Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đừng nên hẹn gặp lại kiếp sau (Do not wish to see someone again in the next life)

15/01/202509:55(Xem: 38)
Đừng nên hẹn gặp lại kiếp sau (Do not wish to see someone again in the next life)


phat thanh dao

Đừng nên hẹn gặp lại kiếp sau
Nguyên Giác Phan Tấn Hải


Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du ghi lại lời Thúy Kiều khi gặp lại chàng Kim Trọng sau nhiều năm bầm dập trong đời, rằng thôi thì hẹn kiếp sau thôi:

Rõ ràng hoa rụng hương bay,
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.

Nguyễn Du là một học giả uyên thâm cả Nho giáo và Phật giáo. Nhưng trong Truyện Kiều, họ Nguyễn chỉ muốn nói về những nỗi khổ cõi người qua một sáng tác văn học, hoàn toàn không có ý muốn lý luận thâm sâu về bất kỳ đề tài nào, cho dù là Nguyễn Du đã từng ba năm mặc áo nhà sư trên bước đường du tăng ở Trung Hoa.

Nếu bạn vào YouTube, gõ nhóm chữ “kiếp sau” hay nhóm chữ “kiếp lại sinh,” bạn sẽ thấy ít nhất là có sáu hay bảy ca khúc liên hệ, cả tân nhạc và vọng cổ, trong đó có các ca khúc chỉ trong vòng vài năm đã có nhiều triệu người xem và nghe. Hiển nhiên là, hình ảnh nắm tay người tình và nói lời hẹn gặp kiếp sau là rất bình thường trong văn học Việt Nam.

Không chỉ là Phật giáo đâu, tôn giáo khác cũng có niềm tin về một đời sống sau kiếp này. Thí dụ, nhiều tôn giáo khác có khái niệm về một Đấng Cứu Thế sẽ hiện ra cứu linh hồn của giáo dân vừa từ trần. Nhưng thời gian vô thường, Đấng Cứu Thế hiện ra kia mang tấm thân khi 20 tuổi, hay 30 tuổi, hay 2000 năm tuổi?

Chuyện tình của nhiều người trong chúng ta cũng thế, gặp lại trong kiếp sau là với tấm thân nào, quốc độ nào, văn hóa nào, môi trường nào... là một chuyện nhức nhối để suy nghĩ. Niềm tin về kiếp sau hiển nhiên rất là lãng mạn kiểu văn học Quỳnh Dao. Rủi như trong kiếp sau, chàng sinh ra ở Bắc Kinh và nàng sinh ra ở Đài Bắc là sẽ rách việc.

Trong Kinh AN 4.55, khi ba và mẹ của ngài Nakula hỏi Đức Phật rằng làm thế nào để kiếp sau, ba và mẹ của Nakula có thể gặp nhau trở lại, thì Đức Phật trả lời: “Vậy này các Gia chủ, khi cả hai vợ và chồng muốn thấy mặt nhau trong đời này, và cũng muốn thấy mặt nhau trong đời sau nữa, và cả hai người là đồng tín, đồng giới, đồng thí, đồng trí tuệ, thời trong đời hiện tại, các người được thấy mặt nhau, và trong đời sau, các người cũng được thấy mặt nhau.” (1)

Tuy nhiên, sẽ rất hy hữu để hai người có cùng một đức tin, cùng giữ giới luật, cùng thói quen bố thí cúng dường, cùng bậc trí tuệ... Rất là hy hữu. Có khi nàng kiếp sau lên được cõi trời, còn chàng kiếp sau ở lại cõi người vì còn say mê làm thơ, viết truyện... Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng chúng ta luôn luôn là người xa lạ của nhau, bởi vì Đức Phật nói rằng trong cõi luân hồi vô lượng kiếp, chúng ta đã từng là quyến thuộc của nhau nhiều đời.

Trong nhóm Kinh SN 15:14–19, Đức Phật nói rằng trong cõi luân hồi vô cùng tận, bạn sẽ rất khó tìm thấy một người nào mà chưa từng là mẹ, cha, anh, chị, con trai và con gái của bạn trong một kiếp xa xưa nào.

Đức Thế Tôn đã nói: "Vô thỉ là luân hồi, này các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ, đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc. Này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã từng làm mẹ của bạn, cha của bạn, anh trai của bạn, chị gái của bạn, con trai của bạn, con gái của bạn vào một thời điểm nào đó trong quá khứ." (2)

Tuy nhiên, đã là Phật tử, phải luôn luôn nghĩ tới tu hành, đừng nghĩ tới chuyện hẹn kiếp sau với ai, vì có lập nguyện thì thế nào kiếp sau cũng so le, chệch hướng. Không chắc gì khi vào kiếp sau trong cõi này, chúng ta sẽ gặp cơ duyên học Phật như kiếp này. Thêm nữa, nghiệp quả trùng trùng, ai dám nói là chúng ta trong kiếp sau còn giữ được thân người. Do vậy, phải luôn luôn nghĩ tới giải thoát, bởi vì người bạn yêu thương khi gặp lại trong kiếp sau chắc chắn là không thể có dung nhan, hình tướng như hiện nay.

Hãy hình dung như Đức Phật từng nói rằng, thân ngũ uẩn của chúng ta thực tế chỉ là như chùm bọt sóng, như ráng nắng chiều, như thân cây chuối, như hình ảo thuật hiện ra, tất cả đều là trống không, là trống rỗng, là không có lõi cứng... Không lẽ chùm bọt sóng này lại hẹn gặp kiếp sau với chùm bọt sóng kia? Không lẽ ráng nắng chiều này lại hẹn gặp kiếp sau với ráng nắng chiều kia?

Trong Kinh SN 55.45, Cư sĩ Mahanama nêu câu hỏi vì Đức Phật lúc đó sắp du hành xa, rằng một cư sĩ có trí tuệ cần khuyên gì khi gặp một cư sĩ bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cơ nguy từ trần.

Đức Phật nói rằng vị cư sĩ có trí tuệ cần khuyên vị cư sĩ bệnh nặng rằng hãy an tâm, khi đã có lòng tin kiên có vào Phật, Pháp, Tăng và đã sống với giới luật thanh tịnh.

Vị cư sĩ có trí tuệ cần khuyên vị cư sĩ bệnh nặng rằng hãy từ bỏ, đoạn tận lòng thương nhớ cha mẹ, vợ con. Tiếp theo, hãy khuyên từ bỏ tâm nuối tiếc công đức nơi cõi người, từ bỏ tâm mở tưởng về cõi trời, vì tất cả các cõi đều vô thường. Tiếp theo, hãy khuyên vị cư sĩ bệnh nặng kia hãy hướng tâm đến đoạn diệt thân kiến, tức là tịch diệt năm uẩn. Đức Phật nói, như thế, vị cư sĩ có bệnh đó sẽ không có gì sai biệt với một nhà sư đã giải thoát. (3)

Đó là lời Đức Phật dạy. Hoàn toàn không có chuyện hẹn kiếp sau gì hết. Hãy thấy ngay rằng tất cả các pháp đều vô ngã. Khi chùm bọt sóng của thân tâm này tan, sẽ không có chùm bọt sóng nào trở lại y hệt. Hãy thấy dòng chảy xiết của vô thường nơi thân, tâm, và thế gian. Tất cả đều đang chảy xiết trong thời gian vô tận, như điểm tiếp giáp xoay không ngừng của hạt đậu nhỏ trên đầu mũi kim. Hãy luôn luôn nhớ lời Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy rằng, hãy thấy thân tâm tan rã từng khoảnh khắc, như con trâu bùn đang lội qua sông.


---- Tháng 12/2024. Viết khi họa sĩ Khánh Trường bệnh nặng.

GHI CHÚ:
(1) Kinh AN 4.55: https://suttacentral.net/an4.55/vi/minh_chau
https://suttacentral.net/an4.55/en/bodhi
(2) Kinh SN 15:14–19: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn15/sn15.014.than.html
(3) Kinh SN 55.45: https://suttacentral.net/sn55.54/vi/minh_chau
hay: https://suttafriends.org/sutta/sn55-54/

.... o ....






phat thanh dao
Do not wish to see someone again in the next life
Written and translated by Nguyên Giác




Do not wish to see someone again in the next life
Written and translated by Nguyên Giác



In many Vietnamese folk tales, as well as in the folk tales of various other countries around the world, there exists a strong belief in an afterlife. This belief is not only prevalent in folk Buddhism but also in most, if not all, other religions. The concept of an afterlife warrants careful analysis to avoid misconceptions.

In Tale of Kiều, Nguyễn Du captures Thúy Kiều's sentiments when she reunites with Kim Trọng after enduring many years of hardship. They vow to be together and find happiness in the next life.

The flowers have fallen, and the fragrance has dissipated.
In the next life, we will be happier than we are in this one.

Nguyễn Du was a scholar with profound knowledge of both Confucianism and Buddhism. However, in The Tale of Kiều, he aimed to explore human suffering through literature, without any intention of delving deeply into philosophical discussions. This is notable, especially considering that Nguyễn Du spent three years donning a monk's robe while traveling in China.

If you search for the phrases “kiếp sau” or “kiếp lai sinh” on YouTube, you will discover at least six or seven related songs, both modern and vọng cổ, some of which have garnered millions of views and listens within just a few years. Clearly, the imagery of holding hands with a lover and vowing to reunite in the next life is a prevalent theme in Vietnamese literature.

Not only Buddhism, but other religions also believe in life after death. For example, many religions have the concept of a Savior who will come to save the souls of believers who have recently passed away. However, the timing is unpredictable: will that Savior appear in a body that is 20 years old, 30 years old, or even 2,000 years old?

The love story of many of us is similar: contemplating our reunion in the next life raises painful questions about our bodies, countries, cultures, and environments. The belief in an afterlife is undeniably romantic, reminiscent of Chiung Yao's literary style. If, by chance, he is born in Beijing and she in Taipei, their love may be doomed.

In the AN 4.55 Sutta, when Nakula's father and mother asked the Buddha how they could reunite in the next life, the Buddha replied: “Householders, if both husband and wife wish to see one another not only in this present life but also in future lives, they should have the same faith, the same virtuous behavior, the same generosity, and the same wisdom. Then they will see one another not only in this present life but also in future lives.” (Trans. by Bhikkhu Bodhi)(1)

However, it is quite rare for two individuals to share the same faith, precepts, habits of giving alms, and level of wisdom. Such a coincidence is exceptional. Perhaps in the next life, she will ascend to heaven, while he remains in the human realm, driven by his passion for writing poetry and short stories. Nevertheless, we should not assume that we will always be strangers to one another, for the Buddha taught that throughout the cycle of countless lives, we have been relatives in many of those existences.

In the SN 15:14–19 Sutta, the Buddha states that within the endless cycle of rebirth, it is unlikely to find anyone who has not been your mother, father, brother, sister, son, or daughter in a past life.

The Blessed One said: "There is no beginning to samsara, monks. The origin is not evident to those beings who are shrouded in ignorance and bound by craving. Monks, it is not easy to find a being who, throughout this extensive period of time, has not, at some point in the past, been your mother, your father, your brother, your sister, your son, or your daughter." (2)

However, as a Buddhist, you must always focus on your practice. Do not dwell on the idea of making an appointment with someone in the next life, as making such a vow can lead to an uneven and misguided existence. It is uncertain whether we will have the opportunity to study Buddhism in the next life as we do in this one. Moreover, the complexities of karma are vast; who can confidently assert that we will retain our human form in the next life? Therefore, you should prioritize liberation, for the person you love may not appear or take the same form in the next life as they do now.

Imagine, as the Buddha once said, that our body, composed of five aggregates, is akin to a collection of foam, a shimmering mirage, the trunk of a banana tree, or an enchanting illusion—all are empty, void, and lack a solid core. Could it be that this collection of foam has an appointment to meet another collection of foam in the next life? Could it be that this shimmering mirage has an appointment to meet another shimmering mirage in the next life?

In the SN 55.45 Sutta, the householder Mahanama asks the Buddha, who is preparing to embark on a long journey, what advice a wise householder should offer when encountering another householder who is sick, in pain, seriously ill, or on the verge of death. The Buddha responds that a wise householder should encourage the seriously ill individual to find peace by maintaining firm faith in the Buddha, the Dhamma, and the Sangha, while also adhering to pure precepts.
A wise layperson should counsel the seriously ill individual to relinquish and completely abandon his longing for his parents, spouse, and children. Next, the wise layperson should advise the ill individual to give up his regret for the merits of the human world and quit dreaming of the heavenly world, as all worlds are impermanent. Additionally, he should guide the seriously ill person to focus his mind on the cessation of the notion of self, specifically the cessation of the five aggregates. The Buddha stated that by following this path, the ailing layperson would be no different from a liberated monk. (3)

That is what the Buddha taught: there is absolutely no such thing as vowing to see each other again in the next life. Recognize immediately that all dharmas are devoid of a permanent self. When this bubble of body and mind dissolves, no bubble will return in exactly the same form. Observe the swift flow of impermanence in the body, mind, and the world. All are in constant motion through endless time, akin to a small bean suspended on the tip of a needle, rotating endlessly. Always remember the teachings of Tuệ Trung Thượng Sỹ; witness your body and mind disintegrating with each passing moment, like a mud buffalo wading through a river.
---- December 2024. Written during a time when the artist Khanh Truong was seriously ill.
NOTES:
(1) AN 4.55 Sutta: https://suttacentral.net/an4.55/vi/minh_chau
https://suttacentral.net/an4.55/en/bodhi
(2) SN 15:14–19 Sutta: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn15/sn15.014.than.html
(3) SN 55.45 Sutta: https://suttacentral.net/sn55.54/vi/minh_chau
or: https://suttafriends.org/sutta/sn55-54/
.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2012(Xem: 13415)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Đức Đạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn. Những đệ tử được Thế Tôn hóa độ, do căn cơ trình độ, tuổi tác, giới tính bất đồng, vì thế được chia thành 7 nhóm và được gọi là 7 chúng đệ tử của Phật. Trong đó, hai nhóm đầu là Ưu bà tắc và Ưu bà di thuộc hàng đệ tử tại gia; năm nhóm sau là Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na, Tỷ kheo và Tỷ kheo ni thuộc hàng đệ tử xuất gia. Trong bài này, chúng tôi sẽ tuần tự trình bày những giới pháp mà mỗi chúng đệ tử phải lãnh thọ, hành trì trên lộ trình tiến đến giải thoát.
12/02/2012(Xem: 5553)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
21/01/2012(Xem: 16692)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
20/11/2011(Xem: 21640)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
12/10/2011(Xem: 4429)
ó bốn cách nghiệp sẽ chín trong những kiếp tương lai: Nghiệp Chín Hoàn Toàn: là loại tái sanh mà tâm thức ta sẽ nhận lãnh khi nó tách rời thân thể ta trong giờ phút lâm chung. Hành Động Tương Đương với Nguyên Nhân: tất cả những lời nói, ý nghĩ và hành động ta tạo ra trong bất cứ kiếp sống nào là do những thói quen trong quá khứ. Kinh Nghiệm Tương Đương với Nguyên Nhân: tất cả những gì người khác hay các chúng sanh khác đối xử với ta, hay những gì xảy ra cho ta. Nghiệp Quả Qua Môi Trường (Y báo): thế giới xung quanh ta ra sao: ô nhiễm, tươi đẹp, bị động đất v.v..., đều do cộng nghiệp của tất cả chúng sanh sống trong môi trường đó.
28/09/2011(Xem: 4387)
Tứ Tất Đàn, tiếng Phạn là catvari siddhanta; catvari có nghĩa là tứ và siddhanta phiên âm là tất đàn, có khi còn được phiên âm là “ Tất Đàm”, và dịch là “Tác Thành Tựu”, có nghĩa là làm cho công việc thuyết pháp của Đức Phật được thành tựu. Chữ siddhanta, Hán dịch là "thành tựu", nghĩalà nhờ dựa vào bốn phương pháp này, mà Đức Phật thuyết pháp và thành tựu được sự nghiệp hoằng hóa, giáo hóa chúng sinh, đưa chúng sinh từ mê lầm đến giácngộ, từ sinh tử đến Niết Bàn, từ phàm lên Thánh, từ mê lầm đến sự hiểu biết cao thượng.
25/06/2011(Xem: 4449)
Người tại gia tu theo đạo Phật, thông thường được gọi là Cư Sĩ. Như thế nào là một vị Cư Sĩ ? có điều gì khác với người tại gia bình thường ? Phật giáo Trung Quốc, có rất nhiều người tín ngưỡng Phật giáo, nhưng cũng có nhiều người hiểu sai về giáo lý đức Phật, họ cho rằng: “ Các Tự Viện thờ cúng tượng Phật, Tăng Ni tụng kinh cho người chết, đánh chuông, gõ mõ, vv… chính là đại diện cho Phật giáo”. Vì thế, nhiều người đã nhận định Phật giáo là tiêu cực, là trốn tránh hiện thực. Kỳ thật, những điều này chỉ là nghi thức Phật giáo của người xuất gia và truyền thống Phật giáo đã bị biến chất theo phong tục tập quán. Tín đồ Phật giáo chia làm hai hạng người: Xuất Gia và Tại Gia. Bổn phận của người Xuất Gia là tu đạo, truyền đạo và duy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
12/06/2011(Xem: 3403)
Tám loại khổ (i) Sinh: * Có bao giờ ta nghĩ rằng: “Ước gì tôi chưa hề được sinh ra”? Bắt đầu từ khi chào đời, ta trải qua biết bao đau khổ. * Không những chỉ có sự đau đớn lúc chào đời mà thôi, ta còn trải qua những đau khổ của lão, bệnh và tử.
07/06/2011(Xem: 4528)
Vào ngày 2 tháng Tư, Lama Zopa Rinpoche đã ban bài giảng để khai mạc khóa tu kéo dài một tháng được tổ chức tại Bendigo, Úc châu trong Đại Bảo Tháp Bi mẫn Phổ quát. Lời khuyên dạy vô cùng phổ biến này được trích dẫn vì sự lợi lạc của tất cả những người không thể tham dự khóa tu:
30/05/2011(Xem: 9739)
Chương 183: Thời Kỳ Tiền Phật Giáo trên Thế Giới Pre-Buddhism Period in the World Chương 184:Lịch Sử Các Bộ Phái Phật Giáo Cổ History of Ancient Buddhist Sects Chương 185: Tông Phái Phật Giáo—Buddhist Schools Chương 186: Lục Sư Ngoại Đạo—The Six Heretical Masters Chương 187: Phật Giáo Thế Giới—Buddhism in the World Chương 188: Phật Giáo Việt Nam—Buddhism in Vietnam Chương 189: Những vị Cao Tăng Nổi Tiếng của Việt Nam Vietnamese Famous Buddhist Monks Chương 190: Những vị Cao Tăng Nổi Tiếng của Trung Hoa Chinese Famous Buddhist Monks
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]