Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chùa Trúc Lâm (Huế) với hai vị Đanh Tăng Việt Nam thế kỷ 20: Hòa Thượng Giác Tiên & Hòa Thượng Mật Hiển

26/09/202012:04(Xem: 4667)
Chùa Trúc Lâm (Huế) với hai vị Đanh Tăng Việt Nam thế kỷ 20: Hòa Thượng Giác Tiên & Hòa Thượng Mật Hiển
CHÙA TRÚC LÂM, HUẾ, VỚI HAI VỊ DANH TĂNG VIỆT NAM THẾ KỶ 20:
HÒA THƯỢNG GIÁC TIÊN & HÒA THƯỢNG MẬT HIỂN.

Bài viết của Nhiếp ảnh gia Võ Văn Tường

Do Phật tử Quảng Hương diễn đọc
từ Trang Nhà Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu




 
Chùa tọa lạc trên đường Võ Văn Kiệt, xã Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa ở phía tây nam thành phố Huế, cách thành phố khoảng 5km, nằm trên đồi Dương Xuân Thượng. Từ đàn Nam Giao hướng về phía cầu Lim, qua cầu rẻ trái khoảng 500m đến chùa.

Chùa được Sư bà Diên Trường kiến lập vào đầu thế kỷ 20. Hồ Đắc Duy trong bài “Chùa Trúc Lâm ở Huế” (website: quangduc.com) cho biết ngôi chùa thành lập là một hạnh duyên cực kỳ lý thú:
 
“Nguyên vào mùa xuân năm Ất Mùi (1895) triều Thành Thái, chùa Phổ Quang ở dốc Bến Ngự càng ngày càng hư hỏng. Theo tương truyền là một thảo am của ông Nguyễn Hữu Hào (Đôn hậu Công thần Trấn thủ sinh năm 1642, mất năm 1712, tức anh ruột của Nguyễn Hữu Cảnh ngưởi khai sinh ra thành phố Sàigòn) tác giả của một truyện thơ bằng chữ Nôm truyền đời đó là truyện Song Tinh (một tác phẩm văn học cổ nước ta trước cả truyện Hoa Tiên và truyện Kiều hơn một thế kỷ). Lúc ấy, tự trưởng là Chánh Động Đại sư đem ngôi chùa cúng dường cho Đại lão Hòa thượng Cương Kỷ chùa Từ Hiếu. Bấy giờ có một tỳ kheo ni là bà Hồ Thị Nhàn người làng Chuồn (An Truyền, Phú Vang, Thừa Thiên) con ông Hồ Đắc Tuấn và bà Công Nữ Thức Huấn, cháu ngoại của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Bà sinh năm 1863, kết duyên cùng ông Nguyễn Đôn Lý.Sau ngày chồng mất, bà xuất gia thụ giáo với hòa thượng Cương Kỷ chùa Từ Hiếu (1898) pháp danh Thanh Linh hiệu Diên Trường. Bà xin phép Đại lão Hòa thượng được trùng tu chùa Phổ Quang. Điện Phật, cửa chùa, nhà tăng, buồng bếp, ảnh tượng, đồ thờ được sửa sang trang nghiêm đầy đủ. Bà lại đem chuyện đó tâu lên với đức Thái hoàng Thái hậu Trang Ý Thuận Hiếu xin ban cho hai mẫu ruộng chi dùng vào việc đèn hương… Đấy cũng là thời điểm đang mở đường xe lửa chạy ngang qua dưới chân đồi của chùa Phổ Quang, nơi ấy trở nên thị tứ ồn ào đông đúc, dân cư tụ tập, chợ búa ghe thuyền tấp nập… nên Sư bà Diên Trường tìm đường rẻ lối tới chốn sơn lâm cùng cốc xa hơn lập một thảo am khác để tiếp tục tu hành. Duyên lành đã hạnh ngộ trên đỉnh đồi Dương Xuân là vậy.Khi thảo am đã xong,Sư bà Diên Trường mời sư Giác Tiên về làm trụ trì và Sư cũng là tổ khai sơn của chùa Trúc Lâm ngày nay.

Trước khi về nhận chùa, sư Giác Tiên đã cùng sư cụ Diên Trường du hành đó đây. Khi đến Trúc Lâm Yên Tử (một trung tâm Phật học dưới triều đại nhà Trần) hai vị đã lưu lại một thời gian, sưu tầm một số pháp bảo quý giá như kinh điển, pháp khí. Trở về Huế, Sư đã quyết định đặt tên chùa là Trúc Lâm Đại Thánh, có ý liên hệ với Trúc Lâm tinh xá thời Phật còn tại thế và thiền phái Trúc Lâm ở Yên Tử nước ta do Trúc Lâm Đầu Đà Đại Sĩ (hiệu của vua Trần Nhân Tông) thiết lập”.
 
Chùa mới thành lập hơn 100 năm nhưng có hai vị trú trì là Danh Tăng Việt Namthế kỷ 20: Hòa thượng Giác Tiên và Hòa thượng Mật Hiển.
 
Hòa thượng Giác Tiên khai sơn và trụ trì đầu tiên.
Ngài Giác Tiên có pháp danh Trừng Thành, pháp tự Chí Thông, pháp hiệu Giác Tiên. Ngài có thế danh Nguyễn Duy Quyển, sinh năm 1880 tại làng Giạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Do song thân mất sớm nên lúc tròn 15 tuổi, ngài đã đến chùa Từ Hiếu xin xuất gia với ngài Tâm Tịnh. Năm 20 tuổi, ngài thọ giới Sa di. Sau đó, ngài theo Bổn sư về am Thiếu Lâm tu học. Năm 1910, tại Đại giới đàn chùa Phước Lâm ở Quảng Nam do ngài Vĩnh Gia làm Đàn đầu Hòa thượng, ngài thọ Cụ túc giới và đỗ Thủ khoa.

Thích Đồng Bổn (chủ biên) trong “Tiểu sử Danh tăng Việt Nam thế kỷ XX” cho biết: “Năm Quý Sửu (1913), Ni sư Diên Trường xây dựng xong chùa Trúc Lâm, liền xin phép Hòa thượng Tâm Tịnh thỉnh ngài về làm trụ trì ngôi chùa mới cất này. Ngài về đây thu nạp đồ chúng và mở rộng hoạt động hoằng dương Chánh pháp, tiếng tăm vang xa, vượt ra khỏi làng Dương Xuân Thượng, đến khắp mọi nơi”.
Năm 1916, ngài được Bổn sư Tâm Tịnh trao cho bài kệ đắc pháp sau:
            Giác đạo kiếp không tiên
            Không không Bát Nhã thuyền
            Quả nhân phù hạnh giải
            Xứ xứ đắc an nhiên
Tạm dịch:
            Đường giác vượt hậu tiền,
            Thuyền Bát Nhã không không,
            Hạnh giải hợp nhân quả,
            Ở đâu cũng thong dong.

Website: www.phatgiaohue.vntrong bài: “Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích GiácTiên - Tổ khai sơn chùa Trúc Lâm” cho biết ảnh hưởng của ngài đối với Đạo Pháp như sau:

Năm 1924, ngài vân tập đại tăng, tổ chức An cư kiết hạ 3 tháng.
Năm 1925, ngài được chiếu chỉ của triều đình mời làm trú trì Diệu Đế quốc tự.
Năm 1926, ngài tổ chức đại trùng tu Phật điện và tăng xá chùa Trúc Lâm.
Năm 1928, ngài mở trường đào tạo tăng tài tại chùa Trúc Lâm.
Năm 1929, ngài vào Tổ đình Thập Tháp Di Đà cung thỉnh Hòa thượng Quốc sư Phước Huệ ra chủ giảng tại Huế.
Năm 1930, ngài giúp đỡ Sư bà Diệu Hương mở Ni trường Diệu Đức.
Năm 1931, ngài đứng ra vận động thành lập hội An Nam Phật Học.
Năm 1933, ngài ủy thác cho đệ tử Mật Khế mở trường Tiểu học Phật học tại chùa Vạn Phước cho lớp Sa di các chùa đến học.
Năm 1934, ngài cùng đệ tử Mật Khế tổ chức trường An Nam Phật Học tại chùa Trúc Lâm, thu nhận đúng 50 học tăng. Cuối năm này, ngài quy tụ nhiều học tăng có trình độ khá cao để mở trường Đại học Phật giáo.
Ngài đảm nhận trú trì chùa Trúc Lâm, chùa Diệu Đế và Chứng minh Đạo sư cho hội An Nam Phật học.
Ngài viên tịch vào ngày 17/11/1936, thọ thế 57 tuổi, 26 hạ lạp.
Trước tháp ngài, cụ Tâm Minh Lê Đình Thám cúng dường hai câu để ghi nhớ và vâng chỉ di huấn của Tổ trên con đường chấn hưng, phục vụ Phật pháp:
Quán tướng nguyên vọng, quán tánh nguyên chơn, viên giác diệu tâm ninh hữu ngã,
Chúc pháp linh truyền, chúc sanh linh độ, thừa đương di huấn khởi vô nhơn.
Nghĩa là:
Quán sắc tướng vốn vọng, quán thể tánh vốn chơn, viên giác diệu tâm đâu còn ngã,
Chúc chánh pháp khiến truyền, chúc chúng sanh khiến độ, thừa đương di huấn vẫn còn có người.
Những vị đệ tử xuất gia của ngài gồm có: Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Nhơn, Mật Thể, Diệu Huệ và Diệu Không. Về đệ tử tại gia có: Thượng thư Hồ Đắc Trung, bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, bác sĩ Trương Xướng.
Ngài Mật Tín họ Nguyễn, quê Thừa Thiên, sinh năm 1901, xuất gia từ thuở nhỏ với Hòa thượng Giác Tiên. Ngài có pháp danh Tâm Chơn, pháp tự Mật Tín, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời 43. Ngài tu theo hạnh Mật tông, ít giao du với bạn đạo. Do hạnh nguyện như vậy nên khi ngài Giác Tiên viên tịch, Sơn môn giao ngôi vị trú trì cho ngài nhưng ngài từ chối để chuyên tu mật hạnh. Sau đó, ngài ra ở chùa Phổ Quang, rồi qua chùa Thiền Tôn tu tập cho đến ngày tạ thế vào năm 1941, thọ 40 tuổi.

Hòa thượng Mật Hiển kế vị trú trì chùa Trúc Lâm.
Ngài thế danh Nguyễn Duy Quảng, sinh ngày 04/3/1907 tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình thuần thành Phật giáo. Năm 7 tuổi, ngài được song thân cho xuất gia với Hòa thượng Giác Tiên.
Năm 1921, ngài 14 tuổi, được sự mến mộ của vị Hoàng Cả (tức vua Khải Định) và được Bổn sư cho phép, ngài theo học cùng lớp các vương tôn công tử tại nội phủ Hoàng gia, nhưng sau một năm, ngài xinvề chùa tu học.
Năm 1922, ngài được Bổn sư cho thọ Sa di thập giới tại Đại giới đàn chùa Từ Hiếu. Ngài có pháp danh Tâm Hương, pháp tự Mật Hiển, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời 43.
Năm 1927, ngài vào Bình Định học trường Phật học tại chùa Thập Tháp Di Đà. Trong khóa học này, ngài tâm đắc về Mật giáo. Sau đó, ngài thọ giáo Mật tông với một vị pháp sư người Tây Tạng tại nhà ông Lương Tế Xuyên ở Quảng Nam được hai năm.
Năm 1932, hội An Nam Phật Học được thành lập. Hòa thượng Phước Huệ từ Bình Định ra Huế làm Giáo thọ cho Đại học Phật giáo tại Phật học đường Tây Thiên. Ngài đã tham dự lớp học này.
Năm 1935, tại Đại giới đàn chùa Phúc Lâm tỉnh Bình Định do Hòa thượng Phước Huệ làm Đàn đầu Hòa thượng, ngài thọ Tỳ kheo và Bồ tát giới. Ngài đỗ Thủ khoa, được chư vị trưởng lão trong giới đàn trao Y bát và Tích trượng. Tổ Giác Tiên cũng truyền kệ phú pháp như sau:
                        Tâm Hương pháp giới huân,
                        Xứ xứ kết tường vân,
                        Phú nhữ Tâm Hương tánh,
                        Cừ kim chánh thị quân.
Điều Ngự Tử Tín Nghĩa trong sách: “Trúc Lâm Thiền phái tại Huế” và website: www.phatgiaohue.vnbài: “TT Huế: Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Mật Hiển chùa TrúcLâm” cho biết ảnh hưởng của ngài đối với Đạo Pháp như sau:
Năm 1937, vua Khải Định và đức Từ Cung đã mời ngài về cung An Định ở An Cựu để hướng dẫn kinh điển cho Nguyễn Phước tộc.
Năm 1939, ngài được Bộ Lễ và Sơn môn cung thỉnh chức vị trú trì Thánh Duyên quốc tự.
Năm 1942, ngài vận động mở Đại giới đàn tại chùa Thiền Tôn, Huế.
Năm 1949-1951, ngài vào Sa Đéc giảng dạy kinh điển cho 106 Tăng Ni ở đây.
Năm 1953-1955, Sơn môn Tăng già cung thỉnh ngài đảm nhận chức Tổng Trị sự Giáo hội Tăng già Trung Việt.
Năm 1964, ngài tham gia đoàn đại biểu Phật giáo Thừa Thiên Huế dự Đại hội thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn.
Năm 1972, Hòa thượng Thích Mật Nguyện là pháp đệ của ngài viên tịch, ngài kiêm giữ chức trú trì chùa Linh Quang.
Năm 1973, ngài được mời vào Hội đồng Giáo phẩm Viện Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành lập. Đại hội kỳ I đã suy cử ngài lên chức vụ Phó Pháp Chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1990, Đại hội đại biểu kỳ I của Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên Huế, ngài được Đại hội cung nghinh làm Trưởng ban Trị sự kiêm Ủy viên Tăng sự.
Ngài đã an nhiên thị tịch vào ngày Rằm tháng 4 năm Nhâm Thân - ngày Đại lễ Phật Đản -ngày 17/5/1992, thọ thế 86 tuổi, 57 hạ lạp.
Hòa thượng Thích Trí Quang dạy rằng: Mật Hạnh của Ngài chúng ta không thể tư nghì, mà chỉ có Phật và Bồ tát mới hiểu được, nên ngài xin cúng dường trọn câu: Nam mô Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật.

Sau khi Hòa thượng Mật Hiển viên tịch, hai ngài Thích Lưu Thanh và Thích Lưu Hòa đồng chung lo Phật sự cho đến ngày lễ Giỗ Tổ khai sơn 10/11/2018, toàn đại chúng của Trúc Lâm Pháp phái cung thỉnh Hòa thượng Lưu Thanh lên ngôi vị Phương trượng và Hòa thượng Lưu Hòa đảm nhiệm trú trì chùa Trúc Lâm. Ngôi chùa Trúc Lâm ngày nay được hai vị Hòa thượng tổ chức trùng tu thành tòa phạm vũ trang nghiêm, mỹ lệ.

Từ đường Võ Văn Kiệt gần cầu Lim, có con đường nhỏ dẫn vào chùa. Qua hai trụ biểu là đến cổng tam quan. Trên cổng có ghi năm kiến tạo: Bính Thân 1956 và năm tái tạo: Kỷ Mão 1999. Cổng có bốn cặp câu đối chữ Hán, hai cặp ở mặt trước, hai cặp ở mặt sau; trên cổng ghi dòng chữ quốc ngữ: Trúc Lâm - Tinh tấn - Thanh tịnh.

Ở sân trước chùa có hòn giả sơn, tôn tượng Bồ tát Quán Thế Âm và bộ tượng 18 vị A La Hán. Tượng Bồ tát cao khoảng 1,80m, sơn màu trắng, do cố Hòa thượng Mật Hiển tự tay tạc lấy. Bên trái tượng Bồ tát có tượng Hồng Hài Nhi chắp tay cung kính hầu Ngài.

Chùa kiến trúc chữ “khẩu” theo truyền thống chùa cổ ở Huế.
Mở đầu là ngôi chánh điện gồm tiền đường và chánh điện (Phật điện). Ngôi chánh điện xây kiểu trùng lương trùng thiềm hay trùng thiềm điệp ốc, là kiểu kiến trúc nhà kép hai mái trên một nền. Trên nóc có cặp rồng quay đầu chầu mặt hổ phù đội bánh xe pháp luân có chữ “vạn” ở giữa. Các đầu đao trang trí hình long lân quy phụng; ở tiền đường bốn cộttrang trí hình rồng và hai phù điêu long mã đắp nổi bằng mảnh sành đủ màu sắc, nghệ thuật điêu luyện, sinh động, tuyệt đẹp!Giữa hai mái nhà có ba bức tranh về cuộc đời đức Phật: đức Phật xuất gia, đức Phật thọ nhận cúng dường và đức Phật chuyển pháp luân.

Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Hương án giữa thờ tượng đức Phật Thích Ca, hai bên có Tôn giả Ca Diếp tay cầm hoa sen và Tôn giả A Nan tay ôm bình bát. Ba pho tượng này được tạc bằng gỗ mít. Phía trước thờ các tượng đức Phật A Di Đà, đức Phật Dược Sư, Bồ tát Di Lặc, Bồ tát Chuẩn Đề, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Địa Tạng. Hai bên vách trang trí tranh vẽ về cuộc đời đức Phật Thích Ca.Phía trên chánh điện, gần xà nhà, có treo bức hoành phi sơn son thếp vàng: “Sắc tứ Trúc Lâm Đại Thánh Tự”. Ở đây có cặp đối chữ Hán do Tổ Giác Tiên đặt ra và tự tay viết:
 
                        Hương lễ kết tường vân, tam thân viên hiển,
                        Hoa khai tinh diệu tướng, thập hiệu hùng tôn.
 
Sau Phật điện là gian Hậu Tổ.Ở đây có long vị ngài Phước Huệ, ngài Tâm Tịnh, ngài Huệ Pháp, ngài Giác Tiên ở bàn thờ giữa. Bàn hai bên thờ chư Tăng, chư Ni thuộc Trúc Lâm Pháp phái đã viên tịch.
 
Sau ngôi chánh điện là nhà Thiền, nhà Hậu, nhà Khách, nhà Tăng và nhà Trù. Ở giữa là vườn cây cảnh với nhiều loại hoalan, hoa sen …luôn tỏa hương thơm ngát.
 
Chùa hiện lưu giữ một số bảo vật như sau:
  1. Bình bát bằng kim sa của ngài Thạch Liêm mang từ Trung Hoa sang. Bình bát bị thất lạc vào năm 1885. Năm 1911, Tổ Giác Tiên tìm thấy trong nhà của một ngư dân ở Hương Điền, Tổ xin chuộc lại và đem về để hành trì. Ở đáy bình bát có bốn chữ Hán: “Thạch Liêm Sa Môn”. Hiện bình bát được thờ ở gian Hậu Tổ.
 
  1. Bộ lư cổ bằng sứ trắng hai tầng chạm trỗ hình rồng và chữ “Thọ” do Thượng thư Hồ Đắc Trung đem từ Thanh Hóa vào cúng. Hiện lư được dùng để xông trầm cúng Phật tại chánh điện.
 
 
  1. Đặc biệt, bản kinh Kim Cang bằng chữ Hán từ thời Tây Sơn được thêu bằng chỉ ngũ sắc trên gấm. Bản kinh có chiều dài 4,47m, chiều rộng 0,234m. Bản kinh thêu gần 7.000 chữ do Sư bà Diệu Tâm ở chùa Thầy (Hà Sơn Bình) đứng ra quyên góp chỉ, gấm và tự tay thực hiện trong nhiều năm. Bản kinh được để trong hộp gỗ trầm hương, bên ngoài được chạm khắc hoa văn, nhà cửa, cây cối, con người với nét chạm trỗ tinh xảo. Đây là một pháp bảo quý giá của Phật giáo Việt Nam. Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã xác lập kỷ lục vào ngày 05/5/2008: “Ngôi chùa có bản kinh Kim Cang thêu trên gấm dài nhất”.
Cảnh chùa Trúc Lâm lúc nào cũng đẹp, nét đẹp thiền vị và mang hương sắc xứ Huế. Ngày xưa đến viếng chùa lễ Phật, cụ Thượng thư Hồ Đắc Trung đã để lại bài thơ tuyệt diệu:
 
Trúc Lâm phong cảnh tối thâm u,
Ẩn tại sơn trung, thiểu lộ du,
Nguyệt chiếu, phong xuy, thân bất động,
Vân lai, vũ khứ, thể vô thù.
Đầu đầu thủy địa, tâm phương dẫn,
Tiết tiết không tâm, chỉ hướng tu.
Quán trúc tri nhơn, nhơn thị trúc,
Trúc nhơn phi dị, lưỡng tương phù.
 
Dịch:
Trúc Lâm phong cảnh thật thâm u,
Ẩn tại trong non, khách thiểu du,
Trăng rọi, gió lay, tâm chẳng động,
Mây đi, nước đến, thể không thù.
Đầu cành sát đất, tìm phương dẫn,
Giữa đốt không tâm, chỉ hướng tu.
Thấy trúc biết người, người tựa trúc,
Trúc người không khác, cảnh tương phù.
 
 
Võ Văn Tường
 
 
Sách tham khảo:
 
01. Điều Ngự Tử Tín Nghĩa (1993), Trúc Lâm Thiền phái tại Huế,Tổ đình Từ Đàm Hải Ngoại, Hoa Kỳ.
02. Hà Xuân Liêm (2000), Những ngôi chùa Huế, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế.
03. Thích Đồng Bổn chủ biên (1995), Tiểu sử Danh Tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, Thành Hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh.
04. Tưởng niệm Ôn Mật Hiển (2007), Tổ đình Từ Đàm Hải Ngoại, Hoa Kỳ.
05. Võ Văn Tường (1992), Việt Nam Danh lam Cổ tự, ngôn ngữ: Việt-Anh-Pháp-Hoa, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
06. Võ Văn Tường, Lê Trần Trường An (2019), Chùa Việt Nam - những kỷ lục vềDi sản văn hóa, ngôn ngữ: Việt - Anh, nhà xuất bản Thông Tấn, Hà Nội.
 
Website:
01. www.kinhsach.orgHòa thượng Mật Tín (1901-1941).
02. www.phatgiaohue.vnTiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Giác Tiên- Tổ khaisơn chùa Trúc Lâm.
TT Huế: Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Mật Hiển chùa TrúcLâm.
03. www.quangduc.com Hồ Đắc Duy, Chùa Trúc Lâm ở Huế.

 

 

Chua Truc Lam (1)
 
Ảnh 01. Đường vào chùa

Chua Truc Lam (2)
Ảnh 02. Cổng tam quan
Chua Truc Lam (3)
Ảnh 03. Cổng tam quan (mặt sau) và hòn giả sơn

Chua Truc Lam (4)
Ảnh 04. Ngôi chánh điện (ảnh 18/7/1989)
Chua Truc Lam (5)
Ảnh 05. Ngôi chánh điện (ảnh 13/5/2001)

Chua Truc Lam (6)
Ảnh 06. Ngôi chánh điện (ảnh 19/3/2006)
Chua Truc Lam (7)
Ảnh 07. Ngôi chánh điện (ảnh 19/9/2019)

Chua Truc Lam (8)
Ảnh 08. Hòn giả sơn ở sân trước chùa

Chua Truc Lam (9)
Ảnh 09. Tượng Bồ tát Quán Thế Âm

Chua Truc Lam (10)
Ảnh 10. Điện Phật và ngài Mật Hiển (ảnh 18/7/1989)

Chua Truc Lam (11)
Ảnh 11. Điện Phật (ảnh 13/5/2001)

Chua Truc Lam (12)
Ảnh 12. Điện Phật (ảnh 01/4/2008)

Chua Truc Lam (13)Chua Truc Lam (14)Chua Truc Lam (15)Chua Truc Lam (16)Chua Truc Lam (17)Chua Truc Lam (18)Chua Truc Lam (19)Chua Truc Lam (20)Chua Truc Lam (21)Chua Truc Lam (22)Chua Truc Lam (23)Chua Truc Lam (24)
Ảnh 13-24. Bản kinh Kim Cang thêu bằng chỉ ngũ sắc trên gấm thời Tây Sơn (ảnh 01/4/2008)

Chua Truc Lam (25)
Ảnh 25. Đại hồng chung

Chua Truc Lam (26)
Ảnh 26. Trống
Chua Truc Lam (27)Chua Truc Lam (28)Chua Truc Lam (29)Chua Truc Lam (30)Chua Truc Lam (31)Chua Truc Lam (32)Chua Truc Lam (33)Chua Truc Lam (34)Chua Truc Lam (35)Chua Truc Lam (36)Chua Truc Lam (37)Chua Truc Lam (38)Chua Truc Lam (39)Chua Truc Lam (40)Chua Truc Lam (41)Chua Truc Lam (42)Chua Truc Lam (43)Chua Truc Lam (44)
Ảnh 27-44. Tượng 18 vị A La Hán (ảnh 19/9/2019)

Chua Truc Lam (45)
Ảnh 45. Nhà khách

Chua Truc Lam (46)
Ảnh 46. Tháp mộ cố Hòa thượng Thích Mật Hiển
 
 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/07/2015(Xem: 6143)
Đồng Trăng, tên gọi nghe thật thơ mộng với hình ảnh ánh trăng lung linh trên trời cao thăm thẳm soi rọi xuống sáng ấm cả một vùng đồng hoang lau sậy ngút ngàn… Đồng Trăng ngày xưa đìu hiu vắng vẻ, dấu chân người dè dặt để lại thưa thớt, đây đó lác đác vài túp lều tranh sơ sài của những người cô độc lặng lẽ giữa gió táp mưa tuôn, chim kêu vượn hú…
14/05/2015(Xem: 7507)
Chùa Long An là một ngôi chùa cổ tại làng Xuân An (xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Đây là ngôi chùa quê hương của cố Đại lão HT.Thích Đôn Hậu, trong hàng trăm năm tồn tại chùa đã nhiều lần trải qua sự tàn phá của thiên tai cũng như chiến tranh, nhất là trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, chùa đã bị san bằng bởi bom đạn. Sau ngày thống nhất đất nước, chùa đã được dựng lại tạm bợ bằng tre nứa và tôn.
19/04/2015(Xem: 12666)
Từ Đàm là ngôi chùa cổ mà không cổ. Chùa cổ, nếu tính theo năm sinh, khoảng 1690. Khi chùa khai sinh, Trịnh Nguyễn hãy còn phân tranh, mỗi mái chùa dựng lên ở phương Nam là mỗi bước chân mở đường Nam tiến sống chết của dân tộc.
15/04/2015(Xem: 9697)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
26/02/2015(Xem: 9714)
Tọa lạc tại số 81 đường Nguyễn Xiển, P.Long Bình, Q. 9, TP.HCM, chùa Bửu Long, có khuôn viên rộng hơn 11 hecta, nằm trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai.
10/02/2015(Xem: 7801)
Chùa ở ngay trung tâm Thị Trấn Thành -Diên Khánh. Quốc Lộ 1A- Án ngữ mặt tiền mang số 226 đường Lạc Long Quân. Xưa kia, khoảng năm 1938-1940, thời kỳ chấn hưng Phật Giáo, nơi đây chỉ là một trụ sở "Chi Hội Phật Học Quận Diên Khánh", trực thuộc "An Nam Phật Học Hội", vắng vẻ đìu hiu.
21/01/2015(Xem: 5477)
Từ thành phố Nha Trang, theo con đường Quốc lộ 1 hướng Nam Bắc, đi khoảng hơn 10 km, qua khỏi đèo Rù Rì- con đèo ngoằn nghèo hình chữ chi, xuống khỏi dốc đèo, đi chừng 1 km, rẻ xuống bên tay phải là đến chùa Nghĩa Lương, ở vùng quê Lương Sơn yên bình. Chùa Nghĩa Lương xây dựng trên đồi núi Lương Sơn rộng mênh mông ngút ngàn bạch đàn, cây cối. Nghĩa Lương tự tọa lạc tại Tổ 2, thôn Võ Tánh, xã Vĩnh Lương, thành phố Nha Trang tỉnh Khánh Hòa, do Hòa thượng Thích Bích Lâm- húy thượng Chơn hạ Phú, tự Chánh Hữu, hiệu Bích Lâm- nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chánh Tông- Nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng Đạo Giáo Hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam- Tông trưởng Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương khai sơn năm 1954. Đây là một trong những ngôi chùa được Tổ Khai sơn đầu tiên, lúc này Ngải mới 31 tuổi, ở tuổi “tam thập như lập”. Sở dĩ chùa được Tổ an danh Nghĩa Lương tự là ghép tên ngôi chùa Tổ Nghĩa Phương với Lương Sơn, Vĩnh Lương mà thành. Ngày xưa, chùa cũ đứng bên cạnh cây khế cổ thụ lâu năm nê
21/12/2014(Xem: 8289)
Phong trào rót đồng đổ chuông gần đây diễn ra khá rầm rộ trong cả nước. Ngày 21/12/2014, tại Hốc Môn, chùa Quang Thọ xã Bà Điểm cũng tiến hành lễ đúc Đại hồng chung mà ba năm trước, chùa đã có thư ngỏ kêu gọi.
21/10/2014(Xem: 5641)
Chùa Sắc Tứ Thiên Ân toạ lạc tại thôn Phước Thuận, xã Ninh Đông, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, là một trong những ngôi chùa Bồ tát Quảng Đức ẩn tu từ năm 1930 đến 1945. Thiên tường hưng thịnh, đạo tại thế năng hằng tịnh niệm, thiên thu tăng củng cố, Ân triêm Phước Thuận, quả do nhân nhi khởi thiền môn, vạn cổ vĩnh trang nghiêm. Vượt hơn 40 km đường bộ, chiếc xe ô tô 7 chỗ từ thành phố Nha Trang theo đường Quốc lộ 1 hướng Nam Bắc Nha Trang - Ninh Hòa, xe qua đèo Bánh Ít (Ninh Hòa) rẻ phía tay trái đi về hướng Tây Bắc, theo hương lộ xã Ninh Đông, qua cổng thôn Văn hóa Phước Thuận là đến chùa Sắc tứ Thiên Ân. Chùa Sắc tứ Thiên Ân, nằm ẩn minh dưới những tàng cây um tùm bao phủ chung quanh. Chùa do Tổ Thiên Phước, húy thượng Chương hạ Chí, tự Thiên Phước hiệu Bửu Tịnh, thuộc dòng Lâm tế Chúc Thánh, đời thứ 38, hệ thứ 5 của Tổ Minh Hải- Pháp Bảo. Ngài thế danh Huỳnh Văn Dự, sinh năm Ất Hợi (1755) quê quán làng Phú Vinh, phủ Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài xuất gia hành đạo tại q
24/09/2014(Xem: 12470)
Ngọn núi nhỏ Phổ Đà, còn được gọi là Núi Ông Sư, thuộc địa phận làng Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh- tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố biển Nha Trang khoảng 50 cây số về hướng Bắc, có hình thù của một “ông Tượng” nằm giữa một vùng mây nước hữu tình, tứ bề sơn thủy làng mạc bao bọc tạo nên một bức tranh phong cảnh bàng bạc thơ mộng và thiêng liêng ấm cúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567