến tu học và hạnh phúc. Có thể nói, họ là một
đoàn thể tu học rất nghiêm túc làm nền tảng hậu thuẫn cho chùa có thêm sự vững mạnh trong ý hướng phát huy mở rộng tâm thức đạo đức phục vụ nhân sinh.

Điều đó, minh chứng cụ thể qua sự nhiệt tâm đóng góp công sức cũng như tài vật của họ trong suốt thời gian qua. Vì là một tổ chức cho nên sự phát tâm cúng dường ủng hộ của họ là đóng góp chung của một tập thể. Được biết, họ đóng góp xây dựng chùa qua nhiều đợt. Tính từ năm 2005 đến 2008, tổng số tiền mà đạo tràng phát tâm hỷ cúng để xây cất ngôi Đại Hùng Bảo Điện, qua 3 đợt tổng cộng là $125.330 cent (một trăm hai mươi lăm ngàn ba trăm ba mươi Úc kim). Con đường trải đá chung quanh chánh điện cũng do đạo tràng đóng góp. Và việc đóng góp tịnh tài xây dựng này, hiện đạo tràng vẫn còn đang tiếp tục.

Ngoài việc đóng góp công sức và tài vật ra, họ còn đóng góp trong tinh thần tu học của họ. Hằng tuần họ đều có đến chùa thọ bát. Một số ít thọ bát trọn một ngày đêm bắt đầu mỗi sáng thứ bảy hằng tuần cho đến sáng chủ nhật. Còn lại số đông thì cứ mỗi hai tuần họ đến chùa thọ bát tu học một lần. Số người thọ bát qua mỗi kỳ vào những ngày chủ nhật có hơn trăm vị. Họ đã phục vụ cho chùa rất đắc lực. Tất cả những nhân sự nam nữ trong nhóm công quả cho chùa, họ là những liên viên trong đạo tràng. Đạo tràng phân phối cắt đặt cho họ để họ lo làm công quả phụ giúp cho chùa.

Ngoài ra, họ cũng còn là thành phần cốt cán trong Ban hộ niệm của chùa. Họ phụ giúp cho chùa trong việc đám sám khi chùa cần đến. Đó là một đội ngũ rất trung kiên nhiệt thành, do đạo tràng phân phối nhằm giúp cho những gia đình của quý đồng hương Phật tử trong khi hữu sự cần đến như cầu an, cầu siêu v.v... Nhất là trong việc ma chay tang lễ. Họ hiệp lực cùng với chư Tôn Đức Tăng Ni để dốc lòng thành tâm tụng kinh cầu nguyện cho các hương linh quá vãng sớm được siêu sanh Lạc quốc. Trong hoàn cảnh của chùa Quang Minh hiện nay, không có đủ chư Tăng Ni để lo ứng phó công việc đám sám này. Cho nên chùa rất cần đến Ban này để phụ giúp.

Việc làm của họ là một đóng góp rất thiết thực tích cực cho chùa. Họ làm việc một cách thành tâm và không vụ lợi. Được thế do đâu? Do họ được sự hướng dẫn đào tạo rèn luyện tu học trong một đoàn thể có nề nếp quy củ. Nhờ thế, mà họ mới hiểu được Phật pháp phần nào và rồi họ mới có sự phát tâm mạnh mẽ như thế. Phải thành thật mà nói, người có công lao năng nổ hoạt động hăng say bất kể giờ giấc trong lãnh vực này nhiều nhất, là liên hữu Tâm Hải. Cô này, phát tâm rất mạnh, dù bất cứ lúc nào hay bất cứ ở nơi đâu xa hoặc gần, nhưng khi chùa cần đến, thì cô luôn luôn hoan hỷ có mặt. Cô điều động một số các liên viên khác để cùng nhau đi trợ niệm. Cô có một tinh thần phục vụ đại chúng rất cao. Cô đã bỏ ra rất nhiều thời gian trong việc sinh kế gia đình để lo cho công việc trợ niệm này. Thật đáng tán dương khích lệ tinh thần hy sinh cao đẹp đó của cô, cũng như của toàn thể quý liên viên trong Ban Hộ Niệm.

Ban hộ trì Tam Bảo.

Thường khi nói đến chùa là người ta nghĩ ngay đến Ban Hộ Trì Tam Bảo. Vì Ban này đóng vai trò quan yếu và cũng là cột trụ của chùa. Từ xưa tới nay, hầu như chùa nào cũng có thành lập Ban này. Vì chùa rất cần những phương tiện cụ thể để làm những công việc Phật sự nhằm phát huy truyền bá chánh pháp rộng rãi. Việc hộ trì Tam Bảo ở phương diện vật chất và tiền bạc, đó là nhiệm vụ của người Phật tử tại gia. Ngôi Tam Bảo có mặt ở thế gian lâu dài, để làm lợi ích cho chúng sanh, phần lớn phải nói là nhờ vào việc ngoại hộ đóng góp tài vật của Phật tử cư sĩ.
Việc làm của Ban này dưới sự chỉ đạo của vị trụ trì. Nếu chùa nào không có Tăng Ni trụ trì, người Phật tử tại gia họ cũng có thể tự động lập nên. Nhiệm vụ chính của Ban này là kêu gọi mọi người phát tâm đóng góp tài vật để cho chùa có thêm phương tiện mà phụng sự phục vụ lo cho Tam Bảo. Trong Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, thì Tăng rất là quan trọng. Vì nhiệm vụ chính yếu của giới tăng già là hoằng dương chánh pháp. Nhờ có các bậc chơn tu tài đức, thì việc hoằng hóa mới sâu rộng và đem lại sự lợi lạc cho hết thảy chúng sinh. Dĩ nhiên, Tam Bảo nói ở đây, là chỉ cho Thế gian trụ trì Tam bảo. Như hình tượng Phật, kinh sách và những vị phàm tăng. Mà muốn thế, tất nhiên phải nhờ sự ủng hộ tứ sự cúng dường (lương dược, y phục, ẩm thực, phòng ốc) của người Phật tử tại gia.

Như trên đã nói, hai cô Phật tử Diệu Tâm và Tâm Sở đã được cử làm trưởng ban và phó ban của ban này. Hai cô đã tích cực hoạt động để chùa có thêm ngân quỹ tài chánh mà tùy nghi sử dụng trong vấn đề xây dựng phục vụ Tam Bảo.

Quý đồng hương Phật tử đến chùa nhìn thấy một tấm bảng lớn và dài, ghi danh sách

của những vị phát tâm hỷ cúng tịnh tài đã được trưng bày trên chánh điện tạm hiện nay,
đó là những thành viên nồng cốt trong Ban hộ trì Tam Bảo.

Những vị này, đã phát tâm cúng dường hằng tháng cho chùa. Những thành viên này đa số là những liên hữu trong đạo tràng Quang Minh. Họ phát tâm cúng dường ủng hộ chùa mỗi tháng. Đó cũng là một sự đóng góp tích cực trong việc duy trì và phát huy ngôi Tam Bảo. Chùa rất cần có những thành viên phát tâm như thế. Chùa có thêm phương tiện để lo cho Tam bảo cũng nhờ sự phát tâm hỷ cúng của những vị này. Nhất là trong thời gian chùa đang xây cất, cũng như những dự án quy hoạch dự định kiến tạo thêm những phương tiện cơ sở ở tương lai, thì phần lớn cũng nhờ vào sự ủng hộ thiết thực nhiệt tình của Ban này.

Sự góp mặt trong lãnh vực văn hóa và văn nghệ

Những sinh hoạt nhằm đóng góp xây dựng làm đẹp chùa Quang Minh thật là phong phú và đa dạng. Một trong những sinh hoạt mang tính văn hóa nổi bật, đó là tổ chức thi quốc phục cho các em thiếu nhi hằng năm. Năm nào cũng vậy, trước ngày lễ Tết Nguyên Đán một tuần, Ban văn hóa giáo dục đều có tổ chức một buổi lễ thi quốc phục cho các em thiếu nhi ở vòng loại và thi chung kết vào tối đêm giao thừa. Buổi lễ diễn ra rất trang trọng tại hội trường đa dụng và số người tham dự rất đông. Ban tổ chức chấm điểm và trao giải thưởng cho các em nào có quốc phục xuất sắc nhứt.

Ngoài việc thi quốc phục ra, hằng năm vào dịp Tết Trung Thu các em thiếu nhi nam nữ, do các bậc phụ huynh đưa các em đến chùa chung vui rước đèn và dự thi lồng đèn rất là đông đảo. Ước lượng có trên ngàn em tham dự. Đó là một lễ hội theo tập tục cổ truyền của các em thiếu nhi Việt Nam. Các em tay xách những chiếc lồng đèn thật xinh xắn trang nhã dễ thương trông rất đẹp mắt. Cuộc thi lồng đèn rất vui và rất hấp dẫn. Đó cũng là một trong những sắc thái đặc thù của truyền thống văn hóa Việt Nam. Và đó cũng gây cho các em có một niềm tin vững mạnh hơn trong nếp sống lành mạnh hướng về cội nguồn cao đẹp của một truyền thống dân tộc trong hiện tại và tương lai.

Ngoài những lễ nghi truyền thống đặc biệt này ra, bên cạnh đó còn có các anh chị em của hai Gia Đình Phật Tử: Đại Bi Quan Âm và Đại Hoan Hỷ. Riêng GĐPT Đại Hoan Hỷ thì sinh hoạt hằng tuần vào mỗi ngày chủ nhật tại chùa. Được biết, hiện nay, con số đoàn sinh lên đến khoảng hơn một trăm em. Vào những ngày đại lễ như Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán, các em đã cật lực giúp cho chùa rất nhiều trong những công tác chung cho ngày đại lễ. Ngoài ra, các em còn nhiệt tâm đóng góp cho phần văn nghệ để cống hiến giúp vui cho đồng hương Phật tử. Các đội múa lân, múa rồng, cũng tranh tài thật ngoạn mục qua những điệu múa nhịp nhàng xuất sắc giúp cho ngày lễ hội Tết này.

Đồng hương Phật tử về chùa dự Tết hái lộc đầu năm thật quá sức đông đảo. Kể từ khi chùa dời về nơi đây cho đến hôm nay, không có Tết năm nào mà ít người tham dự. Phải thành thật mà nói, tuy khuôn viên chùa cũng khá rộng lớn, nhưng cũng không đủ sức dung chứa lượng người đến chùa dự lễ. Nhất là gần đến giờ cúng giao thừa, từ ngoài cổng mà muốn vào được bên trong khuôn viên chùa, người ta cũng phải chen lấn mệt lã người mới có thể vào được. Chánh điện tạm thì chỉ chứa được một số ít người thôi. Ngoài ra, tất cả đều phải đứng bên ngoài hướng lòng vào chánh điện để cùng chư Tăng, Ni làm lễ cúng giao thừa. Họ thành tâm hết lòng quy hướng để cúng rước vía Đức Bồ Tát Di Lặc. Họ biểu lộ tấm lòng tha thiết cầu nguyện cho mọi sự an bình hạnh phúc đầu năm.

Thật là một quang cảnh tưng bừng náo nhiệt cả một rừng người. Ngoài cái sân khấu ở trong hội trường ra, chùa còn phải làm thêm hai cái sân khấu lớn ở bên ngoài. Đi đến đâu người ta cũng thấy có văn nghệ, nghe âm thanh tiếng nhạc lời ca của các ca sĩ hoặc những điệu múa câu hò. Trống nhạc hòa tấu vang lên inh ỏi gây chấn động cả một góc trời. Mọi người chăm chú theo dõi qua từng điệu vũ nhịp nhàng xuất sắc tuyệt vời của các em thiếu nhi trong Gia Đình Phật Tử. Ngoài ra, còn có trưng bày nhiều loại trò chơi rất hấp dẫn thú vị. Đây quả là một ngày Hội lớn không thể nào diễn tả hết được niềm vui chung của quý đồng hương Phật tử.

Ngoài những buổi văn nghệ giúp vui nói trên, thỉnh thoảng còn có những buổi Đại Nhạc Hội do các ca sĩ thuộc hàng gạo cội chuyên nghiệp đóng góp. Dĩ nhiên, chùa cũng phải trả tiền thù lao cho họ chút đỉnh. Nhưng phần lớn là những ca sĩ Phật tử này, họ phát tâm đem tiếng hát lời ca của mình để đóng góp cúng dường phần nào trong công cuộc xây dựng chùa. Đây cũng là việc làm phát xuất từ tấm lòng hảo tâm của họ. Đa số những ca sĩ này đều từ bên Mỹ qua. Như các ca sĩ: Kim Anh, Tuấn Ngọc, Hương Lan, Thanh Tuyền và đặc biệt còn có hai nghệ sĩ Phượng Liên và Chí Tâm v.v...

V. NHỮNG BƯỚC TIẾN THUẬN LỢI TRONG VIỆC XÂY CẤT ĐẠI HÙNG BẢO ĐIỆN

Trước khi trình bày phần kế tiếp, xét thấy, chúng tôi cần ghi rõ nói thêm về điểm thuận lợi nầy. Theo KTS Trần Nam Sanh cho biết, dự án ngôi Đại Hùng Bảo Điện mới đã được nhóm Kiến Trúc Sư và Kỹ Sư Úc thuộc công ty Howden Wardrop (công ty đã thực hiện chánh điện tạm năm 1993 – 1994) thiết kế vào tháng 12 năm 1996 chỉ đơn thuần là một khối hình hộp chữ nhật (2 tầng) với mái ngói hơi cong (tựa như chánh điện tạm) và nằm hướng song song với chánh điện tạm (cách độ 15m tức nằm trên triền đồi nhìn xuống thung lũng, diện tích mặt đất dự trù là 753m2. Họa đồ dự án nầy đã được hội đồng thành phố Maribyrnong cấp giấy phép quy hoạch số TP/96/1991
ngày 14/12/1998).

Vì thiếu tài chánh và nhân lực để thực hiện, nên mãi đến năm 2000, hồ sơ xin giấy phép xây cất (building permit) theo họa đồ của nhóm Kiến Trúc Sư và Kỹ Sư Úc kể trên vẫn chưa được chuẩn bị.

Rồi một thuận duyên khác đến, vào khoảng giữa năm 2000, cô chánh thủ quỹ Kim Thanh giới thiệu KTS Trần Nam Sanh với thầy Phước Tấn và cho thầy biết đây là người Kiến Trúc Sư đầu tiên đã thiết kế xin được giấy phép quy hoạch của ngôi chánh điện tạm năm 1991 cho chùa Quang Minh. Thấy vậy, thầy Phước Tấn mới lấy họa đồ dự án ngôi chánh điện do nhóm KTS Úc thiết kế để tham khảo với KTS Trần Nam Sanh, vì quan điểm sáng tác của KTS Úc nhất là về chùa chiền, thì rất khó biểu lộ được đường nét văn hóa, mang sắc thái hài hòa của người Việt Nam, đó là chưa nói đến vấn đề "phong thủy" từ vị trí nền, các góc cạnh, hướng nhìn v.v... Kiến Trúc Sư Trần Nam Sanh có đề nghị ngôi chánh điện dự trù nên hướng mặt tiền về hướng Đông Bắc (tức nhìn xuống thung lũng và dòng sông uốn khúc chảy qua) và điểm đặc biệt là nền chánh điện phải nằm trên trục chính của toàn thể các lô đất của chùa. Theo KTS Trần Nam Sanh cho rằng, nếu
thực hiện được như thế, thì vị trụ trì sẽ được yên ổn để truyền bá Phật pháp và Phật tử các nơi sẽ hội tụ về đây đông đảo. Sau khi nghe anh Trần Nam Sanh trình bày như thế, thầy Phước Tấn trình ý kiến đó lên Hòa Thượng. Vả lại, ý của Hòa Thượng cũng muốn có một Kiến Trúc Sư người Việt Nam sáng tác toàn thể cấu trúc mô hình chánh điện. Đối với Kiến Trúc Sư Trần Nam Sanh, thì Hòa Thượng biết rất rõ, Do đó, nên Hòa Thượng đã đồng ý để cho Kiến Trúc Sư Trần Nam Sanh thực hiện thiết kế họa đồ xây cất ngôi Đại Hùng Bảo Điện nầy.

Từ đó, KTS Trần Nam Sanh vẽ lại họa đồ tổng thể và chú trọng nhất là ngôi Đại Hùng Bảo Điện, tất cả đều được nghiên cứu thiết kế lại. Mô hình toàn khối đã được trình bày khá lâu trong chánh điện tạm.

Hoàn tất giai đoạn chuẩn bị mọi thủ tục

Trải qua bao nhiêu lần khó khăn đắng cay gian lao thử thách như đã trình bày ở trên, đến đây, mọi người như trút hết mọi gánh nặng và nhẹ thở. Những nếp nhăn trên vầng trán suy tư của những ngày nào, nay như đã tan biến hết. Thật vậy, niềm ưu tư khắc khoải của Hòa Thượng, người có trách nhiệm nặng nề nhứt trong việc chủ động cho công trình xây cất lớn lao này, nay thực sự, người mới cảm thấy được nhẹ nhàng phần nào. Tuy nhiên, Ngài cũng không bao giờ chủ quan mà luôn để tâm theo dõi. Mọi việc làm dù nhỏ hay lớn, Ngài cũng đều quan tâm để ý đến. Song có điều Ngài cũng được an tâm hơn là vì đã có một vị đệ tử trung kiên có khả năng chỉ đạo điều động mọi việc trong vấn đề xây cất này.

Thật vậy, thầy Phước Tấn kể từ năm 1996 trở đi, thầy và quý vị trong Ban Trị Sự đã ráo riết vận động, giao tiếp, đôn đốc lo mọi thủ tục cho vấn đề này. Thầy nhất quyết

không thể để kéo dài thời gian dài lâu nữa, bởi vì niềm ước vọng của Phật tử mong muốn sớm có ngày được nhìn thấy tận mắt khởi công. Do đó, nên thầy, Ban Trị Sự, kiến trúc sư KTS Trần Nam Sanh và kỹ sư Vưu Chí Dũng đã vận động làm việc ráo riết, nhứt định phải lo mọi thủ tục hành chánh xây cất cho xong. Tuy nhiên, chỉ riêng để được cấp giấy phép quy hoạch của Thành Phố Maribynong, chùa Quang Minh phải mất thời gian gần 3 năm. Không biết bao lần gặp nhiều sự chống đối từ lối xóm kể cả cư dân thuộc 2 vùng council sát bên (Brimbank và Moonee Ponds).

Trong số báo Đặc San Hương Đạo phát hành vào tháng 10 năm 2005, có đăng một bản tin nói về vấn đề này. Nguyên văn bản tin như sau:

"Sau một thời gian chờ đợi hoàn chỉnh các thủ tục hành chánh và kỹ thuật. Ban Xây Dựng Đại Hùng Bảo Điện Quang Minh đã đồng thuận mướn một Giám đốc đồ án công trình (Project Manager) là ông Ian Prest, một kiến trúc sư cách đây hơn 10 năm đã đảm trách xây chánh điện tạm hiện nay. Sau các phiên họp kỹ thuật, KTS Ian cố gắng đốc thúc đồng nhịp để các phần trách nhiệm đưa ra những con số xác tín lập các hồ sơ sớm gọi thầu. Với sức đẩy trong công việc, nên thời gian cùng lòng tin mong đợi của Phật tử và khả năng hoàn thành công trình sẽ là nhịp cầu trong dự án. Hy vọng ngày khởi công xây cất sẽ sớm thành hiện thực không còn nằm in trên bản vẽ".

Ký hợp đồng làm việc với các nhà thầu và giá cả

Theo kỹ sư Vưu Chí Dũng cho biết, với một công trình xây cất to lớn đa dạng và phức tạp như thế này, thì không có một nhà thầu nào mà họ chịu lãnh sát toàn bộ từ đầu chí cuối của công trình. Một phần vì khả năng tài chánh của chùa vẫn chưa có sẵn. Do đó, chùa phải ký hợp đồng với nhiều nhà thầu. Mỗi nhà thầu họ lo từng phần vụ và làm qua từng giai đoạn khác nhau. Gồm có tất cả 10 nhà thầu lớn nhỏ. Có hai nhà thầu lớn:

  • Nhà thầu lớn thứ nhứt là họ chuyên lo về phần kết cấu đúc các tấm tường vách (precast) và dựng lên chung quanh.
  • Nhà thầu lớn thứ hai là chuyên lo về hệ thống sườn nóc cho mái chùa.

Ngoài ra, còn những nhà thầu khác, mỗi nhà thầu chuyên lo mỗi phần việc khác nhau như là: đào đất, làm nền, đổ cột, đặt các hệ thống ống nước, hệ thống cứu hỏa, hệ thống điện, hệ thống máy điều hòa nhiệt độ, âm thanh, gas, v.v...

Trong các nhà thầu kể trên, chỉ có nhà thầu làm ống nước, họ gặp một trở ngại rất khó khăn là đất bị ô nhiễm. Do đó, Bộ Môi Sinh bắt buộc cần phải khảo nghiệm lại. Sau khi khảo nghiệm, biết đất bị ô nhiễm, nên Bộ Môi Sinh buộc phải dời đất ô nhiễm đi nơi khác để tránh tình trạng tai hại sau này. Chính công việc này đã làm trở ngại đình trệ cho công trình mất nhiều thời gian và chùa phải chịu tốn một phí tổn khá cao khoảng $300.000 (ba trăm ngàn Úc kim).

Việc chọn lựa nhà thầu, sắp xếp thời gian và định giá cả phải trả cho mỗi nhà thầu cũng như liên hệ với những kỹ sư designer và làm các bản báo cáo chiết tính giá cả, kiểm soát theo dõi mọi công việc, tất cả đều do người quản đốc công trình đảm trách.

Ngoài những nhà thầu người Úc ra, vì muốn tiết kiệm đỡ phải tốn kém nhiều, nên chùa có kêu một số người thợ Việt Nam, hầu hết là những Phật tử, để họ làm những công việc lặt vặt như trang hoàng các cửa sổ, đóng vách bên trong, sơn trét v.v...

Dĩ nhiên, những người thợ làm trong công trình này, tất cả đều phải có giấy phép hành nghề. Nếu không, lỡ có chuyện gì xảy ra, thì chùa phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Những người thợ này họ làm mỗi phần vụ khác nhau và họ nhận tiền thù lao chùa trả cho họ với giá cả tương đối phải chăng. Bởi lẽ, họ còn phải lo giải quyết cho sự sống trong gia đình, nên họ mới nhận tiền chùa trả như thế. Nhưng với số tiền này, không phải chùa trả với giá mức lương tương đương như họ đã làm ở những nơi khác. Thật ra, những vị này cũng muốn đóng góp phần nào công quả cho chùa, nên họ mới nhận tiền như thế mà thôi.

Điều này, chùa cũng phải ghi nhận sự đóng góp công lao của họ. Tất cả mọi công việc thi công từ đầu đều do kỹ sư Vưu Chí Dũng trông coi toàn bộ. Vì trách nhiệm quản lý tổng công trình, nên anh phải luôn theo dõi kiểm soát và điều hành hằng ngày. Cũng cần nói thêm, lúc đầu chùa bổ nhiệm Kỹ Sư Ian Prest làm giám đốc đề án (Project Manager) và kỹ sư Dũng làm phụ tá. Nhưng vì tuổi già và phải về hưu nên ông ta đề nghị kỹ sư Dũng lên thay thế vị trí của ông.

Ngoài những người thợ Phật tử làm việc có lãnh lương thù lao ra, còn có một số các anh em tay thợ chuyên môn khác, họ chỉ phát tâm làm công quả giúp cho chùa mà thôi, tuyệt đối họ quyết không nhận tiền thù lao. Đó cũng là một sự hy sinh đóng góp công sức lớn lao của họ.

Riêng Anh Vưu Chí Dũng là một Phật tử đã từng sát cánh với chùa. Anh là một kỹ sư trẻ rất năng nổ hoạt động tháo vác trong công việc. Ngay từ buổi đầu anh đã tham gia hoạt động trong BKT như đã nói qua ở phần trên. Anh làm việc rất đắc lực tích cực. Vì anh là người đã được Hòa Thượng và Ban Trị Sự Hội tin tưởng tín nhiệm. Có thể nói, anh đóng một vai trò rất quan trọng then chốt trong vấn đề quản đốc công trình xây cất lớn lao này. Việc làm của anh, đã được chùa trả lương cho anh. Dĩ nhiên ở một mức độ phải chăng thôi. Theo bác Minh Chiếu cho biết là chùa trả cho anh 3 phần trăm. Như vậy, tính ra, anh cũng còn có phần công quả đóng góp phần lớn công sức cho chùa.

Theo chúng tôi được biết, nếu mướn một kỹ sư quản đốc một công trình lớn lao như thế này, thì theo giá thị trường hiện tại là mức lương thấp nhứt cũng phải trả 8 phần trăm và cao thì đến 10 phần trăm. Đây là tính theo mức lương cho tổng công trình đến khi hoàn tất. Như công trình xây cất chùa hiện nay. Lúc đầu dự trù khoảng từ 6 triệu đến 6 triệu rưởi cho tổng công trình, nhưng khi chiết tính lại thì theo vật giá thị trường vật liệu hiện nay, thực hiện cho đến khi hoàn tất có thể lên đến 10 triệu Úc kim và cũng có thể cao hơn nữa không chừng. Nếu như hoàn tất tổng công trình là 10 triệu, thì mức lương của kỹ sư Vưu Chí Dũng sẽ lãnh được là khoảng $300,000 (ba trăm ngàn đồng Úc kim) thời gian khoảng 4 năm.

Với trách nhiệm là người điều động quản lý công trình, cho nên mọi công việc liên lạc hay bàn bạc với kiến trúc sư, kỹ sư và nhà thầu v.v... anh đều lo hết. Tuy anh là người

quản đốc tổng quát trong khả năng chuyên môn của anh, nhưng mọi việc làm của anh dù lớn hay nhỏ, anh cũng đều phải trình qua cho thầy trụ trì và Ban Trị Sự biết rõ.

Nói tóm lại, mọi quyết định là do Hòa Thượng và Ban Trị Sự. Anh chỉ là người thừa hành làm trung gian giữa chùa và nhà thầu. Nói cách khác, anh chịu trách nhiệm về phần kỹ thuật, còn việc hành chánh và tài chánh là do Ban Trị Sự Hội chịu trách nhiệm. Do đó, mọi công việc từ lúc bắt đầu cho đến khi gần kết thúc hoàn tất công trình, anh đều nắm rất rõ. Do đó, mà chúng tôi đã có dịp phỏng vấn anh qua từng chi tiết trong vấn đề này. Và đã được anh trả lời cặn kẽ mọi chi tiết qua những gì mà anh đã làm.

Ngoài kỹ sư Vưu Chí Dũng ra, còn hai người hiểu rõ và nắm vững vấn đề nhứt, đó là Thầy Thích Phước Tấn và KTS Trần Nam Sanh. Riêng thầy là người thay mặt Hòa Thượng trực tiếp chỉ đạo. Do đó, nên thầy đã cung cấp cho chúng tôi nhiều tin tức dữ kiện chính xác chung quanh trong công trình xây cất này.

Lễ đặt móng

Sau khi chọn thầu và đã thỏa thuận trong việc ký hợp đồng với họ, kế tiếp là Hòa Thượng cho xúc tiến lễ đặt móng. Để phổ biến rộng rãi tin mừng này, một bức thư đã được gởi đến tận nhà quý đồng hương Phật tử. Chúng tôi xin được ghi lại đây nguyên văn của bức thư như sau:

"Trong lòng tin Tam Bảo, trân quí Phật pháp và sự quyết tâm duy trì hình ảnh của ngôi chùa quê hương dân tộc tại xứ người. Bước đầu chánh điện chùa Quang Minh được xây dựng tạm như hôm nay để có nơi sinh hoạt hàng ngày cho toàn thể Phật tử.

Nhờ sự phát tâm đóng góp của Phật tử, nhiều khu đất nhỏ đã được dần dần mua thêm để tạo thành một khuôn viên rộng hơn 4 mẫu như ngày nay để trong tương lai chúng ta sẽ xây dựng một ngôi chùa trang nghiêm đặc trưng cho văn hóa Việt Nam. Với niềm ước mơ chung của toàn thể Phật tử, cũng để đánh dấu năm Canh Thìn phước lành và năm 2000 như một điểm thời gian, GHPGVNTN chùa Quang Minh chính thức tiến tới xây dựng ngôi Đại Hùng Bảo Điện để đủ đáp ứng nhu cầu của mọi giới Phật tử trong tất cả mọi Phật sự.

Ngôi Đại Hùng Bảo Điện Quang Minh trong quần thể kiến trúc là niềm hy vọng xứng đáng tượng trưng cho nền văn hóa Việt Nam qua những đường nét chạm trỗ, hoa văn và những tiện nghi phục vụ tín ngưỡng cho quí đồng hương tại Tiểu Bang Victoria.

Chúng tôi kính mong quí đồng hương hoan hỷ ghi tên vào sổ vàng, phát tâm ủng hộ, hoặc cúng hoặc cho mượn ngắn hạn hoặc dài hạn, một lần hay nhiều lần, nhận phát hành những phiếu công đức tùy tâm, tùy hỷ hoặc đóng góp những ý kiến mới lạ là những viên gạch, những viên ngói, những chất keo kết tinh công tác xây dựng sớm hoàn thành. Ước mong lời kêu gọi này được quí vị đáp ứng nhiệt tình và trân trọng kính mời quí đồng hương cùng gia đình các bạn trẻ về chùa tham dự.

Lễ Đặt Móng Xây Đại Hùng Bảo Điện Quang Minh
Thời gian: 10 giờ sáng chủ nhật 17.9. 2000
Địa điểm: 18 Burke St, Braybrook Vic 3019.

Buổi lễ sẽ được cử hành dưới sự chứng minh của Hòa Thượng Viện Trưởng Viện
Hoằng Đạo GHPGVNTN tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan và chư Tôn Đức.
Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo gia hộ cho quí vị cùng quí quyến luôn an lành trong hào quang của Đức Phật".
Trân trọng, Ký tên

Đại Đức Thích Phước Tấn
Trụ trì chùa Quang Minh.

Buổi lễ đã diễn ra trong bầu không khí an lành tươi mát đầy nắng ấm, trong niềm chứa chan đầy hương vị tình người và tình đạo. Ngoài Hòa Thượng và chư Tôn Đức Tăng Ni ra, còn có rất đông Phật tử đến tham dự. Vì đây là điều mong mỏi ước vọng từ lâu của mọi người, mãi đến hôm nay họ mới được nhìn thấy cảnh tượng tràn đầy hứa hẹn này.

Đây là buổi lễ đánh dấu bước khởi đầu của một công trình xây cất cho giai đoạn sau này. Trên gương mặt của mỗi người hiện rõ nét vui tươi rạng rỡ như mừng ngày mở hội. Niềm vui đó được toát ra từ một tấm lòng chân thiết của người con Phật hôm nay. Mọi người như thầm nói với nhau, không bao lâu nữa, chúng ta sẽ có được một ngôi chùa vĩ đại, một mái ấm chung của đại gia đình Phật tử. Còn nỗi mừng vui sướng nào hơn! Rồi mai đây chúng ta sẽ quây quần bên nhau và cất cao giọng hát:

Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Trải bao năm tháng long đong
Nay đà tròn nguyện toại lòng ước mơ.

Dù trải qua bao thăng trầm vinh nhục, thạnh suy, nguy biến, nhưng dân tộc ta vẫn còn mãi hình ảnh cao đẹp của ngôi chùa. Đúng như nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã viết:

"Dân tộc ta không thể nào thua
Đạo Phật ta đời đời sáng lạn
Dù trải mấy qua phân ly tán
Nhưng vẫn còn núi còn sông
Còn chót vót mãi ngôi chùa".

Buổi lễ chấm dứt trong niềm an lạc thân yêu của mọi người. Những cách xá chào, những lời han hỏi, những nụ cười tươi được hiện ra trong lời từ giã và mọi người như thầm sẽ hẹn gặp nhau trong ngày Đại Lễ Khánh Thành.

Sau buổi lễ đặt móng này, vào ngày 2 tháng 7 năm 2001, vì muốn cho việc xây dựng Đại Hùng Bảo Điện Quang Minh sớm được thành tựu, vâng lời Hòa Thượng, Ban Vận Động Xây Dựng gởi bức Tâm Thư ngỏ lời kêu gọi đến mọi người, xin ghi lại nguyên văn như sau:

"Kính bạch: Chư Tôn Giáo Phẩm, Đại Đức Tăng Ni, Kính thưa: Quí Phật tử, cùng các nhà hảo tâm xa gần.

Đức phật dạy: Xây chùa, tạc tượng, in Kinh, tiếp tăng, độ chúng, là những việc làm có nhiều phước đức, nhưng muốn làm được những điều ấy cũng phải có cơ duyên thuận lợi. Từ đó ngôi Đại Hùng Bảo Điện Chùa Quang Minh vẫn hằng nuôi dưỡng trong tâm trí của hàng Phật tử tạo những duyên lành chuẩn bị công trình xây dựng vào cuối năm nay.
Vì nhu cầu hoằng hóa Đạo pháp, chỗ tu học cho chư Tăng, cũng như có một sinh hoạt văn hóa xã hội; với tình trạng cơ sở hiện tại không đáp ứng những đòi hỏi cho sinh
hoạt tôn giáo hằng ngày. Do đó, ngôi Đại Hùng Bảo Điện Chùa Quang Minh được kiến trúc sư Trần Nam Sanh thiện nguyện thiết kế.

Mỗi lần xây chùa là mỗi lần khó khăn, nhiều tốn kém nên chúng tôi nghĩ rằng dồn nỗ lực xây ngôi chánh điện trước, là điểm chính trong họa đồ tổng thể làm bước khởi đầu trong công trình xây dựng. Kinh phí xây dựng sẽ theo từng giai đoạn phần đồ án thi công. Thời gian hoàn thành tùy thuộc vào sự ủng hộ của quí Phật tử xa gần.

Theo đó, ước nguyện của toàn thể Phật tử, ngôi Đại Hùng Bảo Điện Chùa Quang Minh sẽ là:

      • Nơi trang nghiêm thanh tịnh, phụng thờ chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng, chư thánh tử đạo, cửu huyền thất tổ, chiến sĩ trận vong và các vong linh quá vãng.
      • Nơi tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, đồng thời nơi tu học, chiêm ngưỡng, lễ bái của hàng Phật tử.
      • Nơi phát triển nền văn hóa Phật giáo và Dân tộc, nơi sinh hoạt cho các bậc cao niên, các thanh thiếu niên, các Gia Đình Phật tử và tạo thành danh lam thắng cảnh du lịch tại địa phương.

Kính mong chư Tôn Đức, quí đồng hương Phật tử và các nhà hảo tâm xa gần tùy hỷ công đức bằng cách:

      1. Nguyện cầu Tam Bảo gia hộ cho Phật sự trên được thành tựu viên mãn.
      2. Góp phần nhân lực, vật lực và tài lực, tham dự các chương trình tổ chức gây quỹ xây dựng.
      3. Cho chùa mượn số tiền không lấy lời là một phần rút ngắn thời gian xây dựng.

Chúng tôi nghĩ rằng: Quí vị góp phần công đức xây dựng một ngôi chùa là để lại cho hàng hậu lai, những thế hệ con em chúng ta tại xứ người một kho tàng quý giá, vì ngôi chùa là biểu hiện của đạo đức, của tình thương, đến với chùa là đến với tâm niệm làm điều lành lánh điều dữ. Chùa là bản thiện của xóm làng, chùa cũng là nơi điều hòa tâm tính con người, đến với chùa là đến với hạnh phúc an vui, đến với Chân Thiện Mỹ. Ngôi chùa cũng là nơi ấp ủ tâm hồn dân tộc, đã từ lâu ngôi chùa trở thành hình ảnh thân thương gần gũi với người dân Việt Nam, cho nên ngôi chùa tại đây lại càng

cần thiết trong đời sống tinh thần cho người Việt đang sống nơi xứ lạ quê người biết bao!

Đây là công trình mang tính cách phục vụ Đạo Pháp, văn hóa, xã hội một cách rộng lớn nên cần nhiều người, nhiều thành phần tham gia vào công trình mới thể hiện được tính chùa chung của cộng đồng Phật tử tại Melbourne.

Chúng tôi tha thiết mong mỏi đón nhận những hỗ trợ, giúp đỡ của chư Tôn Đức, quí Phật tử cùng những nhà hảo tâm xa gần.

Kính nguyện cầu quí vị và gia quyến thường hằng an lạc, bồ đề tâm kiên cố, Phật đạo viên thành trong ánh sáng từ hòa của chư Phật".
Nam mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát
Phật lịch 2526, ngày 2 tháng 7 năm 2001.

Trân trọng, Chứng minh
Hòa Thượng Thích Phước Huệ
Giáo Hội Trưởng Giáo Hội PGVNTN tại Victoria
Trụ trì Chùa Quang Minh
Đại Đức Thích Phước Tấn

Trưởng Ban Vận Động xây dựng Đại Hùng Bảo Điện Chùa Quang Minh
Nguyễn Hồng Ký

Bổ sung nhân sự trong Ban Trị Sự

Như đã nói, nhân sự là một yếu tố rất quan trọng. Bất cứ làm một việc gì mà thiếu nhân sự cộng tác, thì việc làm đó chắc chắn là khó được thành công. Nhất là công việc mang tính cách chung lo. Ngôi chùa Quang Minh như đã nói, ngay từ buổi khởi đầu đã xác minh một cách rõ ràng rằng, đây là ngôi chùa chung của toàn thể Cộng Đồng Phật tử. Chính vì thế, trải dài suốt bao nhiêu năm qua, Tăng Ni và Phật tử, tất cả đều hết lòng quyết tâm xây dựng. Việc làm này, mang tính lịch sử lâu dài, chẳng những trong hiện tại mà mãi mãi cho đến các thế hệ mai sau.

Chính vì ý thức và giữ vững niềm tin nơi Tam Bảo như thế, nên suốt thời gian qua đã có nhiều lớp người dấn thân tham gia làm việc cho Giáo Hội. Họ làm việc với tư cách của một người Phật tử phát tâm. Trong khi làm việc, tất nhiên, không sao tránh khỏi sự va chạm, thị phi, dễ phát sanh phiền não. Nhưng vì sự lợi ích chung cũng như rèn luyện đức tánh nhẫn nại hy sinh theo lời Phật dạy, mà họ đã cố gắng phấn đấu nhẫn nại khắc phục vượt qua sự va chạm khó khăn trong mọi thử thách.

Kể từ năm 2000 trở đi, tức sau buổi lễ đặt móng, nhận thấy cần phải bổ sung thêm người vào trong Ban Trị Sự, nên Đại Đức Thích Phước Tấn với tư cách là Giáo Hội Trưởng, thầy mời một vài người cộng tác với Ban Trị Sự.

Tưởng cũng nên nhắc lại, theo Hiến Chương quy định nhiệm kỳ của một Ban Trị Sự

thời gian là hai năm. Trước kia, khi Hòa Thượng còn làm Giáo Hội Trưởng, thì vào dịp Đại Lễ Vu Lan, có đông đảo Phật tử tham dự, nhân đó, vị Tổng Thơ ký báo cáo những sinh hoạt Phật sự trong năm cũng như vị Chánh Thủ Quỹ báo cáo việc thu chi qua phần tài chánh. Đồng thời, cứ mỗi hai năm là có thay đổi bổ khuyết nhân sự, hoặc nếu xét thấy cần thiết thì cho đề cử bầu lại.

Riêng về chức vụ Tổng thơ ký, đây là chức vụ khá quan trọng trong Giáo Hội. Kể từ năm 1985 trở đi, thì hai đạo hữu đã được trên Hòa Thượng cũng như Phật tử tin tưởng tín nhiệm cử giữ chức vụ này, đó là đạo hữu Thiện Đại Lê Văn Bé và đạo hữu Trí Hòa Huỳnh Công Hiệp. Hai vị này, gần như thay phiên nhau lãnh chức vụ này để phụ giúp cho Hòa Thượng và Giáo Hội. Hễ vị này vì lý do nào đó bận việc vắng mặt, thì vị kia thay thế.

Nhưng kể từ đầu năm 1993 cho đến nay, vì lý do sức khỏe yếu kém, nên đạo hữu Thiện Đại xin nghỉ dài hạn và đạo Hữu Huỳnh Công Hiệp lại một lần nữa chánh thức đảm nhận chức vụ này. Nhưng rất tiếc, từ năm 2003 trở đi, anh Hiệp vì bận công việc riêng phải đi xa, nên không có mặt thường xuyên để trực tiếp lo công việc cho Hội, nên anh Nguyễn Văn Hiếu thay cho anh Hiệp chức vụ này để lo vào công việc sổ sách văn kiện của văn phòng. Từ đó, hằng năm, anh Hiếu đều có báo cáo những sinh hoạt của Hội và Chùa qua nhiều lãnh vực, nhất là trong lãnh vực tiến hành xây cất Ngôi Đại Hùng Bảo Điện, vì đó là điều mà hầu hết quý đồng hương Phật tử thảy đều quan tâm nghĩ đến.

Ngoài chức vụ Phó Thơ Ký ra, anh Hiếu còn có thêm chức vụ là Ủy viên Văn Hóa. Anh đảm nhận chức vụ này, từ năm 1985, tức thời của thầy Phước Nhơn còn làm Giáo Hội Trưởng như đã có nói qua. Đến năm 1987, vì lý do cá nhân, nên anh vắng mặt một thời gian, và sau đó anh trở lại tham gia sinh hoạt với Giáo Hội vào năm 1993 mãi cho đến hôm nay.

Tất cả những bản tin in riêng gởi đến tận nhà đồng bào Phật tử cũng như những tin tức đăng trong các báo Đặc San Hương Đạo từ số báo đầu cho đến số cuối, tất cả đều do anh Hiếu phụ trách. Nhờ đó, mà quý đồng hương Phật tử mới biết được những sinh hoạt của chùa. Đó cũng là một sự đóng góp tích cực trong lãnh vực chuyên môn qua sở trường thiện nguyện của anh.

Danh sách Ban Trị Sự nhiệm kỳ 2003 đến 2005 gồm có:

Ban Thường Vụ:

  • Chứng Minh: Hòa Thượng Thích Phước Huệ.
  • Giáo Hội Trưởng: Đại Đức Thích Phước Tấn.
  • Giáo Hội Phó Nội Vụ: Đạo hữu Minh Chiếu Nguyễn Văn Gấm.
  • Tổng Thơ Ký: Đạo hữu Trí Hòa Huỳnh Công Hiệp
  • Phó Thơ Ký: Đạo hữu Tâm Hiển Nguyễn Văn Hiếu
  • Chánh Thủ Quỹ: Đạo hữu Nhật Mỹ Lê Kim Thanh.
  • Phó Thủ Quỹ: Đạo hữu Huệ Tịnh Hồng Kim Hoa.

Thành Phần Các Trưởng Ban:

  • Trưởng Ban Hoằng Pháp: Đại Đức Thích Phước Thái
  • Trưởng Ban Văn Hóa: Đạo hữu Nguyễn Văn Hiếu.
  • Trưởng Ban Giáo Dục: Giáo sư Phan Văn Giưỡng.
  • Trưởng Ban Vận Động Tài Chánh: Đạo hữu Nguyễn Hồng Ký
  • Trưởng Ban Kiến Thiết: Kiến trúc sư Trần Nam Sanh .
  • Phó Ban Kiến Thiết: Kỹ sư Vưu Chí Dũng.
  • Trưởng Ban Thanh Niên: Đạo hữu Minh Hoàng Diệp Khôi.
  • Trưởng Ban Báo Chí: Đạo hữu Thiện Nhân Lê Thiện Phúc.
  • Trưởng Ban Hộ Trì Tam Bảo: Đạo hữu Diệu Tâm Nguyễn Thị Hường.
  • Phó Ban Hộ Trì Tam Bảo: Đạo hữu Tâm Sở Nguyễn Thị Bích.

Theo danh sách Ban Trị Sự trên, còn thiếu chức vụ Giáo Hội Phó Ngoại Vụ. Về sau, vì muốn cho công việc ngoại giao tiếp xúc với các cơ quan chánh quyền cũng như các chánh giới Úc thêm phần dễ dàng hơn, nên năm 2007, Thầy Giáo Hội Trưởng có mời cô Mỹ Lý đảm trách chức vụ Giáo Hội Phó Ngoại Vụ.

Trước khi nhà thầu bắt đầu khởi công đào đất, để đổ móng làm nền, Hòa Thượng và chư Tôn Đức Tăng Ni cùng quý đồng hương Phật tử làm lễ động thổ trên mảnh đất xây cất Đại Hùng Bảo Điện. Buổi lễ diễn ra vào ngày 14 tháng 5 năm 2005. Chúng tôi xin ghi lại nguyên văn của bản tin tường thuật này đã được đăng trong tập Kỷ Yếu của Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh đạo tràng năm 2005 như sau:

"Ngày 14 tháng 5 năm 2005, Hòa Thượng Thích Phước Huệ hướng dẫn phái đoàn Tăng Ni và Phật tử từ Sydney đến Melbourne để dự Đại Lễ Phật Đản và khởi công "động thổ đào móng" xây dựng ngôi Đại Hùng Bảo Điện Quang Minh (ĐHBĐQM)

Sáng nay, thời tiết rất lạnh. Sương mờ giăng phủ dày đặc khắp cả bầu trời. Bảy giờ rưởi sáng, chúng tôi đã đến chùa Quang Minh, xe chúng tôi lúc cách chùa khoảng một trăm thước mà vẫn chưa thấy được quang cảnh của chùa.

Đến chùa, xung quanh rào và trong khuôn viên chùa một rừng cờ Phật giáo. Những lá phướng bay lất phất theo cơn gió nhẹ. Dòng sông Maribyrnong hôm nay, như chuyển mình để chuẩn bị đón mừng ngày đản sanh của Đức Phật; ngày trọng đại đối với nhân loại và cũng là niềm vui lớn của ngày lễ động thổ xây dựng ĐHBĐQM. Bên trong bãi đậu xe, chúng tôi thấy có hơn 50 chiếc xe của quý Phật tử đã đến để phụ giúp cho ngày đại lễ này. Như Ban hành đường, Ban trật tự, Ban trần thiết buổi lễ v.v...

Đúng 10 giờ 30 sáng, buổi đại lễ Phật Đản bắt đầu khai mạc, nhìn thấy hội trường đông nghẹt người, lớp ngồi, lớp đứng để dự lễ...

Trong Thông Bạch của Hòa Thượng có đoạn nói:

"Đón mừng Phật Đản năm nay đối với người con Phật đánh dấu một giai đoạn chuyển biến cọng nghiệp của nhân loại, đồng thời cũng là một thử thách lớn về mặt phát triển tâm linh. Mục đích của Đức Thế Tôn lâm phàm là khai mở trí tuệ siêu việt tiềm ẩn trong mỗi nhân sinh và đồng vọng lòng từ thấm nhuần muôn hướng...

Mùa Phật Đản là mùa của tình thương và hiểu biết. Phát triển phẩm hạnh và nội lực tâm linh là cung cách đón mừng Phật Đản, cũng là nghĩa cử tạ ân bậc đại Đạo Sư đã vì nhân duyên lớn thị hiện cách đây đúng 2629 năm..."

Sau buổi lễ, mọi người đều đứng lên, hướng tiến ra nơi chỗ làm lễ động thổ khởi công xây Đại Hùng Bảo Điện.

Các anh chị em Gia Đình Phật Tử đứng hai bên lối vào làm hàng rào danh dự để cung nghinh chư Tôn Đức Tăng Ni và quý quan khách Úc Việt vào bên trong khuôn viên. Dù là mùa thu, nhưng nắng hôm nay chói chang. Khuôn viên của nền ĐHBĐ tương lai được rào bởi những lá cờ màu sắc rực rỡ và bên trong có một vòng tròn cờ nữa là khu vực hành lễ. Nhiều quan khách như bà Thị Trưởng Thành Phố Maribyrnong, Thượng nghị sĩ Nguyễn Sang đại diện thủ hiến Steve Bracks và nhiều nghị viên thành phố, cùng cả ngàn đồng hương Phật tử tham dự. Đầu tiên, thầy Phước Thái xướng ngôn viên buổi lễ mời mọi người niệm Phật cầu gia bị. Sau đó, thầy có đôi lời về không khí vui mừng của buổi lễ. Thầy nói:

"Trong không khí của một ngày vui chung thật lớn lao, kính mừng ngày Đản Sanh của Đức Phật hôm nay, bên cạnh đó, chúng ta còn có một niềm vui riêng trào dâng tràn ngập nỗi lòng xúc động. Như có một Phật tử đã nói, khi nhìn thấy cảnh tượng này, thật con vui mừng xúc động đến nỗi rơi lệ. Vâng! Có những niềm vui xúc động mà ta không thể nén lòng được. Nén lòng sao được, trải qua bao năm dài tháng rộng mòn mỏi đợi trông mới có được ngày này. Đó là tâm trạng chung của Tăng Ni và Phật tử chúng ta.

Thời gian qua, thật ngắn ngủi đối với những người vô tâm không mong đợi, nhưng đối với chúng ta, nhứt là Hòa Thượng cũng như Đại Đức trụ trì, ngày đêm mong mỏi sớm được hoàn thành một ngôi Đại Hùng Bảo Điện rộng lớn khang trang để có đủ tầm vóc dung chứa Phật tử tập trung về chùa hành lễ, thì quả thật rất là dài lâu. Vì đó là một hoài bảo, một tâm nguyện của Hòa Thượng và đó cũng là tâm nguyện chung của người Phật tử. Cũng theo nhịp điệu trong niềm cảm xúc lớn lao đó, có một Phật tử vừa mới sáng tác những vần thơ nói lên tâm trạng nỗi lòng xúc động tràn ngập của mình. Bài thơ mang tựa đề là "Niềm Vui Lớn" như sau:

Trải bao năm tháng lo toan
Thầy trò vất vả trăm ngàn khó khăn. Chướng duyên thử thách trở ngăn
Cũng không ngăn được lòng hằng quyết tâm. Dù cho phải trải nhiều năm
Kiên trì vượt thoát âm thầm nhẫn qua. Đắng cay, cay đắng thật là
Nào ai biết được để mà cảm thông.
Biết rằng Phật tử mỏi trông
Nhưng làm sao được gấp xong hoàn thành. Một ngôi Bảo Điện cho nhanh
Ai mà không muốn tựu thành cho mau. Council duyệt xét trước sau

Xét qua, xét lại nôn nao đợi chờ. Hôm nay thành tựu ước mơ
Một ngày vui lớn ai ngờ được đâu. Bao nhiêu gánh nặng lo rầu
Hoàn thành ước nguyện bước đầu khởi công. Cũng nhờ Phật tử đồng lòng
Góp công góp của mới xong công trình. Nguyện cầu Tam Bảo chứng minh
Việc làm suôn sẻ an lành ngoài trong. Mấy lời bộc bạch nỗi lòng
Cầu mong Bảo Điện sớm xong hoàn thành".

Sau đó là lời khai mạc của thầy trụ trì Thích Phước Tấn, có đoạn thầy nói:

"... Đây là công trình mang tính cách phục vụ Đạo Pháp, văn hóa và xã hội một cách rộng lớn, nên cần nhiều người, nhiều thành phần tham gia vào công trình mới thể hiện được tính cách chùa chung của Cộng Đồng Phật tử tại Melbourne".

Bà Thị Trưởng ngỏ đôi lời chào mừng ngày trọng đại của Cộng Đồng Phật tử. Bà nhấn mạnh ngôi ĐHBĐ tương lai không những chỉ cho Cộng Đồng Phật tử Việt Nam mà nó sẽ là một thắng cảnh cho thành phố. Rồi đây, trong tương lai, thành phố này sẽ thu hút thêm nhiều khách vãng lai thăm viếng. Bà kính chúc công trình nầy sẽ được thành tựu đúng như thời gian đã dự định. Thượng nghị sĩ Nguyễn Sang cũng góp lời ca ngợi sự lớn mạnh của Cộng Đồng Phật giáo, đã và đang đóng góp vào nền đa văn hóa của nước Úc. Sau khóa lễ cầu nguyện là lời kêu gọi của Trưởng Ban Vận Động Xây Dựng (như đã trình bày ở lá thư kêu gọi trên).

Cuối cùng là vài lời cảm tạ của Ban Tổ Chức và thọ trai.

Lễ Động Thổ

Phần cuối của bản tin nội dung nói về việc: "Xây Cất Đại Hùng Bảo Điện", trong số báo Hương Đạo đặc biệt phát hành vào dịp Đại Lễ Phật Đản năm 2005, có đoạn thông tin như sau:

"Để chuẩn bị lễ động thổ xây dựng Đại Hùng Bảo Điện và sẽ khởi công vào ngày 16/05/05 , Ban Kiến Thiết đúc kết các hồ sơ gọi đấu thầu cho từng phần để đúng thời gian khởi công xây dựng, trong đó Thư Viện và Thiền Đường dọn đến nơi khác tạo cho khu đất rộng của chương trình và họa đồ xây cất. Trong dịp lễ động thổ ngày thứ hai 16/05/05/ kính mời toàn thể quý đồng hương Phật tử đến tham dự ngày khởi công xây cất Đại Hùng Bảo Điện sau nhiều năm đợi chờ thiết kế xây dựng".

Buổi chiều hôm ấy, mọi người tập trung tại nền ĐHBĐ sắp xây, dù là chiều thu gió thổi lạnh buốt cả người, nhưng cũng có khoảng hơn một trăm liên hữu Phật tử đến dự lễ cầu nguyện. Mọi người đứng chung quanh tạo thành một vòng tròn rộng lớn, Mở đầu Hòa Thượng nói: "Không biết thầy trụ trì xem giờ khắc ra sao mà chúng ta phải đứng đây với cơn gió lạnh này, cũng may là trời không mưa. Nếu mưa, thật không biết phải làm sao chúng ta có thể chịu nổi".

Sau khóa lễ cầu nguyện cho công trình xây cất, chiếc xe ủi đất nổ máy thật lớn rồi bứng đi một cây trong nền mới. Sau đó, Hòa Thượng cùng chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử dùng cái xuổng mà thầy trụ trì đã chuẩn bị mua cách đây 4 năm (từ năm 2005). Mỗi người thay phiên nhau xúc đất. Ai nấy đều tỏ ra rất hoan hỷ nở nụ cười tươi và cùng nhau chụp hình lưu niệm cho ngày đáng ghi nhớ này. Nhân nhìn cảnh tượng này, xúc cảnh sanh thơ, nên có một Phật tử cảm hứng đã dệt nên những vần thơ với tựa đề "Niềm Tin Mới" như sau:

Chiều thu lạnh gần nhau ta thêm ấm
Với niềm tin miệng nở nụ cười tươi
Ánh mắt sáng long lanh đầy tin tưởng với mọi người
Đứng cầu nguyện vòng quanh tân nền Bảo Điện
Trên bàn thờ khói hương đang tỏa quyện
Nguyện cầu cho xây dựng sớm thành công
Bao nhiêu năm kẻ đợi với người mong
Nay đã biến giấc mơ thành sự thật
Giờ đã điểm khởi công cùng động đất
Vá của thầy và xuổng nọ của cô
Phật tử cùng nhau xăn tay áo bước vô
Cùng đóng góp một bàn tay xây nhỏ bé
Ngày không xa bình minh về nắng hé
Tăng Ni cùng Hòa Thượng trở lại đây
Rồi thiện nam tín nữ già trẻ sẽ sum vầy
Trong Bảo Điện ngát hương lòng thơ thới
Hẳn ngày đó mọi người vui phơi phới
Lễ hội mừng chào Bảo Điện khánh thành
Lòng vui lên trong ánh mắt long lanh
Niềm mơ ước đã tựu thành ngôi Tam Bảo.

Vầng trăng thu lưỡi liềm trên bầu trời không đủ sáng cho khuôn viên hành lễ. Phật tử sau đó di chuyển về chánh điện tạm để tụng kinh Pháp Hoa. Dù đêm thu khá lạnh nhưng mọi người lại cảm thấy ấm cúng vơi nhẹ cõi lòng.

Mọi người không ai bảo ai thầm nguyện cầu hồng ân Tam Bảo gia hộ cho ngôi Bảo Điện sớm được hoàn thành như nguyện vọng tha thiết của toàn thể cư dân và Phật tử Tăng Ni ở chùa Quang Minh và vùng thành phố Maribyrnong.

Ngôi Thiền Đường

Khi đến khu đất mới để xây Bảo Điện này, hẳn không ai có thể quên được ngôi Thiền Đường. Đây là ngôi nhà đầy kỷ niệm thân thương trải bao năm tháng dài Phật tử miệt mài tu học nơi đây. Và chính nơi đây cũng là mái ấm che chở cho bao anh chị em đã học và tốt nghiệp về cách sử dụng máy vi tính điện toán.

Đây cũng còn là nơi mà mọi người thường tới lui mượn băng đĩa, kinh sách về nghe và đọc. Một thư viện rất là nghèo nàn. Nghèo nàn đủ mọi phương diện. Từ khung cảnh vị trí cho đến kinh sách, băng đĩa v.v... tất cả đều rất hạn hẹp. Nói thư viện mới nghe thì tưởng là sang trọng rộng lớn lắm, nhưng thực tế, đó chỉ là một căn phòng chật hẹp không quá 4 thước vuông. Tuy nhỏ hẹp và nghèo nàn như thế, nhưng cũng tạm đủ cung ứng phần nào qua các loại băng đĩa giảng pháp của chư Tôn Đức Tăng Ni để cho quý đồng hương Phật tử thỉnh về nhà nghe.

Điều đáng tán thán ca ngợi là tinh thần hăng say tích cực đóng góp của các anh chị em Phật tử trẻ tuổi đảm trách công việc nầy. Họ có mặt thường xuyên vào những ngày cuối tuần. Họ chia nhau công việc để làm, kẻ thì túc trực văn phòng, người thì sang băng đĩa. Phải nói người có công lao năng động điều hợp mà đã được quý thầy giao phó cho trọng trách quản lý điều hợp nầy, đó là Phật tử Huệ Lực. Huệ Lực là một Phật tử thuần thành trẻ tuổi rất năng động trong công việc. Anh đã được các bạn đồng nghiệp rất cảm tình tín nhiệm và mến thương.

Đó là nơi kỷ niệm đã hơn một thời làm cho tình người thấm đượm nhau hơn. Làm sao có thể quên được, vào mỗi buổi sáng chủ nhật, sau thời tụng kinh ở chánh điện rồi mọi người già trẻ kéo nhau xuống đây để nghe giảng pháp. Kể từ năm 1998 cho đến khi ngôi thiền đường dỡ đi (2005), pháp hữu Thiện Đại đã liên tục giảng các bộ kinh Đại Thừa như Pháp Hoa, Địa Tạng, và Đại Bát Niết Bàn ở tại ngôi thiền đường nầy. Hai bộ kinh pháp Hoa và Địa Tạng thì đã giảng xong, chỉ có Kinh Đại Bát Niết Bàn thì chưa hoàn tất.

Chiều lại, thì có lớp học giáo lý của khóa học hạnh xuất gia. Khóa học nầy kéo dài thời gian là 4 năm. Số người dự học rất đông đảo được chia làm hai thành phần: chánh thức và dự thính. Học viên chánh thức phần lớn là giới thanh niên và trung niên. Còn những người trọng tuổi thì chỉ theo dõi dự nghe mà thôi. Họ theo học đều đặn vào lúc 2 giờ chiều mỗi ngày chủ nhật hằng tuần. Họ là những Phật tử rất nhiệt thành trong tinh thần cầu học. Điều cảm động và đáng tán dương nhất là có một số Phật tử nam nữ ở chùa Hoa Nghiêm thuộc thị trấn Springvale, vùng Đông Nam Melbourne. Tuy đường xá xa xôi lái xe phải mất thời gian khoảng một tiếng đồng hồ, nhưng họ vẫn cố gắng kiên quyết vượt qua mọi khó khăn thử thách. Đó là cả một sự quyết tâm lớn lao của họ. Họ theo học suốt chương trình trải qua 4 năm dài như thế. Thật là một tinh thần cầu tiến học hỏi Phật pháp cao độ rất hiếm có ở cái xứ sở văn minh vật chất nầy.

Khóa học có tổ chức thi cử và thuyết trình vào cuối mỗi niên khóa. Họ thuyết trình qua những bài tiểu luận mà họ đã viết. Đây là những bài tiểu luận đánh giá qua trình độ thu

thập học lực của họ. Nhờ đó, mà tạo cho lớp học có thêm nhiều sinh khí năng động vui vẻ học tập. Họ thi đua và chia sẻ kiến thức cho nhau trong tinh thần kiến hòa đồng giải thật là hào hứng. Thành phần Ban giảng huấn gồm có bốn vị: Thầy Thiện Tâm, Thầy Phước Tấn, Thầy Phước Hựu và pháp hữu Thiện Đại.

Để bày tỏ tấm lòng biết ân đối với quý thầy đã từng bỏ ra nhiều công sức giảng dạy, nên hằng năm, vào dịp Tết Nguyên Đán, các học viên đều tập trung về chùa để làm lễ tạ sư. Người khởi xướng đứng ra tổ chức và điều động cho buổi lễ nầy, chính là cố Sư Cô Nguyên Lưu. Vì Sư Cô làm Trưởng ban hỗ trợ hoằng pháp và đặc biệt là hỗ trợ cho khóa Học Hạnh Xuất Gia trải qua suốt thời gian bốn năm.

Tri ân và báo ân, đó là đạo đức căn bản của đạo làm người. Đó cũng còn là dịp để thầy trò gặp nhau hàn huyên tâm sự, và tạo nên một niềm vui chung sau một năm dài mệt mỏi học hỏi. Đó cũng còn là một đóng góp lớn lao về mặt hoằng pháp. Hoằng pháp là mở rộng tâm thức trong chiều hướng thượng vươn lên để tìm lại giá trị nguồn sống thiêng liêng đích thực căn bản của mỗi cá nhân và tha nhân. Có thể nói, ngôi thiền đường nầy chính là nơi tổ ấm, xây dựng biết bao tình thương nồng nàn chan chứa hương vị đạo mầu ngát tỏa hương thơm trong khung trời chánh pháp an lạc và giải thoát.

Được biết ngôi nhà này thầy trụ trì mua vào thời điểm năm 1997 và sau đó trang trí sửa lại bên trong để làm lớp học. Ngôi nhà này được chia ra làm hai gian: Một bên để sử dụng làm lớp học. Còn một bên thì để sử dụng giảng dạy computer và làm thư viện như đã trình bày ở trên. Ngôi nhà không lớn lắm, nhưng vì nhu cầu của công việc mà phải ngăn chia như thế. Ngôi nhà đã dỡ đi vào ngày 15 tháng 5 năm 2005.

Nhìn thấy cảnh tượng vô thường này, Phật tử Minh Quang đã sáng tác hai bài thơ đối đáp họa vận để lưu luyến như một lời biết ân của ngôi nhà đầy ấm cúng này. Bài thơ với tựa đề:

Vịnh Thiền Đường.

Sáng đến Quang Minh thấy vấn vương
Đứng nhìn quang cảnh của Thiền Đường
Mái xưa đâu nữa lòng đau thắt
Vách cũ còn chi dạ đoạn trường
Thầy đã đi xa hoằng Phật Pháp
Bạn nay tản lạc nhớ trầm hương
Một mình ngơ ngẩn lòng hoang vắng
Đối cảnh hợp tan sao tiếc thương!

Họa vận

Đâu có chi mà phải vấn vương
Đủ duyên hợp lại tạo Thiền Đường
Dỡ tôn tìm được bầu trời rộng
Phá vách lòi ra cảnh hậu trường
Nghe giảng đừng lầm khi đối cảnh
Thật hành để được ngửi mùi hương
Độc hành nhẹ bước lần đi tới
Thầm niệm Di Đà thôi tiếc thương!
Vấn đề tài chánh và vay nợ ngân hàng

Nói đến tài chánh là nói đến huyết mạch của công trình xây dựng. Tài chánh có dồi dào thì việc làm mới nhanh chóng. Nhưng nguồn tài chánh từ đâu mà có? Ai cũng biết mọi việc đều do đồng hương Phật tử cúng dường đóng góp. Sự đóng góp như trên đã nói có nhiều cách. Kể từ khi chùa dời về trên mảnh đất mới này, thì việc đóng góp tài chánh của đồng hương Phật tử ngày một nhiều hơn. Theo chỗ chúng tôi được biết, thì ngoài việc khách thập phương viếng chùa cúng dường vào thùng phước sương hằng ngày ra, còn lại thì có nhiều sự đóng góp khác nữa. Đại khái có những cách đóng góp sau đây:

  • Phật tử cúng dường bất thường vào quỹ xây dựng chùa.
  • Tổ chức những buổi tiệc cơm chay định kỳ, 4 lần trong năm.
  • Tổ chức tiệc cơm chay bất thường.
  • Tổ chức bán vé đại nhạc hội.
  • Đấu giá những đồ vật quý giá do Phật tử hiến tặng vào những buổi tiệc cơm chay.
  • Buôn bán thực phẩm vào những kỳ đại lễ.
  • Mượn tiền Phật tử không lời, khi cần, chùa sẽ hoàn trả lại.
  • Phật tử cúng dường vào những khóa tu học định kỳ tại chùa.
  • Tiền lợi nhuận của Bồ đề trai hàng tháng.
  • Tiền bỏ thùng phước sương vào dịp Tết Nguyên Đán và những đại lễ trong năm như Phật Đản và Vu Lan.
  • Tiền Hộ Trì Tam Bảo do quý liên hữu Phật tử cúng dường hằng tháng.
  • Tiền bán gara sale, do một vài công ty hiến tặng một số đồ vật dụng lặt vặt.
  • Tiền bán bông vạn thọ vào dịp Tết Nguyên Đán.

Ngoài ra, chùa còn nhận được một số tiền tài trợ lớn của chánh phủ Tiểu Bang Victoria là một triệu Úc kim. Nhưng số tiền này, không phải chánh phủ tài trợ một lần mà hiến tặng qua đôi lần. Cứ mỗi lần tài trợ là chánh phủ đòi hỏi Hội phải có sự báo cáo việc làm cụ thể.

Được biết, khi chúng tôi biên soạn tới đây (đầu tháng 11 năm 2008) thì số tiền một triệu đồng đó, họ cũng chưa đưa hết cho chùa. Nghĩa là chánh phủ mới đưa phân nửa số tiền $500,000 (năm trăm ngàn Úc kim). Còn lại phân nửa, tùy theo báo cáo việc làm kết quả cụ thể của mình, thì họ mới đưa thêm.

Ngoài số tiền lớn này ra, các cơ quan chánh quyền địa phương như: Hội Đồng Thành Phố Brimbank, Bộ Nhân Dụng, Bộ Môi Sinh, cũng như một vài hội đoàn, đoàn thể khác v.v...thỉnh thoảng họ cũng đều có ủng hộ tiền cho chùa. Riêng Bộ Môi Sinh họ ủng hộ cho chùa một bồn nước cao lớn với giá tiền là $70.000 (bảy mươi ngàn Úc kim)

Trong các cách cúng dường đóng góp nói trên, thì chỉ có cách cúng dường trong những kỳ lễ lớn, nhứt là vào dịp Tết Nguyên Đán đầu năm là nhiều hơn cả. Và kế đó phải nói là khâu bán thực phẩm, cũng như những buổi tiệc cơm chay. Chùa tổ chức tiệc cơm chay gây quỹ một năm 4 lần. Nhưng lần nào cũng có đông thực khách mua vé ủng hộ. Những bàn tròn đặt trong hội trường, không có bàn nào trống cả. Như thế, đủ chứng tỏ rằng việc ủng hộ đóng góp cho chùa bằng cách mua vé (mỗi vé là 25 Úc kim) của quý đồng hương Phật tử với một tinh thần hưởng ứng đóng góp rất cao độ. Nhờ đó, mà chùa có thêm số tiền để chi phí trong việc xây dựng. Ngoài ra, còn những nguồn tài chánh khác, chùa chỉ thâu nhận linh tinh mà thôi. Nhưng chủ yếu là chùa vẫn phải vay nợ ngân hàng.

Được biết hiện nay, chùa đang mắc nợ ngân hàng với số tiền to lớn là 2 triệu Úc kim. Số tiền này vay ngân hàng từ năm 2007, và đến hôm nay (2008), thì số tiền này đã trang trải mọi chi phí cho công trình xây cất đã cạn túi. Thầy trụ trì cho biết, trong tương lai có thể sẽ vay thêm hai triệu nữa, nếu sự ủng hộ đóng góp cúng dường của Phật tử không đủ chi dụng. Rất tiếc, công trình đang tiến hành xây cất, thì lại bị rơi vào thời điểm khó khăn của nền kinh tế suy thoái toàn cầu. Do đó mà ngân hàng không cho chùa vay với số tiền quá lớn như thế. Vì không muốn cho công trình bị đình trệ, nên thầy và Ban Kiến Thiết quyết định mượn tiền Phật tử và đồng thời kêu gọi quý đồng hương Phật tử đóng góp ủng hộ cúng dường. Hưởng ứng lời kêu gọi nầy, quý đồng hương Phật tử đã cho chùa mượn với số tiền không lời và cộng thêm với số tiền ủng hộ cúng dường nên chùa đã có thêm hai triệu Úc kim để trang trải mọi chi phí cho công trình.

Ngoài ra, vấn đề mái ngói, chùa kêu gọi quý đồng hương Phật tử mỗi người phát tâm hỷ cúng mỗi miếng ngói hay một viên gạch là 20 Úc kim. Qua lời kêu gọi này đã được quý đồng hương Phật tử phát tâm hưởng ứng nhiệt liệt ủng hộ cúng dường mạnh mẽ.

Khởi công đào móng làm nền

Nền móng là cơ bản của việc xây dựng. Nền có chắc móng có vững, thì mới có thể chịu đựng nổi ở phần trên. Giống như đôi chân có cứng cáp vững vàng, thì mới chịu nổi thân hình nặng ký khỏi bị té ngã. Do đó, việc đào nền làm móng thật hết sức quan trọng.

Sau lễ động thổ nói trên, nhà thầu có tên là FTH bắt đầu tiến hành công việc đào đất làm nền (tổng diện tích của ngôi ĐHBĐ là 1.500m2). Khi đào sâu dưới lòng đất gặp toàn là những tảng đá to lớn. Vì thế, nó cũng gây trở ngại làm chậm mất đi thời gian phần nào. Theo kỹ sư Vưu Chí Dũng cho biết, thời gian từ khi khởi công cho đến khi đào xong, phải mất thời gian là 3 tháng. Nhưng việc làm của họ thì rất tốt.

Như đã nói, công trình này đã được thực hiện qua từng phần vụ. Vì đây là một công trình xây cất lớn, nên không thể nào làm đúng theo thời gian đã được quy định như ý mình muốn. Nội việc đào sâu vào lòng đất lấy đá lên không thôi cũng đã mất nhiều thời gian chậm trễ rồi.

Sau khi đào đất xong, còn phải xây những bức tường áp đá (rockwall) và rồi tiến hành lắp ráp mọi hệ thống như đã nói ở trên. Công việc tiếp theo là đổ các trụ cột lớn và làm nền (basement). Và sau đó là thiết kế kết cấu dựng những bức tường thành kiên cố. Những bức tường nầy theo mô hình cấu trúc thì gồm có 6 cái tháp lớn. Sở dĩ nói tháp là vì có hai bức tường đứng song song và ráp lại với nhau tạo thành giống như hình cái tháp, nên nói là tháp. Sáu tháp nầy, theo thầy trụ trì cho biết là tượng trưng cho ý nghĩa Lục độ (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ). Thầy còn nói thêm, sự cấu trúc toàn bộ mô hình của ngôi chùa nầy là dựa theo tinh thần của Kinh Pháp Hoa mà thiết kế. Riêng hai tháp, đặc biệt sử dụng cho hai thang máy. Còn lại 4 tháp kia, mỗi tháp đều có mỗi phòng lớn. Những phòng lớn nầy để sử dụng tùy theo nhu cầu sinh hoạt cần thiết. Việc nầy sẽ được trình bày rõ hơn ở phần công dụng và tiện nghi.

Toàn bộ công trình, theo kỹ sư Dũng cho biết, việc đúc cột, đổ nền, làm tường này là công trình được thực hiện lớn lao nhứt. Vì tất cả phải được làm thật kiên cố vững chắc.

Vai trò của người điều hợp và quản đốc công trình

Việc làm của một công trình dài hạn to lớn như thế này, tất nhiên, nó đòi hỏi phải có người đóng vai trò chủ chốt để đứng ra điều phối nhân lực và quản đốc công trình. Việc làm mau chóng hay chậm trễ, vững chắc hay bê bối cẩu thả, phần lớn cũng do ở nơi người quản đốc công trình. Nói thế, không có nghĩa là quy hết trách nhiệm về người này. Nhưng, thường thì vai trò và trách nhiệm của người này rất quan trọng.

Người này, ngoài khả năng chuyên môn ra, còn phải có một tinh thần hăng say tích cực đóng góp và ý thức trách nhiệm. Muốn thế, thì phải là người vừa có lương tâm đạo đức, lại cũng vừa phải có tâm huyết nhiệt tình. Và nhất là phải được mọi người tin tưởng tín nhiệm.

Mới nhìn qua, chúng ta cứ ngỡ công việc của vị này, dường như là đơn giản, nhưng thật tình thì lại rất khó khăn. Bởi vì công trình xây dựng lớn lao này, không phải từ đầu tới cuối chỉ có một bộ phận là chừng ấy thợ hay chừng ấy nhân công. Mà mỗi phần vụ đòi hỏi tay thợ chuyên ngành khác nhau. Nghĩa là mỗi người ở mỗi lãnh vực sở trường chuyên môn khác nhau. Đó là điều rất khó khăn cho người đứng ra quản đốc công trình. Vì thế, nó đòi hỏi trách nhiệm của người quản đốc trông coi tổng quát cũng phải trải qua có nhiều kinh nghiệm trong những công trình xây cất lớn như thế này. Người quản đốc công trình xây dựng này, không ai khác hơn là KS Vưu Chí Dũng và người cố vấn của anh là ông Ian và KTS Trần Nam Sanh.

Như trên chúng tôi cũng đã có giới thiệu nói sơ về anh. Có thể nói, anh là kỹ sư trẻ có ý chí chịu khó và kiên nhẫn. Kể từ khi bắt đầu có thiết kế dự án xây cất chùa, anh là người có mặt từ buổi đầu. Anh với kiến trúc sư Trần Nam Sanh thường dự kiến hội ý với nhau.

Khi nói đến KS Vưu Chí Dũng không thể không nhắc đến KTS Trần Nam Sanh. Như ở phần trên, chúng tôi cũng có đề cập sơ qua về anh. Anh Sanh là người đóng góp cho công trình này rất lớn. Được biết, anh đã thiết kế mô hình Đại Hùng Bảo Điện này vào năm 2000, như đã nói sơ qua. Đây là tác phẩm chính do anh tư duy phát họa thiết kế ra. Việc thiết kế mô hình này đã được thảo luận, điều nghiên qua từng chi tiết, từ vị trí, phòng ốc sử dụng, các góc cạnh, quan điểm phong thủy, vật liệu cần xài, mái ngói, màu sắc, nét nhìn bề ngoài v.v... Mọi việc đã được anh và thầy trụ trì cùng với Ban Trị Sự cũng như Hòa Thượng tất cả đều đồng ý tán thành. Tác phẩm mô hình này đã được trưng bày ở chánh điện tạm trải qua thời gian cũng khá lâu để cho mọi người có dịp đến chùa xem qua. Phải nói, giữa anh và thầy trụ trì luôn thảo luận bàn bạc thường xuyên vào những buổi tối ở tư gia của anh cũng như thỉnh thoảng gặp nhau hội họp ở chùa.

Trong việc làm của anh, theo chỗ chúng tôi được biết, thì anh cũng có những nỗi khó khăn riêng. Nhưng dù có khó khăn, anh cũng vẫn kiên nhẫn cương quyết vượt qua. Ngoài việc anh giành thời gian lo cho chùa ra, anh còn phải lo công việc mưu sinh của anh trong gia đình. Chính vì thế, nó cũng gây ra phần nào đình trệ cho công trình. Tuy nhiên, có lần anh đã tâm sự với chúng tôi, người bên cạnh hay thường xuyên an ủi khuyến khích và chia sẻ những nỗi khó khăn với anh đó là cô Tắc Hồng tức bà xã của anh. Phải nói bà xã của anh là người đã hỗ trợ cho anh hết mình. Nhờ vậy, mà anh mới có thêm hứng thú nhiệt huyết để vượt qua mọi thử thách khó khăn. Anh nói, trong khi thiết kế, anh đã gặp rất nhiều khó khăn phức tạp, từ hệ thống đặt máy bơm nước chữa cháy, hệ thống đặt máy điều hòa nhiệt độ, đường ống nước sạch và ống thoát nước dơ, thang máy, âm thanh, cách nhiệt, ánh sáng, nhu cầu dành cho người lớn tuổi hoặc khuyết tật v.v.. cho đến phải thảo luận tranh chấp giải quyết với hằng chục kỹ sư chuyên môn, vì phần lớn họ yêu cầu mình phải làm theo lối thiết kế đơn giản của họ. Nhưng nếu mình nghe theo họ, thì nó không phù hợp và làm mất đi nét đẹp bề ngoài của ngôi Đại Hùng Bảo Điện.

Như trên chúng tôi cũng có nói, là việc làm của anh trong việc design thiết kế mô hình này, anh hoàn toàn không có nhận thù lao của chùa. Đó là chưa kể đến những giờ giấc mà anh đi họp với council hoặc họp các kỹ sư từng ngành và với Ban Trị Sự ở chùa. Đó là sự đóng góp công lao của anh cho công trình này rất lớn. Tuy rằng những chi tiết của toàn mẫu thiết kế mô hình nầy cũng đã có thay đổi chút ít cho tương xứng phù hợp. Chúng tôi xin tùy hỷ và hết lòng tán dương công đức của anh.

Trở lại việc làm của anh Vưu Chí Dũng, riêng Hòa Thượng, thầy trụ trì cũng như Ban Trị Sự đã đặt hết tin tưởng vào anh. Cho nên, việc quản đốc công trình này, ngoài thầy trụ trì ra, anh là người trực tiếp quản đốc mọi việc. Dù việc làm của anh, chùa cũng có trả lương tượng trưng cho anh, nhưng phải thành thật mà nói anh cũng đã góp phần công đức khá lớn trong công trình xây cất này.

Cung thỉnh tượng Phật và hai vị Bồ tát ngự tọa ở tầng lầu hai

Sau khi làm xong tầng lầu hai, nơi thờ Phật và xây bệ thờ xong, Thầy trụ trì quyết định cung thỉnh ba tôn tượng lên trên tầng lầu hai. Buổi sáng hôm nay, trời nắng ấm thật đẹp. Những áng mây trắng trong vắt như pha lê bay lơ lửng trên nền trời ngang qua chúng tôi như để đón mừng Thánh Tượng sắp sửa được đưa lên tòa sen ngự tọa. Để cho việc cung thỉnh các tôn tượng được an toàn, Thượng Tọa Thích Phước Tấn hướng dẫn một số quý Phật tử đến trước ba tôn tượng để làm lễ cung thỉnh chư vị. Sau thời kinh ngắn, những người thợ Úc dùng chiếc xe Crane có cần móc dài để móc từng tượng di chuyển lên trên lầu hai. Mọi người hướng mắt nhìn theo sự di chuyển từ từ cất cao lên của cái cần móc. Ai nấy đều biểu lộ trên gương mặt vừa vui mừng vừa hồi hộp. Tất cả đều đứng nghiêm trang chắp tay cung kính hướng lòng về ba tôn tượng mà thầm cầu nguyện...

Vẫn biết rằng việc làm của họ rất bảo đảm an toàn. Nhưng vì với tấm lòng thiết tha tôn kính đức Phật, nên ai nấy mới cảm thấy xót xa hồi hộp lo âu. Cuối cùng, thì mọi việc đâu cũng vào đó được an toàn như ý muốn.

Trong một khóa tu kết kỳ Niệm Phật lần thứ 11, vào một buổi chiều, sau giờ thọ thực, thầy trụ trì có nêu ra ý kiến, là muốn chúng tôi hướng dẫn toàn thể tu sinh lên trên tầng lầu hai để đi kinh hành niệm Phật, thay vì đi thiền hành như thường lệ. Thể theo ý kiến của thầy, chúng tôi hơn cả trăm người lần lượt bước lên từng nấc thang để đến tầng lầu hai đi kinh hành niệm Phật. Mục đích là để cầu nguyện cho công việc xây cất ngôi Đại Hùng Bảo Điện chóng được hoàn thành tốt đẹp.

Mặc dù buổi chiều hôm ấy, gió thổi rất lạnh, nhưng mọi người như quên đi sự lạnh lẽo. Tôi nhìn thấy mọi người ai nấy đều biểu lộ nỗi vui mừng hiện rõ trên gương mặt. Họ vui mừng là vì không ngờ giấc mơ của mình từ lâu, hôm nay đã trở thành sự thật. Họ vừa đi vừa nhiếp tâm niệm Phật. Mỗi câu niệm Phật của họ đều dốc hết tâm thành hướng lòng về Tam Bảo, mà cụ thể là ngôi Phật điện hôm nay, mặc dù chưa hoàn hảo. Đi kinh hành ba vòng xong, mọi người trở về vị trí cũ. Tất cả đều đứng trong vị thế nghiêm trang chắp tay thành kính hướng về các Thánh Tượng để hết lòng niệm Phật. Vừa dứt niệm Tứ Thánh, mọi người giữ thật yên lặng để tưởng niệm trong đôi phút. Mọi người như thầm cầu nguyện Phật lực gia hộ cho mọi công việc nơi đây đều thuận duyên tốt đẹp. Tuy giữ yên lặng, nhưng mọi người đã nói lên tất cả tấm lòng của mình hướng về một ngôi Đại Hùng Bảo Điện hoàn thành mỹ mãn trong một tương lai không xa.

Được biết, ba tôn tượng Phật và Bồ tát nầy, theo dự tính lúc đầu là sẽ rước những tay thợ chuyên môn ở Đài Loan họ sẽ qua đây để sơn phết thếp vàng trước khi làm lễ khánh thành. Nhưng cuối cùng không phải tay thợ chuyên môn ở Đài Loan mà là tay thợ chuyên môn ở Sydney. Việc nầy, chúng tôi sẽ nói rõ thêm ở phần nói về cung đón đức Đạt Lai Lạt Ma.

Cần nói thêm, thật là một phước duyên hy hữu cho chùa Quang Minh là vào ngày thứ năm 12 tháng 11 năm 2009, toàn thể chư Tôn Đức Tăng Ni và quý liên hữu Phật tử bổn tự được hân hạnh cung nghinh tôn tượng đức Phật Thích Ca bằng đá ngọc màu cẩm thạch. Được biết pho tượng Phật ngọc nầy là một trong 30 pho tượng đã được các nhà điêu khắc Thái Lan tạc tạo cùng chung một tảng đá ngọc cẩm thạch lớn rất quý giá xuất xứ từ Canada. Pho tượng cao 50cm. Trước khi an vị tôn thờ vĩnh viễn tại chùa, thầy trụ trì cung thỉnh tượng Phật lên Sydney để cho Hòa Thượng và đức Đạt Lai Lạt Ma làm lễ chú nguyện sái tịnh. Và sau đó, thầy thỉnh tượng Phật về lại chùa vào sáng ngày 3 tháng 12 năm 2009.

Ngoài tôn tượng Phật ngọc nầy ra, thầy còn thỉnh thêm 9 tượng Phật nữa (lẽ ra là 10 tượng, nhưng thầy cho biết còn một tượng nữa sẽ thỉnh sau và cộng với tượng Phật ngọc chung là 11 tượng). Mười tượng Phật nầy không phải bằng đá ngọc mà người ta chỉ đúc đổ bằng chất loại Fibre Glass (thủy tinh sợi). Và 9 tượng Phật nầy chính do Phật tử Quảng Thiên Nguyễn Văn Nhiêm sơn màu cẩm thạch. Phật tử dùng loại nước sơn khá đặc biệt để sơn. Nói đặc biệt, theo Phật tử cho biết, là vì loại nước sơn nầy rất bền bỉ có thể chịu nắng mưa khoảng 10 năm không hề bị phai màu.

Khi mới nhìn vào các tôn tượng thật rất giống in như là đá ngọc vậy. Việc làm nầy, phải là tay nghề chuyên môn và phải trải qua nhiều công phu khéo tay tỉ mỉ mới được. Nhưng tại sao lại phải thỉnh 10 tượng? Điều nầy theo thầy Phước Tấn cho biết, là dựa theo tinh thần Kinh Pháp Hoa, trước khi Phật thuyết pháp trên đỉnh đầu của đức Phật hiện một hóa Phật (tượng trưng Phật ngọc chính) và từ vị hoá Phật đó phóng ra 10 tia hào quang sáng ngời biến khắp cả mười phương (tượng trưng bằng 10 tượng Phật phụ). Cho nên, 11 tượng Phật nầy là nói lên ý nghĩa tượng trưng thâm trầm sâu sắc đó.

Toàn bộ chi phí giá cả cho tôn tượng Phật ngọc này khoảng 20 ngàn Úc kim. Số tiền nầy do gia đình bác sĩ Phạm Phúc Nhân phát tâm hỷ cúng.

Những công dụng và tiện nghi.

Nói đến Đại Hùng Bảo Điện là nói một cách tổng thể, nhưng kỳ thật bên trong có nhiều phần dụng tiện nghi khác nhau. Tầng trệt là để sử dụng làm hội trường đa dụng, chính giữa là một cái sân khấu rộng lớn. Hội trường đa dụng này có khả năng dung chứa khoảng hơn ngàn người. Bên cạnh còn có hai thang máy, đặc biệt dành cho những người già cả yếu đuối.

Đối diện sân khấu có những phòng đã được ngăn ra để sử dụng nhiều việc khác nhau. Như các lớp học và những sinh hoạt linh tinh khác. Điều đáng chú ý là những sinh hoạt ở hội trường và những sinh hoạt ở trên chánh điện, thật không có gì gây ra ảnh hưởng trở ngại khó khăn lắm. Vì toàn bộ đều có một hệ thống kỹ thuật điện tử nối kết chặt chẽ lại với nhau. Tuy nhiên, phải nói cũng rất là phức tạp và khó khăn trở ngại cho người quản lý.

Bên cạnh hội trường là khu nhà bếp. Khu nhà bếp mới nầy được trang bị nhiều vật dụng tiện nghi tối tân hiện đại cho việc nấu nướng. Tuy nhiên, nhà bếp nầy chỉ được sử dụng nấu nướng có giới hạn. Nghĩa là chỉ cung ứng cho những nhu cầu sinh hoạt đặc biệt ở tại hội trường đa dụng mà thôi. Như trường hợp gây quỹ tiệc cơm chay chẳng hạn... Ngoài ra, không có cung cấp thức ăn rộng rãi toàn bộ vào các dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan, hay Hội Chợ Tết. Vì thế, mà nhà bếp cũ vẫn còn phải được duy trì sử dụng tiếp tục.

Được biết, chánh phủ liên bang đã tài trợ 150 ngàn Úc kim để thiết kế mọi tiên nghi vật dụng cho nhà bếp nầy. Nếu tính chung tổng số tiền chi phí cho mọi thứ trang bị, thì có khoảng $300.000 (ba trăm ngàn Úc kim).
Sau khi hội trường và khu nhà bếp đã tạm hoàn thành khoảng chín mươi phần trăm, chỉ
còn một vài công việc nhỏ nhặt để thiết bị trang trí một vài nơi khác. Theo dự định, thì sau khi hoàn tất mọi việc ở hội trường và khu nhà bếp nầy, thì sẽ tổ chức ăn mừng một buổi lễ khánh thành trọng thể. Nhưng sau đó, xét thấy có những điều không được thuận tiện lắm, cho nên TT. Thích Phước Tấn và Ban Trị Sự quyết định sẽ tổ chức một buổi lễ sái tịnh đơn giản, chỉ giới hạn trong phạm vi nội bộ mà thôi.

Sau khi hội ý, mọi người đều nhứt trí quyết định chọn ngày 19 tháng 9 âm lịch năm Kỷ Sửu, tức nhằm ngày 5 tháng 11 năm 2009 để làm lễ sái tịnh. Sở dĩ mọi người đồng ý chọn ngày nầy, vì đây là ngày lễ vía kỷ niệm đức Bồ tát Quán Thế Âm xuất gia. Đặc biệt hơn nữa, ngày nầy, còn có khóa tu học ba ngày của các liên hữu Phật tử trong đạo tràng Quang Minh. Khóa tu bắt đầu khai giảng vào lúc 8 giờ sáng ngày 17 cho đến chiều ngày 19 tháng 9 âm lịch là hoàn mãn, tức nhằm những ngày 3, 4, 5 tháng 11 năm
2009. Số người ghi tên tham dự tu học rất đông. Do đó, nên Ban tổ chức mới quyết
định chọn ngày nầy để làm lễ.

Buổi lễ đã diễn ra vào lúc 9 giờ 30 sáng, trong không khí trang nghiêm thanh tịnh tại hội trường, dưới sự chứng minh và chủ lễ của Hòa Thượng Trưởng lão Thích Phước Huệ Tông Trưởng Tổ Đình Phước Huệ và một số chư Tôn Đức Tăng Ni, quý vị trong Ban Trị Sự, Ban Kiến Thiết, cùng hơn một trăm tu sinh trong đạo tràng và một số ít quý đồng hương Phật tử tham dự.

Sau khi Thượng Tọa Thích Phước Tấn trình bày rõ về lý do của buổi lễ, kế tiếp là phần lễ sái tịnh. Sau đó, là vài lời của Hòa Thượng Tông Trưởng. Hòa Thượng trình bày qua một vài điểm quan trọng trong quá trình vận động đóng góp của những vị trong các Ban Trị Sự, Ban Kiến Thiết và quý đồng hương Phật tử. Những đóng góp đó qua một quá trình dài lâu, trải qua rất nhiều chướng ngại gian lao thử thách khó khăn, nay mới được tạm thành tựu vẻ vang khang trang như thế nầy.

Hòa Thượng ca ngợi và tán dương tinh thần hy hiến đóng góp công lao và tài vật của quý đồng hương Phật tử tại tiểu bang nhà cũng như quý đồng hương Phật tử ở những nơi khác. Nhân đây, Hòa Thượng đặt tên gọi của hội trường nầy là Hall Quán Tự Tại. Hòa Thượng nói, sở dĩ tôi đặt danh xưng như thế, vì hôm nay là ngày lễ vía kỷ niệm đức Bồ Tát Quan Thế Âm. Hòa Thượng giải thích thêm, Quán Tự Tại là danh hiệu khác của Bồ Tát Quan Thế Âm. Có thể nói, đứng về mặt tu nhân thì gọi là Quan Thế Âm, còn đứng về mặt kết quả viên mãn, thì gọi Ngài là Quán Tự Tại. Tự tại có ý nghĩa là hằng an lạc, tự do, thảnh thơi, giải thoát. Cho nên, Hòa Thượng mong mỏi ai có duyên vào trong đây sinh hoạt thì thân tâm của họ thảy đều được an lạc tự tại giải thoát như Ngài. Mà muốn được tự tại như thế, tất nhiên mỗi người chúng ta cần phải cởi bỏ mọi thứ phiền não ràng buộc ở trong tâm thức. Quăng đi những gánh nặng lo âu sầu muộn và sợ hãi. Sau khi Hòa Thượng công bố danh xưng đó, cả hội trường đồng vỗ tay hoan hô tán thưởng nhiệt liệt.

Cuối cùng, Hòa Thượng thay mặt cho đạo tràng, ngỏ lời cám ơn tất cả và nguyện cầu đấng Mẹ hiền Quán Thế Âm gia hộ cho chư Tôn Đức Tăng Ni và quý đồng hương Phật tử luôn được an bình hạnh phúc và luôn tắm mình trong ánh hào quang của chư Phật.

Tiếp theo, là vài lời phát biểu của bác Minh Chiếu. Bác đại diện cho quý vị trong Ban Trị Sự Hội, ngỏ đôi lời cám ơn tất cả mọi người qua sự đóng góp nhiều công sức và tài vật. Đó là những nghĩa cử và những việc làm rất hữu ích trong công trình xây dựng mang lại sự lợi lạc chung cho mọi người.

Kiến trúc sư Trần Nam Sanh cũng có đôi lời phát biểu qua việc làm của anh. Mặc dù anh đã cố gắng hết sức mình trong vai trò trách nhiệm mà Hòa Thượng và Ban Trị Sự đã tin tưởng giao phó, nhưng anh cũng không thể nào chu toàn hết mọi việc. Tất nhiên là phải nhờ nhiều bàn tay góp sức nên công trình mới được thành tựu như thế nầy. Nhân đây, anh cũng xin cám ơn trên Hòa Thượng, Thượng Tọa Thích Phước Tấn và quý vị trong hai Ban: Ban Trị Sự và Ban Kiến Thiết cũng như tất cả các anh em công thợ, quý đồng hương Phật tử đã hỗ trợ cho anh hoàn thành công tác lớn lao nầy.

Chấm dứt buổi lễ bằng những tràng pháo nổ giòn tan liên hồi, âm thanh vang dội làm rung động lòng người hiện diện và như phá tan đốt cháy những ma chướng gây trở ngại khó khăn trên bước đường thăng hoa tiến tu giải thoát. Những tiếng pháo nổ vang dội nầy là thay lời chúc mừng cho sự thành tựu một kỳ công, mà trong đó mọi người đã phải trả một giá rất đắt, bằng những giọt mồ hôi và tâm huyết đánh đổi với bao công sức tinh thần và thể xác. Nói rõ ra là mọi người đã phải nỗ lực đóng góp rất vất vả cả tâm trí lẫn tài vật. Đó là kết quả của những trăn trở ưu tư, những hoài vọng thiết tha, những mong mỏi đợi chờ trong những năm tháng ngày dài qua. Đó là nói sơ qua vài nét về tầng trệt tức hội trường đa dụng là như thế.

Ngoài tầng trệt nầy ra, lên trên là tầng thứ hai, tầng nầy được xem như là một trung tâm não bộ để điều khiển toàn bộ building. Khu vực nầy có nhiều phòng tiện nghi khác nhau: phòng chờ đợi đọc sách báo, văn phòng tiếp khách, văn phòng xã hội. Qua khỏi văn phòng xã hội là khu vực đặc biệt dành riêng cho thư viện. Kế tiếp là phòng dành cho những thiện nam làm công quả nghỉ ngơi và bên cạnh là phòng học phương cách sử dụng máy vi tính v.v...

Cần nói thêm, cũng ở tầng lửng thứ hai nầy, đặc biệt còn có thiết kế một phòng điều hòa dưỡng khí rất tối tân hiện đại. Hệ thống điều hòa dưỡng khí này với chức năng của nó sẽ làm mát dịu dễ chịu cho cả hội trường.

Còn tầng lầu trên hết là Đại Hùng Bảo Điện. Ở tầng chánh điện này, cũng có khả năng dung chứa khoảng cả ngàn người làm lễ. Chính giữa thờ tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Phía sau tôn tượng, thường người ta hay vẽ cây Bồ đề nơi đức Phật ngồi thành đạo. Tuy nhiên, ở đây ta thấy có một tấm phong đóng thành một cái khung gỗ hình tròn lớn và có những vòng tròn lớn nhỏ sơn màu khác nhau. Những vòng tròn màu nầy được tượng trưng cho hào quang của Phật.

Về các tượng Phật nhỏ chung quanh ở các màu gồm có tất cả là 11 tượng. Như trên đã nói, đây là biểu trưng cho ý nghĩa phóng quang và hiện ra các hóa thân Phật. Với những phân thân của các hóa thân Phật nầy nhằm để tùy duyên hiện thân hóa độ chúng sanh vậy.

Cũng cần nói rõ thêm một chút về ý nghĩa tượng trưng cho toàn ngôi chánh điện nầy. Theo Thượng Tọa Thích Phước Tấn cho biết, sự kết cấu thiết kế của ngôi chánh điện bên trong là Thầy dựa theo ý nghĩa thâm sâu trong kinh Pháp Hoa ở phẩm Pháp Sư thứ mười. Ở phẩm nầy, Đức Phật có nêu ra ba điều kiện tối thiết yếu của một người nói kinh Pháp Hoa. Ba điều kiện đó Là: "Vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai và ngồi tòa Như Lai". Thầy cho biết, một người bước vào trong chánh điện là như bước vào ngôi nhà Như Lai, mà nhà Như Lai tức là ngôi nhà rộng lớn, đó là biểu trưng cho lòng từ bi rộng lớn bao la thương tất cả chúng sanh. Chúng ta hãy mở rộng cõi lòng thương yêu tương kính nhau như tình huynh đệ, như con một Cha và cùng chung một nhà. Vì thế, bất cứ ai bước vào trong chánh điện là nên xóa bỏ mọi thành kiến sở tri tỵ hiềm dị biệt, mọi kỳ thị chủng tộc ác cảm hận thù, mọi tranh chấp hơn thua phải quấy v.v... mà tất cả

chỉ có một tình thương bao dung rộng lượng hỷ xả và tha thứ cho nhau. Đó là ý nghĩa tiêu biểu thứ nhứt của cái không gian rộng lớn bên trong của ngôi chánh điện.

Điều thứ hai là mặc y Như Lai. Y của Phật đắp gọi là y Như Lai hay y giải thoát. Y Như Lai có nghĩa là biểu trưng cho lòng nhu hòa nhẫn nhục. Nhìn vào lá y của Phật đắp hay những chiếc y màu vàng mà chư Tăng Ni đắp bên ngoài, là nói lên sự nhẫn nhục dung hòa với một ý chí lập trường kiên định dù phải trải qua với những chướng duyên phong ba bão táp thử thách của cuộc đời. Nhờ vào sự an nhẫn kiên định đó mà chúng ta mới có thể vượt qua những chướng ngại khó khăn trên bước đường tu tập giải thoát. Phàm làm việc gì mà chúng ta muốn đạt được mục đích cao đẹp, tất nhiên, chúng ta cần phải có sự chịu đựng kiên nhẫn bền chí dẻo dai. Có thế, thì chúng ta mới có thể thành công trong sự tu hành cũng như nhiều lãnh vực khác.

Điều thứ ba là ngồi tòa Như Lai. Tòa Như Lai là biểu trưng cho ý nghĩa nhứt thiết pháp không. Cái tòa được thiết kế Phật ngồi là tượng trưng cho ý nghĩa đó. Một hành giả khi vào trong điện Phật tịnh tọa, thì phải nhớ là chúng ta đang ngồi trên cái tòa nhứt thiết pháp không. Bởi các hiện tượng sinh khởi đều do nhân duyên giả hợp tạo thành. Đã do nhân duyên giả hợp tạo thành, nên thực thể của các pháp là không. Nhìn thấu triệt được bản thể tánh không của vạn pháp thì, mọi vọng chấp tạo thành nhị nguyên phân tranh sẽ không còn tồn tại hiện hữu. Đó là chúng ta đang thể nhập vào thực tánh của vạn pháp. Đến đó thì mọi tranh chấp hơn thua hận thù, những ý niệm bất hòa gây nên những mâu thuẫn xung đột tạo thành thế lưỡng phân sẽ không còn nữa. Như thế mới thực sự là đúng với ý nghĩa của một hành giả tịnh tọa, hay thiền tọa. Đó là những ý nghĩa tiêu biểu thật uyên thâm khi chúng ta bước vào trong điện Phật.

Hai bên thờ hai vị Đại Bồ Tát: Địa Tạng và Quán Thế Âm. Phía sau là bàn thờ chư Tổ và chân dung giác linh của các bậc Tôn Đức Tăng Ni. Hai bên của bàn thờ chư Tổ là hai bàn thờ vong linh nam nữ.

Chung quanh chánh điện gồm có các phòng thiết trí rất ngăn nắp. Có hai phòng nhỏ đối diện nhau là dành riêng cho chư Tăng, Ni thay y hậu trước khi ra điện Phật để hành lễ. Hai phòng nầy đều có tiện nghi toilet và nhà tắm riêng. Đặc biệt có một phòng làm trung tâm điều khiển toàn bộ hệ thống điện tử. Đặc biệt còn có một phòng riêng bắt hệ thống sưởi ấm (heater) cho chánh điện. Đối diện chánh điện có một dãy phòng lớn là để thờ linh cốt.

Các phòng ở tầng trên phần nhiều là để sử dụng hội họp và một vài văn phòng hành chánh dành riêng cho các đoàn thể của chùa, cũng như dành cho các lớp học huấn nghệ đặc biệt. Ngoài ra, còn có một phòng lớn chuyên thiết trí các máy vi tính điện toán. Cần nói rõ, hầu hết những phòng trên đây, chỉ dành cho những sinh hoạt hội họp và các sinh hoạt xã hội linh tinh khác. Tuyệt đối không có phòng nào dành riêng cho chư Tăng, Ni an trú lâu dài cả.

Nói chung, tất cả đều được thiết bị có đầy đủ tiện nghi và đâu đó đều có ngăn nắp riêng biệt. Đặc biệt ở mỗi khu vực đều có nhà vệ sinh riêng. Điều đáng chú ý là những phòng lớn ở tầng trên nầy cũng có thể sử dụng làm nơi cho mọi người ngủ nghỉ tạm thời rất yên tĩnh khi cần thiết.

Mái ngói

Từ ngàn xưa, chùa được biểu trưng qua những đường nét kiến trúc nghệ thuật hoa văn độc đáo của một nền văn hóa Việt lâu đời. Từ xa nhìn vào, cái mà đập vào mắt người ta đầu tiên, phải nói đó là hình ảnh của một mái chùa. Thường thì mái chùa cong nằm trải dài bàng bạc ra. Điều này cho ta thấy rất rõ nét. Lối kiến trúc mái chùa khác hơn các loại mái nhà khác. Mái chùa cũng là biểu hiện ở phần trên, mang ý nghĩa ngoài việc có công năng che chở hồn dân tộc ra, như trong hai câu ca dao đã nói, nó còn mang một ý nghĩa rất thâm sâu có tính cách triết lý nhiều hơn, đó là: "tượng trưng cho lòng từ bi, vị tha và bình đẳng của đạo Phật". Chính nhờ vào cái tinh thần từ bi, vị tha và bình đẳng đó, mà đạo Phật từ ngàn xưa tới nay, luôn trải rộng lòng thương bao la và dung hòa mọi tư tưởng ý thức hệ dị biệt. Vì tất cả mọi loài đều có chung một nguồn tuệ giác. Có tuệ giác mới thực sự đủ sức tháo gỡ những tà kiến tri giác sai lầm. Đó là ý nghĩa của sự che chở và nuôi lớn phát triển đời sống tâm linh của con người.

Nhờ sự trải rộng tấm lòng bao dung ân đức người ta mới có được nếp sống dung hòa với nhau. Đó là ý nghĩa của bầu và bí tuy có khác giống, nhưng cùng chung một giàn. Chính cái triết lý sống bằng vào hình ảnh biểu trưng sống động của mái chùa đã dạy dỗ và thức nhắc người ta phải có tinh thần "Hòa và Hóa".

Cứ nhìn vào lối kiến trúc của một vật thể, nhứt là đối với những biểu tượng thiêng liêng như đình, chùa, nhà thờ v.v... người ta cũng có thể đánh giá được nền văn hóa của một dân tộc đó. Nóc chùa lợp mái ngói cong bàng bạc trải rộng như biểu lộ tấm lòng rộng lượng thương yêu ôm tất cả vào lòng không phân biệt kẻ thân người thù. Tư tưởng dung hợp, nếp sống hài hòa, trân quý yêu thương lẫn nhau, đó là ảnh hưởng của một nền giáo lý đạo Phật lấy từ bi, vị tha, bình đẳng làm căn bản. Thật vậy, lối kiến trúc này, nói lên được cái tính chất đặc thù của một nền văn hóa dân tộc Việt Nam từ cổ chí kim trải qua muôn ngàn thế hệ là như thế.

Màu sắc của một vật thể, nó cũng có ảnh hưởng đến tâm lý của con người. Nhìn vào một sự vật qua sự biểu hiện màu sắc của nó cũng có thể làm cho người ta dịu mát hoặc cảm thấy xốn xang khó chịu. Sự chọn lựa màu sắc cũng đòi hỏi người ta phải có đôi mắt nghệ thuật thẩm mỹ. Nói thế để thấy rằng, thầy Phước Tấn rất dè dặt cẩn thận khi chọn màu ngói. Thầy dùng vài ba miếng ngói có màu sắc khác nhau, rồi thầy hỏi người này người kia xem thử màu nào cảm thấy xinh đẹp và dễ chịu. Nghĩa là khi nhìn vào nó không làm cho người ta bị chóa mắt. Nhất là cái màu ngói lợp mái chùa phải là màu không nên sặc sở rực rỡ lắm. Mà cần phải có sự dịu hiền tươi mát thật dễ chịu. Nhưng điều đó, còn tùy theo trình độ văn hóa nghệ thuật của mỗi người mà có mỗi cách nhìn thẩm định khác nhau.

Sau khi thầy để cho mọi người xem qua và cuối cùng thầy lấy ý kiến chung để quyết định chọn màu. Đó là một việc làm rất cẩn trọng của thầy. Vì thầy cần phải tôn trọng quyết định chung. Mái ngói màu gạch tàu hôm nay là kết quả của sự chọn lựa của mọi người. Sau khi có sự quyết định chung, thì thầy mới đặt mua. Được biết, có tất cả là 38 ngàn miếng ngói và tổng cộng giá tiền là khoảng $100.000 (một trăm ngàn Úc kim).

Việc trông coi điều động tổng quát lợp toàn bộ mái ngói này là do kiến trúc sư Trần Nam Sanh và kỹ sư Vưu chí Dũng phụ trách. Được biết, có tất cả khoảng 10 nhóm khác nhau để lo công việc nầy. Mỗi nhóm đặc trách chuyên biệt một phần vụ. Đây cũng là một việc làm rất lớn và tối ư quan trọng.

Theo Ban Kiến Thiết cho biết, cái khó khăn nhứt của toàn bộ công trình nầy, phải nói chính là mái ngói. Công việc bị đình trệ kéo dài thời gian cũng chính do mái ngói nầy mà ra. Cái khó khăn nhứt là vấn đề phải làm sao uốn cong theo mô hình đã thiết kế. Nhất là vấn đề khó khăn phải sử dụng ngói theo dạng Á Châu (Trung Quốc). Với những thanh sắt to mà muốn bẻ cong theo ý muốn của mình, thật không phải là chuyện đơn giản dễ làm. Do đó, mà phải mướn kỹ sư chuyên môn để họ suy
tính tìm mọi cách thế để thực hiện đúng theo mô hình của mái cong.

Phí tổn cho việc mướn kỹ sư để lo cho việc làm nầy, theo BKT cho biết, phải tốn kém một số tiền khá lớn. Vì lợp bằng cách nào, nhìn lại cái mái cong kia cũng dễ bị mưa tạt vào. Chỉ cần gió thổi nhẹ thôi nước mưa cũng có thể chảy ngược lại. Việc nầy, đã có dùng quạt làm thí nghiệm thử. Tìm hết cách nầy xoay trở cách kia, mà cũng chưa tìm ra phương cách nào bảo đảm an toàn tốt nhứt. Thời may, thầy trụ trì tìm trên mạng lưới internet thấy có loại insulation tức loại cách nhiệt của hãng Kingspan Insulated Panel, đó là một loại cách nhiệt vừa có độ dầy an toàn và cũng không dễ bị bắt lửa cháy. Nghĩa là nó có nhiều yếu tố tiện lợi thích nghi rất tốt cho việc lót nền lợp ngói nầy. Chính loại cách nhiệt nầy mới có khả năng bảo vệ mái chùa không bị nước dột. Dù có đi chăng nữa, cũng phải trải qua thời gian khá lâu, ít nhất cũng là trên ba mươi năm.

Sau khi tìm được loại cách nhiệt tốt nầy, theo thầy cho biết, thật cảm thấy như nhẹ nhỏm người, khác nào như quăng đi một gánh nặng ngàn cân. Lâu nay, đầu óc mọi người bị căng thẳng mà cũng chưa tìm ra giải pháp ổn định. Hôm nay, bỗng nhiên, tìm được loại vật liệu an toàn và dễ làm nầy giống như bỗng nhiên mình lượm được một chiếc đũa thần không biết từ đâu rớt xuống. Sau đó, BKT bắt đầu cho khởi công tiến hành công trình lợp mái ngói. Thời gian khởi công cho việc làm này là vào ngày thứ hai 18/5/2009 , nhằm ngày 25 tháng 4 năm Kỷ Sửu. Khi hoàn tất mái ngói phải tốn một số tiền khá lớn. Có thể nói, tương đương với tổng số tiền chi phí cho tất cả mọi thứ: nền, móng, tường, cột v.v... Nghĩa là phải tốn tổng chi phí gần 2 triệu rưởi Úc kim.

Nhìn thấy mái ngói là thấy được rõ nét của ngôi chùa. Ai trông thấy cũng rất vui mừng. Vì đã trải qua giai đoạn cực kỳ khó khăn thiên nan vạn nan mà mọi người phải điên đầu nát óc vì nó. Nhìn vào mái ngói và toàn khối thiết kế ngôi chùa, chúng ta sẽ thấy rõ nét mang hình thức tân thời hơn là cổ kính. Thế là, tất cả chỉ còn lo trang hoàng bên trong và rồi dự bị cho lễ an vị Phật cũng như xúc tiến chuẩn bị cho đại lễ khánh thành toàn diện.

Tôn trí tượng Bồ Tát Di Lặc.

Bồ tát Di Lặc là một vị Bồ tát hiện nay Ngài đang ngự trên cung trời Đâu Suất. Đây là vị Bồ tát "Nhất sanh bổ xứ" được đức Phật thọ ký sẽ thành Phật trong tương lai. Kinh nói, tương lai Ngài sẽ hạ sanh xuống cõi Ta bà nầy tu hành và thành Phật. Nên gọi Ngài là: "Đương lai hạ sanh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật".

Về hình tượng của Ngài, phần lớn trong các ngôi chùa ở Trung Quốc, thường người ta tôn thờ tượng Di Lặc miệng cười, bụng phệ. Theo truyền thuyết, là người ta y cứ vào hình ảnh của vị Bố Đại Hòa Thượng ở Trung Quốc vào thời Ngũ Đại mà tạo tượng tôn thờ. Vì người ta tin rằng, vị Hòa Thượng nầy là hóa thân của đức Bồ tát Di Lặc. Tên thật của vị Hòa Thượng nầy là Khể Thử, nhưng sở dĩ người ta gọi Ngài là Bố Đại vì Ngài thường quãi cái túi vãi lớn (bố) trên vai. Lúc nào trên môi của Ngài cũng nở nụ cười toe toét.

Thường có sáu đứa con nít (tượng trưng cho 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) bu chung quanh trên thân hình của Ngài. Đứa thì móc mắt, móc miệng, móc tai v.v... Ấy thế mà trên gương mặt của Ngài vẫn thản nhiên vô tư không chút tỏ ra hờn giận. Hình ảnh nầy để nói lên tinh thần giải thoát không còn hệ thuộc ràng buộc bởi căn, trần, thức, như những kẻ phàm phu thường tình.

Thường người tu hành bị chướng ngại rất lớn trên đường hành đạo giải thoát là bởi do 18 thứ nầy. Tức 6 căn, 6 trần và 6 thức. Trong Kinh thường gọi là thập bát giới. Sáu trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu thức là từ ở nơi sáu căn rồi khởi phân biệt nhận thức, nên gọi chúng là thức. Căn chỉ là cơ quan hay công cụ để phát ra thức. Duy Thức học gọi là phù trần căn. Sáu trần còn gọi là sáu giặc. Vì sáu thứ nầy chúng có một ma lực rất hấp dẫn lôi cuốn người tu hành nhiễm trước rất nặng. Và chính những thứ nầy xúi giục làm cho con người gây nhiều tội ác trầm luân sa đọa. Đó là nói theo chiều hướng hạ dục nhiễm. Ngược lại, theo chiều hướng thượng thì, khi vận dụng công phu tu hành để được giác ngộ giải thoát, thì cũng chính những thứ nầy giúp cho người tu thăng tiến đến Phật quả. Cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói: "luân hồi hay giải thoát cũng từ nơi sáu căn mà ra". Đối với đức Bồ Tát Di Lặc, vì Ngài đã được giác ngộ giải thoát nên những thứ nầy đối với Ngài thì:

Đức Di Lặc ngồi trơ bụng đá
Bao bụi trần bám đã rồi rơi
Mặc cho thế sự đầy vơi
Dững dưng như một nụ cười an nhiên.

Ai trông thấy hình tượng của Ngài cũng đều phát khởi tín tâm vui tươi như đem lại những điều ân huệ may mắn. Vì thế, nên vào đêm trừ tịch cúng giao thừa, người ta thường đến chùa để cúng rước vía Ngài. Cho nên người ta thường gọi là mùa "Xuân Di Lặc". Người ta mong ước trọn năm sẽ được an vui may mắn như mùa xuân như ý vậy.

Xuân đạo lý mùa xuân bất diệt
Xuân Chơn như không hạn cuộc thời gian
Sống vui xuân trong cảnh khổ cơ hàn
Người con Phật vẫn vui niềm thanh thoát.

Được biết, tôn tượng đức Bồ tát Di Lặc hiện nay được tôn trí bên góc phải của cửa chính, từ Chánh điện nhìn ra. Đầu tiên, là do gia đình anh Mã Thành Thuận (chủ nhà hàng Như Ý Footscray) phát tâm cúng dường $10.000 (mười ngàn đô Úc) cũng như sự phát tâm cúng dường của gia đình bác Văn Giảng, để thỉnh tượng Di Lặc từ Việt Nam đem về Úc tôn thờ. Thời điểm thỉnh tượng về tới chùa Quang Minh là vào khoảng năm 1997. Lúc đầu, định thiết trí tôn thờ ở khoảng đất trống ngang với nhà trù nhìn ra. Nhưng nơi đây thì chu vi khoảnh đất quá nhỏ hẹp, trong khi đó thì tôn tượng lại quá lớn. Do đó, nên không thể nào xứng hợp thiết trí được. Nên nhớ, thời điểm nầy là chùa chưa có mua miếng đất xây ngôi Đại Hùng Bảo Điện hiện nay. Vả lại, gần khu nhà
bếp, tất nhiên không thể nào giữ được sự trang nghiêm thanh tịnh. Do đó, nên trong một buổi họp có nhiều người, sau khi thảo luận hội ý, mọi người đồng quyết định là nên đình lại để tìm nơi khác tôn trí thích hợp hơn.

Sau đó, cũng đã chọn nhiều nơi nhưng chưa có được một nơi nào thích đáng khang trang vừa ý. Bởi lẽ đó, mà trải qua thời gian khá lâu nên tôn tượng đã bị nứt bể hư hại rất nhiều, vì những nòng sắt bên trong đã bị thắm nước sét mục. Thời đó, cũng có một vài thí chủ như đạo hữu Văn Wholesales tại Melbourne Market và gia đình bác sĩ Phạm Phúc Nhân đã phát tâm cúng dường tịnh tài để thiết trí làm nơi tôn thờ Ngài. Tuy cũng có một vài người phát tâm muốn tu bổ tân trang lại, nhưng vì tay nghề của họ còn kém, nên cũng chưa dám khởi công làm.

Gần đây, có kỹ sư Bình, đạo hữu Sang và một nhóm anh em cũng có tay nghề chuyên môn trong lãnh vực tu bổ nầy, nên thầy trụ trì cho phép họ khởi công tu bổ lại.

Khi bắt tay vào việc, thì mới thấy là tượng bị hư mục rất nhiều. Những phần cements tô đắp bên ngoài cũng đã bị mục nát rời rạc từng mảnh vụn. Do đó, gần như phải đúc ráp lại toàn bộ. Phải nói, những anh em nầy họ rất nhiệt tâm trong vấn đề đóng góp công sức. Không những đóng góp bằng sức lực không thôi mà các anh em còn đóng góp tịnh tài nữa.

Được biết, từ khi khởi công cho đến khi tôn tượng được hoàn thành, cũng phải trải qua thời gian khá lâu. Khi chiêm bái tôn tượng nầy, xin tất cả mọi người hãy ghi nhận công đức của những vị thí chủ và công lao của những anh em Phật tử đã phát tâm tích cực đóng góp tận tình cho công việc lợi ích chung nầy. Công đức tạo tượng Phật là một công đức rất lớn lao. Chúng tôi xin thành tâm hết lòng tùy hỷ và tán dương việc làm công đức nầy của tất cả quý vị.

Khi tôn tượng đã hoàn thành, rất tiếc là phía trước tượng không có nơi để khách thập phương chiêm bái hành lễ. Đó cũng là một khiếm khuyết đáng tiếc. Thế nên, một số anh em đề nghị với thầy trụ trì là nên tạo thế để làm nền sân trước cho có nơi Phật tử lễ bái. Nhận thấy đề nghị rất hợp lý, nên thầy trụ trì cho phép các anh em tìm cách thực

hiện. Nhưng rất tiếc công trình nầy chưa tiến hành được, do vì thiếu phần tài chánh cũng như một vài lý do kỹ thuật khác. Theo anh Sang cho biết, phần kỹ thuật thì không có gì khó khăn đáng ngại, chỉ ngại là phần tài chánh để thực hiện mà thôi. Tương lai, nếu đủ duyên thì sẽ thực hiện công trình nầy để có chỗ nơi rộng rãi cho khách thập phương chiêm bái lễ lạy.

Lót gạch mở rộng sân Quan Âm lộ thiên

Thông thường một ngôi chùa cần phải có một cái sân trước thoáng đãng. Cái sân có rộng thoáng, thì mới tăng thêm vẻ đẹp của ngôi chùa. Thường khi khách thập phương đến chùa thăm viếng lễ bái, họ cũng hay đi dạo ở phía trước sân để ngắm cảnh.

Trước kia, khi xây cất chánh diện tạm thời, thì cái sân chùa ở phía trước chánh điện không được rộng lớn lắm. Nhất là, ở nơi đó lại có tôn trí Thánh tượng Bồ Tát Quán Âm lộ thiên. Vì thế, nên vào những dịp kỷ niệm vía Ngài, Phật tử đứng chiêm bái không được thoải mái cho lắm. Vì phía trước Thánh tượng rất hẹp, không đủ chỗ để mọi người lễ bái. Vả lại, toàn sân đều tráng cements, nên lâu ngày đều bị cũ kỹ nứt nẻ.

Trước kia, số lượng người trong đạo tràng không có đông lắm. Tuy nhiên, những năm gần đây, thì số lượng quý liên hữu Phật tử đến gia nhập sinh hoạt tu học trong đạo tràng ngày càng gia tăng đông thêm. Do đó, Nên vào những dịp lễ kỷ niệm vía Bồ Tát Quán Thế Âm, thì không có đủ chỗ đứng lạy và đi kinh hành. Vì thế, mà đạo tràng đề nghị yêu cầu chùa nên mở rộng ra thêm.

Thể theo nguyện vọng yêu cầu thiết yếu đó, liên hữu Tịnh Đức thay mặt đạo tràng trình bày cùng với thầy trụ trì về việc đó. Nghe xong, thầy đồng ý và hoan hỷ tán thành. Sau đó, liên hữu Tịnh Đức mới thảo luận cùng với các anh em đã từng nhiệt tâm đóng góp công quả cho chùa. Như anh Sang, anh Thắng và một vài Phật tử khác nữa. Các anh em rất tán thành cho công việc hữu ích chung nầy. Sau khi hội ý chung rồi, liên hữu Tịnh Đức mới trình bày cùng với quý liên hữu trong đạo tràng, và đồng thời kêu gọi đạo tràng đóng góp tài chánh để mua các vật liệu như cát gạch v.v...

Sau khi kêu gọi đạo tràng đóng góp, họ đã hướng ứng một cách rất nhiệt tình. Mỗi chúng đều phát tâm cúng dường tịnh tài. Khi đã có tiền rồi, thì công việc bắt đầu tiến hành. Trước tiên, là cho xe ủi đất ban bằng rộng ra thêm, rồi lấy đá to tấn chung quanh bao bọc cái sân. Anh Đức là người lãnh phần trách nhiệm nầy, công việc của anh làm là chùa phải trả tiền. Anh lấy với giá phải chăng. Ngoài ra, còn có anh Vũ Viết Sang là người đứng ra quản lý công trình. Anh Sang phát tâm làm công quả không nhận tiền thù lao của chùa. Ngoài anh Sang ra, còn có các anh chị em khác như anh Thắng, anh Hiếu, anh Vinh, cặp vợ chồng Hạnh Thông, cặp vợ chồng Tịnh Từ và các Phật tử khác cũng nhiệt tâm đóng góp công quả.

Công trình bắt đầu khởi công vào ngày thứ sáu 18 tháng 6 dương lịch năm 2010. Các anh em làm gấp rút cho kịp lễ vía Đức Bồ tát Quán Thế Âm. Có nhiều hôm trời mưa to gió lớn mà các anh chị em vẫn tiếp tục làm. Làm với tấm lòng nhiệt thành vui vẻ bất chấp mưa gió khó khăn. Thậm chí, Hòa Thượng trông thấy thương xót bảo: "Sao các vị

không nghỉ để phải dầm mưa gió như vậy?!". Họ trả lời một cách vui vẻ ngắn gọn và từ tốn:

Bạch Hòa Thượng! "Chúng con cố gắng làm cho kịp lễ vía đức Bồ tát Quán Thế Âm". Một lời nói phát xuất từ tấm lòng chân thật chỉ nghĩ đến mọi người mà quên mình. Thật là vô cùng cảm động! Thế mới biết tinh thần đóng góp công sức của người Phật tử giúp cho chùa thật hết sức nhiệt thành.

Sau khi hoàn tất công trình, chiết tính tổng số tiền chi phí là $50.000 (năm mươi ngàn Úc kim). Số tiền nầy như đã nói phần lớn là do đạo tràng Quang Minh phát tâm hỷ cúng. Nhờ đó, mà mới có được cái sân tương đối rộng rãi khang trang thoáng sạch đẹp mắt như ngày hôm nay. Nhân đây, chúng tôi cũng xin ghi nhận công đức của toàn thể quý liên hữu Phật tử đã hết lòng đóng góp công cũng như của cho công trình hữu ích chung nầy.

Tưởng cũng cần nói thêm, Thánh tượng Bồ Tát Quán Thế Âm chịu đựng nắng sương mưa gió lâu ngày cũ kỹ, nên cần phải sơn phết lại. Được biết bác sĩ Phạm Phúc Nhân đã phát tâm hỷ cúng nước sơn và đạo hữu Thắng, Phật tử Nguyên Nhật Tiến cùng một vài vị khác đã bỏ công sức sơn phết lại. Do đó, nên nhìn Thánh tượng rất mới, đó là nhờ công đức của những vị nầy.

Bãi đậu xe (carpark)

Ngôi chùa khang trang vĩ đại như thế, tất nhiên, cần phải có chỗ đậu xe thoải mái thoáng rộng. Sau khi mọi việc xây cất sắp hoàn tất, dĩ nhiên, Ban Kiến Thiết phải nghĩ đến xúc tiến công việc chỗ đậu xe. Tuy việc làm nầy cũng nằm trong quy hoạch dự định của Ban Kiến Thiết. Và đây cũng là nằm trong toàn bộ mô hình của ngôi chùa đã được council duyệt xét cho phép. Tuy nhiên, theo council, với sự sinh hoạt đông đảo của chùa hiện nay, chùa phải có một bãi đậu xe rộng lớn có thể dung chứa khoảng hơn 200 chiếc xe. Đó là theo tiêu chuẩn quy định của council. Nhưng việc làm nầy, một phần, vì chùa cũng chưa có nơi thích hợp để thực hiện, phần khác thì tài chánh không có, nên chùa chưa có thể thực hiện đúng theo tiêu chuẩn của council quyết định đề ra. Việc nầy, council cũng thông cảm và trong tương lai tất nhiên, chùa sẽ tìm cách thực hiện đúng theo luật định của council. Đây là việc làm về sau, hiện tại thì chùa mới chỉ thực hiện bước đầu mà thôi.

Phải nói, vị trí của bãi đậu xe hiện nay thật là lý tưởng rất thuận lợi. Vì nó nằm bên hông phải của ngôi Đại Hùng Bảo Điện, tức từ ngoài đường Mullunger quẹo vô là tới carpark. Vì vậy, nên rất tiện lợi cho việc đậu xe. Nhờ vị trí thuận lợi không nằm sát chùa mà cũng không xa chùa lắm, nên tránh gây ra sự ồn ào náo động.

Phật tử tới chùa sinh hoạt mỗi lúc một đông hơn. Nhất là vào những dịp đại lễ của Phật giáo và dân tộc. Như các ngày đại lễ: Phật Đản, Vu Lan, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán trong năm. Những ngày lễ lớn nầy đồng hương Phật tử tới chùa dự lễ rất đông. Số lượng hằng mấy ngàn người. Mà chỗ đậu xe của chùa trước đây chưa có đủ để đáp ứng phần nào cho nhu cầu nầy. Vì thế, mà thỉnh thoảng hay xảy ra tình trạng bị phạt, vì các tài xế đậu xe trái phép. Nay thì vấn đề nầy chắc chắn là không còn. Tuy nhiên, chỉ đáp ứng vào những ngày chủ nhật sinh hoạt hằng tuần mà thôi, còn những ngày lễ lớn thì chắc chắn không thể nào đủ chỗ dung chứa hết. Hiện tại, chỉ có khoảng 138 chỗ đậu.

Công trình nầy sở dĩ được tiến hành hoàn tất nhanh chóng, thật tình mà nói, phần lớn cũng nhờ một thiện duyên hy hữu đưa đến. Đó là do chuyến viếng thăm chùa Quang Minh của đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, nên thúc đẩy công trình nầy phải gấp rút tiến hành thực hiện nhanh hơn.

Được biết, công trình nầy là do công ty Pecunia Construction đứng ra thực hiện. Anh Lê Nguyên Tùng là một trong những thành viên có phần hùn vốn trong công ty nầy. Do vậy, nên cũng rất tiện cho chùa khi cần liên hệ nhờ công ty giúp đỡ.

Công trình nầy đã được khởi công vào ngày 25.3.2011 và hoàn tất vào ngày 19.6.2011. Như vậy, thời gian thực hiện công trình nầy tính ra chưa đầy 3 tháng. Vì BKT muốn hoàn tất sớm để cung đón đức Đạt Lai Lạt Ma cho mọi người có chỗ đậu xe. Đức Đạt lai Lạt Ma đến thăm viếng và làm lễ cầu nguyện ở chùa vào ngày 10.6.2011.

Về phần chi phí cho tổng công trình nầy là vào khoảng $630.000 (sáu trăm ba chục ngàn Úc kim). Đó là tính chung các thứ tiền chi phí như: Dời đất bị ô nhiễm, đào đất và đổ đá v.v... Nói chung mọi chi phí chùa phải trả toàn bộ. Có khi công ty phải ứng tiền trước và chùa hoàn trả lại sau. Nhờ vậy, mà công việc không bị đình trệ. Âu đó, cũng nhờ có Tùng và những anh em công nhân người Việt tận tình làm việc. Dù rằng, họ làm tính theo giờ giấc trả lương, nhưng các anh em nầy có khi họ làm ngoài giờ mà công ty đã quy định. Theo Tùng cho biết, là các anh em nầy cũng muốn giúp cho chùa sớm được hoàn thành.

Cung Đón đức Đạt Lai Lạt Ma

Như trên đã nói nhân chuyến công du Úc Châu của đức Đạt Lai Lạt ma thứ 14, nên Thượng Tọa Thích Phước Tấn thay mặt Hội và Chùa đạt thư cung thỉnh Ngài đến tham quan viếng thăm chùa. Đồng thời nhân đó, cung thỉnh Ngài cắt băng chúc mừng ngôi Đại Hùng Bảo Điện trước. Tuy đây không phải là buổi lễ chánh thức cắt băng khánh thành, nhưng vì muốn nhờ vào công đức chú nguyện của Ngài. Nhờ đó, mà mọi công việc Phật sự sẽ trở nên hanh thông suôn sẻ tốt đẹp hơn.

Sau khi nhận được tin Ngài đã hoan hỷ chấp thuận và gần đến ngày Ngài đến thăm viếng, mọi người ai nấy đều tỏ ra rất phấn khởi vui mừng. Họ về chùa cùng nhau cật lực chung sức làm việc bất kể giờ giấc ngày đêm. Vì mọi việc phải làm cho kịp đúng theo ngày giờ đã quy định cung đón Ngài. Từ việc sơn phết thếp vàng tượng Phật đấng Trung Tôn Thích Ca Mâu Ni, rồi đến thánh tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, cho đến việc thiết trí trang hoàng tranh ảnh và những việc làm linh tinh khác trong ngôi Bảo Điện. Tất cả mọi việc đều phải chuẩn bị thật chu đáo và phải làm ráo riết hoàn tất trước khi Ngài đến.

Riêng việc sơn phết trét keo thếp vàng tượng Phật và tượng Bồ tát Quan Thế Âm, phải nói đạt kỷ lục thời gian ngoài sự dự tính của mọi người. Vì theo dự định của Hòa Thượng Tông Trưởng Tổ Đình Phước Huệ và quý vị trong Ban Trị Sự là quyết định sẽ làm lễ khánh thành ngôi Đại Hùng Bảo Điện vào những ngày 14, 15, 16 tháng 10 dương lịch năm 2011, tức nhằm những ngày 18, 19, 20, tháng 9 âm lịch năm Tân Mão. Vì ngày 19 tháng 9 âm lịch là ngày lễ chánh thức vía đức Bồ Tát Quan Thế Âm. Cho nên Hòa Thượng quyết định lấy ngày nầy làm lễ khánh thành. Nếu theo thời gian quyết định nầy, thì có lẽ mọi việc cũng không đến đổi phải gấp rút lắm. Và nếu thế, thì mọi việc làm chắc chắn là sẽ chậm trễ hơn. Nhưng không ngờ khi hay tin đức Đạt Lai Lạt Ma đến viếng thăm và cầu nguyện, thì lòng người cũng như công việc lại có phần thay đổi khác hẳn. Ai nấy đều quyết tâm làm mọi công việc cho hoàn tất sớm hơn. Quả thật là nhờ vào đức độ cao cả của Ngài.

Phải nói, đây là một công lao đóng góp trực tiếp một cách nhiệt tình hăng say tích cực của một số chư Tăng Ni và một số quý Phật tử nam nữ. Về bên chư Tăng ngoài thầy Phước Nghĩa ra, còn có 3 thầy: Minh Thông, Phước Lạc, Phước Nhơn (ở Mỹ sang) từ Tổ Đình Phước Huệ xuống phụ giúp. Bên Ni, thì có Sư Cô người Úc Evans Catherine hướng dẫn chỉ cách thức cho mọi người về phương cách thếp vàng. Nhóm cư sĩ gồm có các Phật tử: Nguyễn Mạnh Hùng, Thúy Phượng, Tâm Kiên, Mỹ Phương, Chơn Đức Thanh, Hiếu Ngọc, Diệu Lượng 2 và Phan Cúc Hương. Đó là những vị tương đối có chút khéo tay, nên thầy trụ trì kêu gọi những vị đó phát tâm phụ lực. Được biết, người có tay nghề khéo léo trong lãnh vực chuyên môn thếp vàng nầy là ông Karl Eggert. Ông là một người thợ chánh hiện sinh sống ở Sydney. Ông đã được thầy trụ trì mời xuống để thếp vàng tượng Phật đấng Trung Tôn. Ngoài ra, một số những vị khác thì phụ lực công quả tiếp tay trong công việc nầy. Nhờ thế mà mọi việc đều được hoàn thành nhanh chóng.

Về việc chi phí trả tiền thù lao công thợ cũng như số tiền mua vàng chung hết cho ba tượng, tất cả là $37.000 (ba mươi bảy ngàn Úc kim), $11.000 (mười một ngàn Úc kim) trả cho công thợ và $26.000 (hai mươi sáu ngàn Úc kim) trả tiền mua vàng y 24 tính chung đặt mua qua ba đợt.

Được biết, việc làm nầy bắt đầu khởi công vào ngày 24.4.2011 cho đến khi hoàn tất là ngày 3.6.2011.

Ngoài việc trang trí sơn phết thếp vàng ra, còn phải di chuyển một khối đá khổng lồ trải dài ở phía trước chánh điện. Chung quanh chánh điện đều dọn dẹp sạch sẽ. Không những dọn dẹp thôi, mà còn phải trải đá nhỏ và tráng xi măng lối đi dẫn đến phía trước chánh điện. Phải chăng, đây cũng nhờ sự
thăm viếng và cầu nguyện của đức Đạt Lai Lạt Ma, mà mọi việc đã hoàn thành tốt đẹp sớm hơn dự định. Buổi lễ cung đón Ngài diễn ra thật vô cùng trang nghiêm và trọng
thể. Số lượng người tham dự diện kiến và nghe Ngài nói chuyện rất đông, chật cả chánh điện và hội trường. Những người nầy phải có vé mới được vào. Hàng rào an ninh trật tự rất chặt chẽ. Một số đông không vào được phải đứng ở bên ngoài.

Buổi sáng hôm đó khí trời tươi mát ấm áp, có nắng đẹp thật dễ chịu. Ngoài Ngài ra, còn có một số chư Tôn Đức Tăng Ni thuộc Nam Bắc Tông Phật Giáo và Tây Tạng. Nhờ vào ân đức lớn lao của Ngài mà mọi người nỗ lực tích cực làm việc không biết mệt mỏi. Quả đó là một duyên lành cho Chùa và cũng là một diễm phúc thật lớn lao cho quý đồng hương Phật tử tại tiểu bang nhà.

Vấn đề kinh phí và những nỗi khó khăn.

Theo Ban Kiến Thiết cho biết, tổng số kinh phí cho toàn bộ ngôi Đại Hùng Bảo Điện, tính chung có khoảng trên mười triệu Úc kim. Tuy nhiên, nếu chiết tính thì có hai kinh phí lớn: một là, kinh phí cho toàn bộ ngoại hình của cái building tính từ đất cát, nền móng, tường cột, sắt, cements v.v... thì phí tổn trên 5 triệu Úc kim. Hai là, kinh phí cho những dịch vụ (building services) đã được thiết kế và trang trí các thứ hệ thống vật dụng linh tinh khác bên trong, thì phí tổn có khoảng trên 5 triệu Úc kim. Năm triệu nầy là chưa tính những chi phí trả tiền lương cho kỹ sư và công thợ.

Xin đơn cử một vài dịch vụ và những hệ thống thiết kế tiêu biểu sau đây:

  • Chi phí cho hệ thống các loại cửa kiếng tốn khoảng $400.000 (bốn trăm ngàn Úc kim).
  • Những thiết bị vật dụng cho toàn khu nhà bếp phí tổn có khoảng $300.000 (ba trăm ngàn Úc kim).
  • Chi dụng cho toàn bộ những sàn nhà và các cầu thang là $400.000 (bốn trăm ngàn Úc kim).
  • Chi phí cho toàn bộ hệ thống cứu hỏa khoảng $400.000 (bốn trăm ngàn Úc kim).
  • Toàn bộ hệ thống điện là $500.000 (năm trăm ngàn Úc kim).
  • Chi phí cho hai thang máy khoảng trên $200.000 Úc kim (hai trăm ngàn Úc kim).
  • Chi phí cho bãi đậu xe $630.000 (sáu trăm ba chục ngàn Úc kim)
  • Chi phí cho sơn phết thếp vàng tượng Phật và 2 vị đại Bồ Tát Quán Âm và Địa Tạng $37.000 (ba mươi bảy ngàn Úc kim)

Ngoài ra, còn phải chi phí cho nhiều thứ linh tinh máy móc vật dụng khác như là những hệ thống: gas, air-condition, heater v.v... phần nào cũng phải phí tổn từ cả trăm ngàn trở lên.

Khi hỏi đến những vấn đề khó khăn kể từ khi bắt đầu xây dựng ngôi Đại Hùng Bảo Điện cho đến khi hoàn thành, thì Thượng Tọa Thích Phước Tấn cho biết những khó khăn đại khái như sau:

- "Nếu nói khó khăn, thì phải nói khó khăn qua từng giai đoạn một. Suốt trong công trình xây cất, hầu hết giai đoạn nào BKT cũng phải đương đầu gặp một vài khó khăn trở ngại cả. Còn nói đến cái khó khăn vượt trội hơn hết, thì phải nói cái khó khăn lớn nhứt là mái ngói. Đây là cái khó khăn gây

trở ngại đáng kể mà mọi người phải điên đầu mất ăn mất ngủ vì nó". (Phần khó khăn nầy như đã được trình bày rõ trong phần nói về mái ngói). Nếu nói một cách nghiêm khắc, thì bất cứ một khó khăn nào trong công trình nầy, nó cũng có khả năng gây ra sự trở ngại và đình trệ cả.

Thầy nói thêm: "nói chung, những cái khó khăn mà người ta lo sợ nhứt là khi gặp phải trong vấn đề xây cất. Điều nầy, có thể nói, suốt cả công trình xây cất của mình, hầu hết mình đều gặp phải và đương đầu đối phó rất khổ sở vất vả với những cái khó khăn nan giải nầy. Thầy đơn cử ra một vài thí dụ điển hình tiêu biểu như sau:

  • Trước hết, phải nói cái khó khăn ban đầu là vấn đề xin giấy phép quy hoạch (planning permit) với council. Bởi vùng đất nầy nó có nhiều điểm bất lợi mà council thật khó có thể chấp nhận cho mình xây một cái building cao.
  • Thứ nhứt, đây là vùng đất cao lại gần phi trường mà mình xây tòa nhà cao, nên council phải duyệt xét cân nhắc rất kỹ lưỡng.
  • Thứ hai, là gần dòng sông cũng rất trở ngại. Ngoài ra, còn nhiều cái khó khăn khác nữa. Council bắt buộc mình phải vẽ cho đúng, chỉ cần mình vẽ sai một ly trên bản vẽ cũng không được. Đương nhiên, họ cũng bắt buộc mình phải điều chỉnh sửa lại cho đúng. Mặc dù họ cũng đã nhiệt tâm ủng hộ mình, nhưng trên nguyên tắc là phải như thế. Nếu trường hợp xây cất gặp phải nằm trên ống cống thoát nước, thì bắt buộc mình phải dời ống thoát nước đó đi nơi khác. Đây cũng là cái khó khăn mà mình cũng đã gặp phải.
  • Người ta sợ nhứt khi đào móng sẽ gặp đá, thì mình cũng đã gặp đá và phải đào gọt xuống một thước để lấy đá.
  • Người ta sợ nhứt là đất bị ô nhiễm, thì mình cũng bị vướng vào. Khi thử đất đã gặp phải đất bị ô nhiễm ngay từ lúc khởi đầu, rồi cho đến khi đào móng được phân nửa, thì mình lại gặp rắc rối về việc nầy. Thế là bắt buộc phải dời khối đất bị ô nhiễm đó đi. Điều nầy mình cũng đã phải tốn kém khá nhiều tiền.
  • Người ta sợ nhứt là xây cái building khá cao, điều nầy mình cũng đã gặp phải.
  • Người ta lo sợ văn phòng kiến trúc không đủ nhân sự cung cấp các bản vẽ chi tiết hoặc thay đổi những chi tiết theo yêu cầu của thợ. Bởi thế, nên khi thực hiện gặp nhiều trở ngại chờ đợi lẫn nhau. Vấn đế nầy mình cũng đã gặp phải.
  • Người ta sợ gặp những người thi công không có tay nghề kinh nghiệm, điều nầy quả thật, mình cũng đã bị rơi vào tình huống khó xử nầy. Vì mái ngói cong bằng thép dầy, không nằm trong công thức phổ thông tại Úc.
  • Người ta lo sợ nhứt khi công trình đang xây cất mà bị thiếu hụt tài chánh nửa chừng. Nếu thế, thì mọi công việc sẽ bị ngưng trệ đình đốn ngay. Rất tiếc, điều nầy mình cũng đã bị lâm vào. Lâm vào một cách thật là thất điên bát đảo tấn thối lưỡng nan. Bởi vì lúc đó gặp phải ách nạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nên hai ngân hàng trước kia hứa cho mình mượn bây giờ họ từ chối không cho mình vay. Thật là cay đắng!
  • Người ta lo sợ nhứt là khi công trình đang xúc tiến xây cất mà gặp phải tình trạng nền kinh tế suy thoái khủng hoảng toàn cầu. Nếu thế, thì rất khó vay tiền ngân hàng. Điều nầy mình cũng đã bị hụt hẩng chới với thật là một tai họa xảy đến không ai có thể lường trước được.
  • Trong khi công trình đang tiến hành, người ta sợ nhứt là vật giá leo thang. Phải nói điều lo sợ nhứt là giá sắt lên cao. Điều nầy công trình của mình cũng đã gặp phải. Giá sắt nhảy vọt không thể nào tưởng tượng nổi. Thế là, mình cũng phải nhảy vọt theo, chi dụng tốn một số tiền khá lớn cho kinh phí mua sắt nầy, mà nhà thầu làm xưởng thép xin rút lui.

Nói tắt một lời, là những cái gì mà người ta lo sợ khó khăn nhất trong lãnh vực chuyên môn xây cất, thì công trình thực hiện của mình đều đương đầu gặp phải khó khăn hết. Đó là những cái khó khăn trở ngại chung, kể từ khi mới bắt đầu khởi công xây cất cho đến khi hoàn tất. Phải thành thật mà nói, công trình nầy đã phải trải qua không biết bao nhiêu là khó khăn cay đắng thiên nan vạn nan mới có được như thế nầy. Tôi nghĩ rằng, thực hiện một công trình lớn lao như thế nầy, nếu như không có sức thầm gia hộ của Tam Bảo, thì chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào thành công được".

Khi đề cập đến cái khó khăn trong vấn đề điều hành công việc, thì thầy cho biết: "vấn đề nầy tất nhiên mình không thể nào tránh khỏi. Nhất là sự va chạm bất hòa trong khi các anh em thi hành nhiệm vụ. Vì công việc của mình không phải chỉ đơn thuần có một mà nó có nhiều dạng thức khác nhau. Do đó, nên không sao tránh khỏi sự đụng chạm nho nhỏ gây ra làm mất lòng với nhau. Tuy nhiên, đâu rồi cũng vào đó. Mọi việc cũng đều được giải quyết êm xuôi ổn thỏa. Được thế, cũng nhờ ai nấy đều ý thức đến vai trò bổn phận trách nhiệm của mình. Cuối cùng, mọi người cũng đều hài hòa thông cảm vui vẻ. Đó cũng là điều thật đáng vui mừng".

Thầy nói tiếp: "điều mà tôi lo nhất là vấn đề an toàn lao động. Đây cũng là điều khó khăn cho người có trách nhiệm trông coi bảo quản về vấn đề nầy. Vì phải chịu áp lực búa rìu từ hai phía: Chánh quyền và công thợ. Mình phải chịu áp lực nặng nề của chánh quyền. Vì chánh quyền lúc nào họ cũng quan tâm theo dõi đến vấn đề bảo vệ an toàn lao động.

Về phía công đoàn, họ cũng gây ra khó dễ tạo áp lực nặng nề với mình. Nếu mình không tuân hành đúng theo luật lệ an toàn lao động, thì bắt buộc họ phải dùng biện pháp áp chế ra lệnh đình chỉ công việc của mình ngay. Đó là chưa kể đến cái nỗi khó khăn về vấn đề tiền bạc để trả lương cho thợ thầy. Nếu mình có đủ tiền bạc chi dụng trang trải cho họ, thì điều đó không có gì là khó khăn trở ngại cả. Nhưng khổ nỗi, mình không có đủ tiền để chi phí liên tục trả lương cho họ. Vì ai làm cũng phải cần đến tiền bạc để tiêu xài. Do đó, mà mình cũng phải bị chậm trễ đình trệ trong công việc.

Bất cứ việc làm nào dù nhỏ hay lớn khi đã có chung đụng với nhau, thì ít nhiều gì cũng không sao tránh khỏi sự vui buồn. Nói chi đến một công trình to lớn như thế nầy, thì thử hỏi làm sao chúng ta tránh khỏi chuyện đó? Tuy nhiên, điều mà tôi rất vui mừng là khi nhìn thấy các anh em làm công quả rất sốt sắng năng nổ tích cực trong công việc góp sức chung nầy.

Trước khi kết thúc, thầy nói với một nụ cười vui vẻ biểu hiện trên môi, theo tôi, nhìn chung cái phương án của mình từ đầu đến cuối mà mình đã chọn, thì dĩ nhiên nó cũng có cái khuyết điểm và có cái ưu điểm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm cho thấy, thì chúng ta gặp nhiều khuyết điểm hơn là ưu điểm. Đây cũng là một bài học rút ra từ kinh nghiệm của một công trình lớn lao xây dựng cái ngôi Đại Hùng Bảo Điện vĩ đại nầy".

Chuẩn Bị Tổ Chức Đại Lễ Khánh Thành

Trải bao nhiêu năm tháng mỏi mòn chờ đợi, hôm nay mới có được ngày nầy. Sau khi nghe quyết định tổ chức ngày đại lễ khánh thành ngôi Đại Hùng Bảo Điện Quang Minh, lòng người Phật tử ai nấy đều hân hoan náo nức rộn lên như mở hội. Đó là tâm trạng chung của người con Phật. Nhất là đối với chư Tăng Ni và quý đồng hương Phật tử ở tiểu bang nhà. Một sự thành tựu vẻ vang ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Người vui mừng nhứt phải nói là Hòa Thượng và Thượng Tọa trụ trì Thích Phước Tấn. Vui mừng là vì thấy một thành quả đạt được, mà nó đã phải trải qua biết bao gian lao cay đắng cực nhọc, thật là thiên nan vạn nan và tràn đầy thử thách. Vì thế, nên Hòa Thượng và Thầy trụ trì không thể kéo dài thời gian hơn nữa. Nên quyết định chọn ngày lễ vía đức Bồ Tát Quán Thế Âm 19 tháng 9 âm lịch năm Tân Mão để làm lễ Khánh Tán Lạc Thành.

Trải qua bao lần hội họp để thảo luận vạch ra chương trình chuẩn bị cho ngày đại lễ. Vì đây là ngày rất quan trọng đánh giá cả một công trình vĩ đại vượt qua bao chướng duyên trở ngại khó khăn, nhất là phần đóng góp công sức cũng như tài lực và vật lực của mọi người.

Trong một buổi họp của Ban Trị Sự vào lúc 4 giờ chiều thứ bảy ngày 20.8.2011, tại phòng khách chùa Quang Minh. Mục đích của buổi họp là để thảo luận qua nhiều vấn đề chung quanh chuẩn bị cho ngày đại lễ. Vì muốn cho mọi người, mọi giới, mọi thành phần địa vị khác nhau trong xã hội, biết qua và chung vui trong ngày lễ hội vui mừng lớn, nên Ban Tổ Chức quyết định đạt thư mời rất rộng rãi. Những vị được mời tham dự, đủ mọi thành phần khác nhau từ chư Tôn Giáo Phẩm Tăng Ni trong và ngoài nước, các tôn giáo bạn, các cấp chánh quyền liên bang và tiểu bang, quý quan khách Úc Việt, cho đến các hội đoàn, đoàn thể, các cơ quan truyền thông báo chí Úc Việt và quý ân nhân, quý Phật tử xa gần các nơi. Do đó, nên cần phải có sự chuẩn bị thật chu đáo qua mọi lãnh vực công việc khác nhau.

Từ việc thành lập Ban Tổ Chức cho đến những công việc quan trọng liên quan đến vấn đề tổ chức. Nhất là thành phần nhân sự cần biết rõ khả năng cũng như tinh thần phục vụ đại chúng để đề cử cho thích hợp đúng người, đúng việc.

Trong buổi họp nầy, dưới sự chứng minh của Hòa Thượng Tông Trưởng Thích Phước Huệ. Chủ Tọa là Thượng Tọa Thích Phước Tấn. Thơ ký ghi biên bản là đạo hữu Minh Hiển Nguyễn Văn Hiếu. Sau khi bàn thảo và đề cử, kết quả hình thành một Ban Tổ Chức và thành phần nhân sự của các tiểu ban đại biểu như sau:

BAN TỔ CHỨC ĐẠI LỄ KHÁNH TÁN LẠC THÀNH ĐẠI HÙNG BẢO ĐIỆN QUANG MINH

Chứng Minh, Chỉ Đạo và Sám Chủ Gia Trì: Hòa Thượng trưởng lão thượng Phước hạ Huệ OAM.

  • Trưởng Ban: Thượng Tọa Thích Phước Tấn OAM.
  • Phó Ban: Đạo hữu Minh Chiếu Nguyễn Văn Gấm, Đạo hữu Minh Hiển Nguyễn Văn Hiếu.
  • Tổng Thơ Ký: Đại Đức Thích Phước Thái.
  • Phụ Tá Tổng Thơ Ký: Đạo hữu Chí Bảo Hoàng Trung Châu, Đạo hữu Trí Lạc Hồ Văn Thùy, Đạo hữu Tony Lê Nguyễn, Đạo hữu Lệ Tâm Trần Thị Thanh, Đạo hữu Thúy Phượng Đạo hữu Tâm Kiên, Đạo hữu Thiện Minh, Đạo hữu Hà Tâm Thanh, Đạo hữu Mỹ Phương, Đạo hữu Mỹ Lộc, Đạo hữu Huệ Tịnh.
  • Thủ Quỹ: Đạo hữu Tâm Huệ Lê Kim Thanh, Đạo hữu Huệ Tịnh Hồng Kim Hoa.

Thành Phần Các Tiểu Ban:

  • Tiểu Ban Nghi Lễ: Đại Đức Thích Phước Hựu, Đại Đức Thích Phước Viên, Đại Đức Thích Phước Thiền, Đại Đức Thích Phước Hoan, Đại Đức Thích Phước Nghĩa, Đại Đức Thích Phước Đạo.
  • Tiểu Ban Tri Chung: Đại Đức Thích Phước Thiền.
  • Tiểu Ban Chung Cổ: Đạo hữu Minh Hoàng Diệp Khôi, Đạo hữu Quảng Thọ, Đạo hữu Tâm Hải.
  • Tiểu Ban Tiếp Tân Úc Việt: Đạo hữu Minh Chiếu Nguyễn V. Gấm, Đạo hữu Mỹ Lý, Đạo hữu Thiện Nhân Lê Thiện Phúc, Đạo hữu Trần Thanh Khâm, Đạo hữu Vưu Chí Dũng.
  • Tiểu Ban Trật Tự: Đạo hữu Nguyễn Văn Nhiêm, Đạo hữu Nguyễn Vi Văn, Đạo hữu Huỳnh Ngọc Minh.
  • Tiểu Ban Thị Giả: Đạo hữu Diệu Viên, Đạo hữu Chiếu Hoằng.
  • Tiểu Ban Trần Thiết: Đạo hữu Minh Nguyện. Đạo hữu Minh Thông. Đạo hữu Như Phẩm. Đạo hữu Huệ Hiền.
  • Tiểu Ban Thông Tin Báo Chí: Đạo hữu Thiện Nhân Lê Thiện Phúc, Đạo hữu Diệu Thông Đặng Ái Kiển, Đạo hữu Minh Quang Lê Điểm.
  • Xướng Ngôn Viên: Đạo hữu Mỹ Lý.
  • Tiểu Ban Cư Trú Vãng Lai: Đạo hữu Thiện Nhân Lê Thiện Phúc.
  • Tiểu Ban Hành Đường: Đạo hữu Diệu Tâm, Đạo hữu Tâm Hải, Đạo hữu Tâm Chiếu, Đạo hữu Tâm Hưng, Đạo hữu Hà Ngọc, Đạo hữu Diệu Thành, Đạo hữu Nguyên Nhật Huyền, Đạo hữu Tâm Nhã, Đạo hữu Viên Hòa, Đạo hữu Viên Hảo, Đạo hữu Nguyên Nhật Thiện, Đạo hữu Diệu Từ, Đạo hữu Quang Hương, Đạo hữu Quang Liễu, Đạo hữu Viên Như, Đạo hữu Viên Hướng, Đạo hữu Quang Huy, Đạo hữu Hoa Viên, Đạo hữu Diệu Liên1, Đạo hữu Tâm Liên, Đạo hữu Chơn Tâm Nhã, Đạo hữu Nguyên Thuận, Đạo hữu Diệu Sương, Đạo hữu Nguyên Chơn, Đạo hữu Thanh Tịnh.
  • Tiểu Ban Vận Chuyển: Đạo hữu Minh Hoàng Diệp Khôi, Đạo hữu Thiện Hồng, Gia Đình Phật Tử Đại Bi.
  • Tiểu Ban Trai Soạn & Ẩm Thực: Đạo hữu Tâm Sở, Đạo hữu Diệu Quang 4, Đạo hữu Chơn Thọ, Đạo hữu Chơn Đức Thanh, Đạo hữu Hiếu Ngọc, Đạo hữu Diệu Lượng 2, Đạo hữu Nguyên Nhật Tiến. Đạo hữu Chơn Nhã Thanh, Đạo hữu Diệu Lộc, Đạo hữu Cao Thị Dung, Đạo hữu Phan Cúc Hương, Đạo hữu Nguyên Lộc.
  • Tiểu Ban Phim Ảnh: Đạo hữu Thái Video, Đạo hữu Minh Giàu, Đạo hữu Nguyễn Nhung.
  • Tiểu Ban Vệ Sinh: Đạo hữu Diệu Hương 2, Đạo hữu Diệu Pháp 2, Đạo hữu Viên Thật, Đạo hữu Diệu Phước, Đạo hữu Viên Thành 2.
  • Tiểu Ban Trà Nước: Đạo hữu Chiếu Xuân, Đạo hữu Chí Phước, Đạo hữu Tâm Thiện, Đạo hữu Viên Hảo, Đạo hữu Lệ Phượng,
  • Tiểu Ban Điều Hợp: Thượng Tọa Thích Phước Tấn, Đại Đức Thích Phước Thái.
  • Tiểu Ban Âm Thanh & Ánh Sáng: Đạo hữu Tony Lê Nguyễn, Đạo hữu Mỹ Phương.
  • Tiểu Ban Trang Trí: Sư Cô Phước Chơn. Sư Cô Phước Đức, Đạo hữu Minh Nguyện. Đạo hữu Nguyệt Diệu. Đạo hữu Nguyên Kính.
  • Tiểu Ban Gian Hàng & Trò Chơi: Đạo hữu Mã Bình, Đạo hữu Phong Phạm, Đạo hữu Nguyễn Duy Phong.
  • Tiểu Ban Văn Nghệ: Đạo hữu Nguyễn Hồng Ký, Đạo hữu Túy Hồng.
  • Tiểu Ban Phát Hành Kinh Sách & Băng Đĩa: Đạo hữu Tâm Hoàng, Đạo hữu Trí Anh, Đạo hữu Huệ Lan.
  • Tiểu Ban Sắp Bồ Đoàn: Đạo hữu Minh Nguyện. Đạo hữu Như Phẩm. Đạo hữu Huệ Hiền. Minh Thông.
  • Tiểu Ban Y Tế: Bác Sĩ Phạm Phúc Nhân

Những nhân sự trên đây một số đã được đề cử ngay trong buổi họp và một số quý vị khác thì được mời vào phụ lực ở trong các ban. Những vị được mời vào tất cả đều hoan hỷ. Tuy nhiên, những vị có danh sách trên chỉ là tiêu biểu thôi, ngoài ra, còn có nhiều vị khác được mời vào để phụ giúp. Có những ban phải cần đến nhiều người trợ lực. Như các ban: Nghi Lễ, Tiếp Tân, Trai Soạn, Ẩm thực và Hành Đường v.v...

Lẽ ra, chúng tôi sẽ ghi hết danh sách của các ban viên trong mỗi ban, nhưng vì thời gian quá cấp bách cần phải đem in quyển sách nầy cho kịp phát hành ấn tặng trong ngày đại lễ khánh thành, do đó, nên chúng tôi không thể nào chờ đợi được nữa. Vì vậy, nên chúng tôi chỉ ghi được ngần ấy danh sách thôi. Nếu quý vị nào được mời vào danh sách phụ lực trong các ban sau nầy, kính mong quý vị niệm tình thứ lỗi thông cảm và hỷ xả cho. Vì đây quả là một việc làm ngoài ý muốn của chúng tôi. Chúng tôi xin chân thành cáo lỗi quý vị trước.

Chương Trình Đại Lễ Khánh Tán Lạc Thành Đại Hùng Bảo Điện Quang Minh.

Thứ Sáu ngày 14/10/ 2011 (nhằm ngày 18 tháng 9 năm Tân Mão)
Buổi Sáng:
9.00 : AM : Chư Phật tử tề tựu.
10.00: AM : Tụng Phẩm Phổ Môn và luân phiên niệm Thánh Hiệu Quán Âm.
11. 30 AM : Cúng Ngọ.
12.00 : Thọ Trai – Kinh hành - Niệm Phật.
Buổi Chiều:
2.30 PM : Thuyết pháp.
4. 00 PM: Niêm hương - Khai Kinh bạch Phật – Khai chung bảng
5.00 PM : Dược thạch.
6.00 PM: Tụng Phẩm Phổ Môn.
8.00 PM: Lễ hoa đăng.
10.30 PM: Chỉ tịnh.

Thứ Bảy ngày 15/10/ 2011/ (nhằm ngày 19 tháng 9 năm Tân Mão)
Buổi Sáng:
4.30 AM : Thức chúng.
5.00 AM: Nghe chuông niệm Phật.
5.30 AM: Công phu & Rước Vía.
7.30 AM: Tảo Thực.
9.00 Tụng Phẩm Phổ Môn
10.00: Kiết giới tràng Đại giới. (Lễ Trấn trạch)
11.30 : Khai quang an vị Phật.
12.30: Trai Tăng
Buổi Chiều
2.30: Truyền Tam Quy & ngũ giới.
3.30: Thuyết pháp.
5.00: Dược thạch.
6.30: Khóa lễ Tịnh Độ.
7.30: Đàn Bồ Tát Giới.
8.30. Thuyết pháp.
10.00: Chỉ tịnh.

Chủ Nhật 16/10/2011 (nhằm ngày 20 tháng 9 năm Tân Mão)
4.30: Thức chúng.
5.00: Công phu khuya.
7.00: Tảo thực (tại hội trường Quán Tự Tại)
9.00: Thuyết pháp.
10.30: Đại lễ khánh thành (có chương trình riêng)

  • Gắn bảng đồng lưu niệm (phía trước chánh điện)
  • Nhiếp ảnh lưu niệm.

12.30: Thọ trai
2.00: Chương trình đại nhạc hội.
4.00: Chẩn tế cô hồn.
Lễ hội gian hàng và các trò chơi bắt đầu từ 10 giờ sáng cho đến tối.
Hoàn mãn

ĐÔI LỜI BỘC BẠCH TÂM SỰ THAY LỜI KẾT

Trải rộng tấm lòng ghi lại đôi nét về một ngôi chùa lịch sử quy mô vĩ đại của Phật Giáo Việt Nam có mặt tại Úc nói chung và tiểu bang Victoria nói riêng. Đó là kết quả của bao tâm huyết đã trải dài theo năm tháng. Ngôi chùa, không những là một biểu tượng thiêng liêng về mặt tôn giáo, mà nó còn là cái nôi hun đúc nuôi dưỡng phát triển đời sống tâm linh.

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc hiền hòa không hiếu chiến, nhưng gặp việc bất bình có nguy cơ cho sự tồn vong của dân tộc, thì mọi người như một anh dũng quyết chí hiên ngang đứng lên dám hy sinh xả thân quên mình vì đại nghĩa. Đó là gì? Nếu không nhờ sự hun đúc nuôi dưỡng lớn mạnh theo tinh thần "Bi, Trí, Dũng" của đạo Phật, thì làm gì có sự hy sinh cao cả đó. Nói thế để thấy rằng, tiềm năng lực dụng của một ngôi chùa nó có một sức mạnh vô hình duy trì và giữ vững được tinh thần dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử.

Từ trong suốt một ngàn năm tù đày nô lệ tối tăm của thời Bắc thuộc, dân tộc ta đã bao lần anh dũng hùng tráng vươn lên chống lại đánh đuổi giặc ngoại xâm. Dù chết, nhưng không bao giờ chịu đầu hàng khuất phục. Lịch sử dân tộc đã chảy dài hơn 2000 năm hiện diện trên quê hương đã trải qua không biết bao lần thăng trầm, thạnh suy, vinh nhục. Nhưng mỗi lần gục ngã là mỗi lần rèn luyện thêm ý chí phấn đấu kinh nghiệm và rút ra từ những bài học xương máu để cương quyết hùng tráng đứng lên để rửa nhục phục hồi lại quê hương.

Đạo Phật và Dân Tộc Việt Nam hòa quyện với nhau như nước với sữa, luôn luôn hợp nhất thành một tổng thể bất khả phân ly. Tinh thần vô ngã hay Thiền Phật giáo là chất keo nuôi lớn đức hỷ xả, hy sinh, bao dung. Một dân tộc dù đã bị trị, nhưng vẫn khéo biết thích nghi với mọi hoàn cảnh để sinh tồn. Đánh đuổi nhưng không phá hoại, đương đầu tranh đấu quyết liệt sống còn, nhưng không thù hận nuôi dưỡng trả thù. Vì có nhiều bài học thực tế cho chúng ta thấy, hận thù mà muốn tìm mọi phương cách để tiêu diệt hận thù, thì hận thù kia chẳng những không tiêu diệt được mà nó lại càng chồng chất sâu dày thêm. Vì dân tộc ta rất tôn trọng đức hiếu sinh của con người và muôn loài.

Dù đã chống lại quân phương Bắc xâm lược, đã bao lần rửa nhục không thẹn với tổ tiên, với hồn thiêng sông núi, nhưng không vì thế mà dân tộc ta lại cao ngạo nuôi lớn hận thù. Đó là nhờ ảnh hưởng đức hỷ xả bao dung tha thứ rút ra từ bài học thấm nhuần " Từ Bi, Vị Tha và vô ngã " của Phật giáo. Sở dĩ được như thế, nguyên ủy của nó cũng nhờ phát xuất từ nơi cửa Thiền.

Thế nên, ngôi chùa đúng nghĩa của nó phải là một sức sống lớn mạnh về mọi mặt. Trên hết vẫn là lấy việc tu học hoằng dương Phật pháp làm phương châm tiến thủ. Đó là gốc rễ, là mạch ngầm nuôi lớn và duy trì được mạng mạch của Phật Pháp lâu dài. Thiếu yếu tố tu học ra hồn, thì dù cho ngôi chùa đó có cao lớn đẹp đẽ uy nghiêm hùng tráng

tới đâu, đó cũng chỉ là một cái vỏ rỗng tuếch vô bổ mà thôi!

Nói cách khác cụ thể hơn, Nếu không có sự tu học cắm sâu vào gốc rễ tâm linh, hướng thiện cải hóa lòng người, thì ngôi chùa đó, dù cho có hùng vĩ nguy nga tráng lệ đến đâu, nó cũng sẽ trở thành một trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng hời hợt ngoài da, một môi trường giao tiếp theo kiểu của một xã hội cứu tế cấp dưỡng qua lại hạn hẹp nhứt thời, thiếu kích thước chiều sâu tâm linh, thì khó có khả năng tồn tại lâu dài.

Đối với xã hội hiện tại, không ai có thể phủ nhận tinh thần nhập thế của đạo Phật. Mà ngôi chùa là một biểu tượng, là một cái nôi, là môi trường thuận lợi nhằm phục vụ cho tinh thần nhập thế đó. Nhưng đạo Phật nhập thế không có nghĩa là bị biến thể mất chất. Mà nó mang một ý nghĩa sâu sắc là tùy duyên nhưng lại bất biến. Đó là tinh thần hướng thượng cốt lõi của đạo Phật. Mất đi tính chất đặc thù này, thì không còn là đạo Phật nữa.

Thiết nghĩ, chúng ta cũng cần minh định đúng hướng nội tại và ngoại tại của nó. Ngoại tại chỉ là tùy duyên theo trào lưu xu thế thời đại, mang tính khế cơ nhứt thời, nhưng nội tại muốn được vững chắc bền bỉ lâu dài, vẫn phải hướng lòng cắm rễ sâu vào việc chuyển hóa nội tâm, tạo cách thế cho đời sống nội tâm phong phú, đó mới thực sự là có khế lý.

Đó là một con đường rộng lớn thênh thang mà ngôi chùa phải có đủ tầm vóc hướng dẫn mọi người trong tinh thần hướng thượng vị tha cao đẹp đó. Vì đó là con đường mà khi người Phật tử bước chân vào cổng chùa, thì cổng chùa đã dạy cho chúng ta bài học đó. Người Phật tử phải hằng trau dồi trí tuệ, phải có cái nhìn sắc bén thẩm thấu xuyên qua mọi hiện tượng. Không nên đặt mình dính mắc chết cứng trên mọi hiện tượng. Nếu thế, thì chúng ta sẽ bị những cơn sóng hiện tượng vật chất của thời đại cuốn phăng và nhận chìm tất cả. Bấy giờ nhìn lại, thân phận ta chỉ còn lại là cái xác chết không hồn mà thôi!

Xây dựng hình thành một ngôi chùa vĩ đại như thế này, nó tuy có sức lớn mạnh về phương tiện vật chất và cũng trải qua hết sức khó khăn mọi mặt mới thành tựu. Điều đó, đứng về mặt hiện tượng giới, hay tục đế mà nói, thì không một ai có thể phủ nhận được. Chẳng những không phủ nhận mà còn nhiệt liệt hoan hô tán dương công đức đóng góp chung của tất cả một cách tích cực hết mình.

Tuy nhiên, nếu đứng về mặt tâm linh theo lý duyên sinh vô ngã không chấp trước vụ lợi của Phật giáo, thì ta phải nhìn thấu suốt về tinh thần VÔ TƯỚNG của ngôi chùa. Có thế, thì ta mới mong duy trì và phát triển được cả hai: "ngôi chùa ngoại tại và ngôi chùa trong tâm thức của mỗi cá thể chúng ta". Chính xây dựng được ngôi chùa trong tâm thức, đó mới đủ thế đứng vươn lên trong đời sống đầy sóng gió phức tạp nhiễu nhương nghiệt ngã của thời đại. Đó là ngôi Đại Hùng Tam Bảo tự tâm mà mỗi người cần phải quay về nương tựa và khai phát.

Người Phật tử nên ý thức sâu sắc mọi phương tiện bên ngoài, chỉ có tác dụng để chúng ta nương đó mà thể hội lại cái khả năng Phật tánh vốn tiềm tàng sâu kín trong tàng thức của chúng ta. Đó là cả một kho tàng tuệ giác, mà chúng ta vì vô minh che lấp nên chưa khai phát triệt để đó thôi. Ngôi chùa có khả năng lực dụng hiện thể đánh thức cái

tuệ giác tiềm tàng sâu kín đó. Nếu chúng ta khéo biết lợi dụng xem đó như là một phương tiện sự tướng để chúng ta nương vào đó mà thiết thiệt tu học, hầu tìm lại cái chân tướng thực thể bản lai diện mục của chính mình. Đó là ý nghĩa của câu "Kiến sắc minh tâm" vậy.

Có ý thức như thế, thì việc tạo chùa hay đi chùa của chúng ta mới thực sự có ý nghĩa và mới thực sự được lợi lạc hạnh phúc. Đóng góp phục vụ cho chùa là một nghĩa cử cao đẹp quý giá, vì đó cũng là một sự hy sinh ít nhiều trong tinh thần vị tha vô kỷ. Điều đó, thật đáng nghiêng mình tán dương công đức. Nhưng nếu người Phật tử chỉ dừng lại ở đó, thì dù cho có đi chùa trải qua bao nhiêu năm đi nữa, thì chỉ có thêm được chút ít phước đức mà thôi. Tự nó không phát huy được cái nguồn tuệ giác sẵn có để khai sáng chiếu phá vô minh phiền não. Không phá tan được phiền não, mặc dù chưa được trọn vẹn, nhưng ít ra cũng có được an vui hạnh phúc phần nào ngay trong đời sống hiện thực này.

Đạo Phật là con đưòng sống, hay một nghệ thuật sống thực tế, nó có năng lực dẫn ta đi vào con đường tuệ giác siêu việt sáng ngời. Nếu đi lệch con đường chánh kiến này, không khéo chúng ta sẽ rơi vào con đường tà kiến. Một khi đã rơi vào con đường tà kiến rồi, thì than ôi! Chúng ta sẽ chuốc lấy muôn ngàn sự đau khổ. Như thế, thì việc tạo chùa hay đi chùa của chúng ta thử hỏi có được lợi ích gì không?!

Đến chùa, ta cần phải học hỏi để ta luôn trau dồi có được nguồn tuệ giác đó. Xin chân thành nhắc lại, việc xây chùa dù đã trải qua rất khó khăn, nhưng mọi người cũng có thể cương quyết vượt qua được. Nhưng sau khi hình thành, đó là giai đoạn đánh giá cao trong sự đóng góp tu học chuyển hóa của người Phật tử. Nếu sự đóng góp đó với một tinh thần đúng hướng theo tinh thần giác ngộ và giải thoát của đạo Phật, nghĩa là đúng theo tinh thần "Hành Xả", không thấy mình trong cái TA đóng góp đó, thì mọi việc sẽ đem lại cho chúng ta lợi ích rất lớn.Và chính đó mới thực sự là giai đoạn chứng minh đánh giá được tinh thần: " Hành nhi bất chấp, hay Vi nhi bất vi".

Làm mà tuyệt nhiên không thấy mình làm, tuy có công lao, nhưng tuyệt nhiên không chấp vào cái công lao của mình. Khéo biết ứng dụng cho cái công lao đó hòa tan trong đại thể, đem lại nguồn sống cao đẹp cho mọi người, đó là tinh thần phá ngã tướng không còn có cái ta riêng biệt nữa. Đó là ý nghĩa thực dụng trồng rau mà không cho mọc rễ, đúng theo tinh thần giáo huấn nghiêm túc của Thiền Sư Dược Sơn Duy Nghiễm. Đây là bài học mà Thiền Sư đã dạy cho Thầy tri viên khéo biết ứng dụng tinh thần "vô ngã, vô trụ, vô tướng" của đạo Phật.

Bởi vì, hơn ai hết, người Phật tử nên tự ý thức rằng, cõi đời này là vô thường, mọi hiện tượng đều sinh diệt, diệt sinh. Bám vào cái sinh diệt, thì thử hỏi rốt lại, chúng ta có được lợi lộc gì không? Hay chỉ chuốc lấy thêm đau khổ cho mình và tha nhân! Tranh chấp phải trái hơn thua với nhau để làm gì? cuối cùng, rồi ra, ai cũng chỉ là: "những bọt nước trôi sông, lầu sò chợ bể", có khác nào như những hạt sương rơi trên đầu ngọn cỏ, tan biến bất thường. Con người sống chết như trở bàn tay, sớm thấy còn năng nổ hoạt động, chiều lại hóa ra người thiên cổ không hay! Cuộc đời mong manh giả dối, vô thường như điện chớp, như lằn nước vẽ, như đèn treo trước gió, giống như con phù du hay như cá cạn nước, nào có dài lâu!

Nếu chúng ta có cặp mắt nhìn đời như thế, thì mọi tranh chấp nhị nguyên, đối với chúng ta chỉ là trò đùa huyễn ảo. Thật vậy, hơn thua với nhau chỉ là trò đùa, khác nào chúng ta đùa giỡn với những cái bóng trong gương, hay mò trăng dưới nước và như thế, thì thật là uổng phí cho kiếp sống làm người, có khác gì là một lữ khách phong trần lang thang không định hướng!

Giai đoạn đồng tâm hiệp lực kiến tạo hình thành cho một công trình lớn lao đã qua rồi, bây giờ là bước sang giai đoạn mà tất cả chúng ta phải ý thức đồng tâm hiệp lực duy trì và phát triển. Muốn thế, thì mỗi người cần phải thể hiện tinh thần đoàn kết hòa hợp yêu thương gắn bó lẫn nhau. Nếu thiếu chất keo hòa hợp yêu thương này, thì mọi việc sẽ đổ vỡ tan tành như đống gạch vụn.

Bởi có nhiều bài học lịch sử ở đời cho chúng ta thấy, người ta chỉ hy sinh gắn bó đồng tâm thương yêu nhau, là vì người ta chưa có quyền lợi và danh vọng riêng tư. Nhưng khi đạt thành mục đích rồi, thì chừng đó người ta mới có sự tranh chấp đấu đá cấu xé tàn sát lẫn nhau, gây ra bao cảnh tang thương hệ lụy đổ vỡ. Xưa kia là bạn chí thân, nay trở thành kẻ thù bất cộng đái thiên. Đừng nói đâu xa, ngay trong gia đình ruột thịt máu mủ cũng thế. Cho nên, muốn bảo trì và phát triển đường hướng phục vụ tốt đẹp cho mình và tha nhân, chỉ có một cách duy nhất là mỗi cá thể phải hằng tự tỉnh thức quán chiếu sâu vào nội tại để loại trừ những ý tưởng xấu xa đen tối làm băng hoại ung thối hại mình và hại người. Phải diệt trừ tận gốc rễ ba thứ độc tố: "Tham, sân, Si". Vì chính nó là nguyên nhân gây ra bao nỗi khổ đau thù hận và làm tan hoại mất hết ý nghĩa trong sáng của tình người.

Đó là yếu tố duy nhất để chúng ta xây dựng giá trị đạo đức tâm linh cá nhân, gia đình và xã hội. Nói rộng ra, nếu chúng ta muốn bảo tồn văn hóa dân tộc và những giá trị thiêng liêng tốt đẹp khác, thì trước hết là mỗi người chúng ta cần phải nỗ lực tự tu tỉnh. Phải thanh tịnh hóa thân tâm, hằng trau dồi đạo đức nhân bản. Vì tâm có an ổn, thì mọi việc mới được an bình. Ngược lại, nếu tâm ta xáo trộn loạn động bất an, thì mọi việc đều theo đó mà điên đảo thác loạn cả. Đó là yếu lý của sự sống. Không có con đường nào khác, ngoài con đường phục hồi lại con người chân thật thánh thiện của chính mình. Đó mới đích thực là hướng tiến tốt đẹp nhứt. Mất đi yếu tố này, thì mọi việc làm của chúng ta chỉ là hoài công vô ích mà thôi!

Những tỵ hiềm tranh chấp so đo tính toán hơn thua, đó chỉ là làm khổ đau thêm cho nhau mà thôi. Ý niệm công thần là ý niệm mà hiện tướng của nó là ngã mạn cống cao, khinh người dưới mắt. Ý niệm đó cần phải tiêu diệt khi nó nẩy mầm từ trong trứng nước. Trong đạo Phật tối kỵ nhất là chấp ngã. Vì chấp ngã là nguồn gốc của mọi khổ đau. Người Phật tử Phật dạy không nên có lòng ngã mạn khinh người. Càng hạ thấp mình xuống chừng nào, thì sẽ được mọi người kính mến yêu thương mình nhiều chừng nấy.

Lịch sử đã chứng minh, kẻ nào có lòng tự cao, tự đại, là kẻ đó sẽ bị mọi người chán ghét từ bỏ và rồi, chính họ sẽ tự chuốc họa hại vào thân! Thế nên, đạo Phật dạy ta phải mở rộng cõi lòng buông xả để sống hòa mình trong tinh thần vị tha bình đẳng để cùng nhau phục vụ lợi ích chung cho đại thể. Được thế, là chính ta mới thực sự biết thương ta và tự cứu lấy đời ta thoát khỏi những khổ đau triền phược trong vòng trầm luân sa đọa.

Tất cả những điều trình bày trên đây, xin quý độc giả Phật tử xem đây là những lời ngây ngô vụng về bộc bạch tâm sự, của kẻ quê mùa, chỉ với một tấm lòng và một mục đích duy nhất là nhằm để tự soi sáng cho mình cũng như những ai có nhân duyên với mình cùng nắm lấy tay nhau tiến thẳng trên lộ trình hướng về ngôi nhà Bảo Sở.

Những gì trình bày trong tập sách nhỏ này, chỉ với một tấm lòng muốn cho mọi người biết được một quá trình xây dựng cực kỳ khó khăn mới tựu thành. Đó là kết quả của biết bao mồ hôi và tâm huyết của nhiều người. Họ là những người đã cật lực vất vả dù ở bất cứ thành phần nào, tất cả cũng đã hết lòng nhiệt tâm đóng góp.

Vẫn biết sự ghi chép của chúng tôi không thể nào nói hết được tấm lòng trung kiên quý giá của quý vị hướng lòng về Tam Bảo. Và chúng tôi cũng vẫn biết sự ghi chép của chúng tôi còn vụng về non kém về mặt ý tưởng cũng như cách hành văn, vì chúng tôi không phải là một nhà văn chuyên nghiệp, nên dĩ nhiên, sẽ còn thiếu sót rất nhiều. Như trong lời "Giao Cảm", chúng tôi có thưa, là chúng tôi không thể nào ghi hết những chi tiết được. Việc làm của chúng tôi chỉ là lót nền sơ sài để rồi sau nầy sẽ có những người lưu tâm nghiên cứu viết đầy đủ và hoàn thành lịch sử ngôi chùa Quang Minh hay hơn chúng tôi. Mong tất cả quý vị thương tình thứ lỗi cảm thông mà bỏ qua cho những sự thiếu sót đó.

Qua những lời bộc bạch chân tình mộc mạc trong phần tạm kết này, thật chúng tôi không dám có cái ý cao vọng là đem trống đánh trước cửa nhà sấm, hay múa rìu qua mắt thợ. Nói rõ và nghiêm khắc hơn là chúng tôi không dám có cái cao ý lên mặt dạy đời. Mà đây chỉ là những lời chơn chất thật thà trao đổi chân tình nhằm tự thức nhắc mình nhiều hơn. Nếu có điều gì không hay, hay có những điều gì lầm lẫn trong khi ghi chép, một lần nữa, cúi xin chư Tôn Đức và quý độc giả Phật tử hãy mở rộng cõi lòng thương xót mà niệm tình thứ lỗi bỏ qua cho. Được vậy, thì soạn giả vô cùng biết ân và xin hết lòng bái tạ.

Và nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành tri ân những bậc thiện hữu tri thức đã ưu ái sẵn dành giúp đỡ cho chúng tôi bằng lời nói hoặc bằng những văn kiện hiện thực. Và trên hết, chúng con xin thành kính tri ân Hòa Thượng đã bỏ ra nhiều công sức để duyệt lại và bổ túc cho những điều còn thiếu sót. Đồng thời, chúng tôi cũng xin chân thành cám ơn quý thầy: Phước Quảng, Phước Lạc, Phước Viên và quý Sư cô Phước Thanh, Phước An đã tận tình giúp đỡ cho phần kỹ thuật trình bày cũng như sửa bản in. Và một lần nữa, chúng tôi cũng không quên tri ân tất cả quý ân nhân, quý đồng hương Phật tử nhất là quý liên hữu trong đạo tràng Quang Minh đã phát tâm hỷ cúng tịnh tài để góp phần vào việc ấn tống phổ biến tác phẩm nhỏ bé nầy.

Bằng vào tất cả tâm thành, xin tất cả hãy nhận nơi đây lòng biết ân sâu xa của chúng tôi. Nguyện đem công đức nầy hồi hướng cho pháp giới chúng sanh trọn thành Phật đạo.

Ghi xong ngày 3 tháng 9 năm 2011
(nhằm ngày 6 tháng 8 năm Tân Mão).

Trân Kính
Thích Phước Thái

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2014(Xem: 14118)
Ngôi Già lam Cổ tự Tabo là một Trung tâm Phật học cổ xưa cách đây hàng nghìn năm, còn được gọi là “Ajanta của Hy Mã lạp Sơn”, tọa lạc ở khu vực khô cằn lúc hè về và đông chí lạnh ở độ cao 3.050 mét và 375 km từ Shimla, nơi thung lũng sa mạc Spiti Valley ở bang Himachal Pradesh, miền Tây Bắc Ấn Độ.
23/08/2014(Xem: 7202)
Chùa Bảo Quang – ba mươi năm, một chặng đường. Tác giả: Michael den Hoet Chuyển ngữ: Thị Minh Phật Giáo Việt Nam tại Hamburg: Một nhận xét của một Trí Thức Phật Giáo người Đức. Bài phát biểu của Ông Michael den Hoet trong dịp lễ kỷ niệm „30 năm thành lập Chùa Bảo Quang“ vào ngày 02.08.2014 tại Hamburg.
22/08/2014(Xem: 18716)
Hơn ba mươi năm trời, vì vận nước, hàng triệu người Việt đã xa xứ và khi đã được ổn định ở xứ người, như đã hẹn, ai về nhà nấy. Nhà ở đây là tín ngưỡng, tư tưởng, chính kiến, văn hóa và dĩ nhiên là cả tình cảm. Con chiên tiếp tục thờ Chúa, Phật tử tiếp tục thờ Phật, kẻ mê cổ nhạc thì tiếp tục khoái vọng cổ, người mê tân nhạc thì tiếp tục yêu những dòng nhạc mới. Dầu mỗi người một cách riêng, nhưng chung quy, ai cũng cứ lần theo lối cũ mà về.
03/08/2014(Xem: 10421)
Lễ Vu Lan 2014 tại Chùa Quan Âm, Adelaide, Nam Úc Chủ Nhật 3-8-2014
22/07/2014(Xem: 28907)
Ngôi tu viện Phật giáo vùng Tây Bắc của tiểu bang Victoria được Thượng tọa Thích Tâm Phương khai sơn từ năm 1990. Ban đầu tu viện tọa lạc ở vùng Broadmeadows. Đến năm 1995, tu viện vận động mua lại ngôi trường tiểu học Fawkner cũ có diện tích 8.000 m2 và xây dựng thành ngôi phạm vũ trang nghiêm mang tên Bồ tát Thích Quảng Đức từ năm 1997 đến năm 2003. Công trình xây dựng do kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành thiết kế, kiến lập theo kiểu chữ “Công” mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông. Đại lễ khánh thành được tu viện tổ chức trọng thể vào các ngày 10, 11 và 12-10-2003. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm thờ tôn tượng đồng đức Phật Thích Ca thiền định. Tượng cao 2,50m, nặng khoảng 1,5 tấn. Phía trước và hai bên, tu viện đặt thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, Hộ Pháp Già Lam. Đến năm 2008, tu viện xây Tăng xá và Bảo tháp Tứ Ân. Bảo tháp 4 tầng, cao 14m, rộng 5m, trên nóc tôn trí tượng đức Phật A Di Đà cao 1,2m. Trong bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Phật, tượng chư Phật, Bồ tát và linh cốt của Phật tử q
20/06/2014(Xem: 13273)
Sơ lược tiến trình xây dựng Chùa Quang Minh
16/06/2014(Xem: 28330)
Ngày ấy cách đây 50 năm về trước, vào một sáng đầu mùa hè của năm 1964, tôi một mình đạp xe đạp từ làng Mỹ Hạc, Xã Xuyên Mỹ, Quận Duy Xuyên, trực chỉ xuống chùa Viên Giác tọa lạc tại Hội An, Quảng Nam. Hôm đó là ngày Rằm Tháng 5 âm lịch của năm Giáp Thìn. Một chặng đường dài 50 năm như vậy, nói cho đúng là nửa thế kỷ của một kiếp nhân sinh- đã, đương và sẽ có nhiều điều đáng nói. Hay có, dở có, không như ý cũng có
02/06/2014(Xem: 11742)
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 30 tháng 5 năm 2014 vừa qua Quý Thầy trong Ban Kinh Sư đã làm lễ thượng phang và lúc 10 giờ làm lễ Khai Kinh Bạch Phật cũng như cúng ngọ và tiến linh dưới sự chứng minh của Hòa Thượng Phương Trượng Viên Giác cũng như Thượng Tọa Chủ Sám Thích Hoằng Khai đến từ Na Uy.
23/05/2014(Xem: 14234)
Tu viện Cát Trắng (White Sands Buddhist Center) do Thầy Khải Thiên (Thích Tâm Thiện) và hàng đệ tử sáng lập vào mùa hạ năm 2005 tại thành phố Mims, thuộc miền Trung tiểu bang Florida, cách Sân bay quốc tế Orlando khoảng một giờ lái xe về hướng Đông. Địa chỉ: 4640 Knost Dr. Mims, Florida, 32754- USA. Tu viện chính thức được tiểu bang cấp giấy phép hoạt động là một tổ chức tôn giáo không vụ lợi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567