Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Quan niệm Thiên đàng hay địa ngục

16/01/201202:11(Xem: 13181)
08. Quan niệm Thiên đàng hay địa ngục

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG II
QUAN NIỆM THIÊN ĐÀNGHAY ĐỊA NGỤC

Tất cả những con người trên thế gian này đang sống giữa quãng đời đua chen, tranh đấu, tìm đủ mọi thủ đoạn để giành hơn thua lẫn nhau, kẻ giầu còn muốn giàu thêm, mọi người từ già đến trẻ, ai ai cũng ngày đêm suy nghĩ, tìm ra trăm phương ngàn kế để lo cho ta, cho gia đình rồi lại lo cho thân bằng quyến thuộc, làm sao cho hơn người khác, cứ như thế ai ai cũng mang trong người cái nghiệp, nghiệp tham, sân, si. Ít có ai nghĩ đến quả báo, một ngày nào đó rồi ta cũng phải chết, chỉ gặp một chút nghịch cảnh là hồn lìa khỏi xác. Bạn bè thân hữu như kẻ bạn đường, vàng bạc, châu báu, tiền của chỉ là phương tiện sinh nhai nào có chi chắc thật.

Cái chắc thật là linh hồn, còn gọi là thần thức, chỉ có linh hồn mới có cái thật, tất cả các tôn giáo, Phật Giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Nho giáo, Cao Đài Giáo, Hồi Giáo, Hòa Hảo... Các vị thánh nhân sáng lập ra các thuyết giáo, để truyền bá cho mọi người chỉ nhắm mục đích, răn dạy, khuyên bảo cho nhân loại trên thế gian loại bỏ các ý nghĩ và hành động gây nghiệp báo. Thật vậy, nếu ta chịu khó đọc sách, nghiên cứu và dành thì giờ đi nghe thuyết pháp của các vị chân tu truyền giáo, ta có thể cải đổi được bản ngã và hiểu được linh hồn là phần quan trọng đối với ta khi nhắm mắt ngàn thu.

Hiện nay chúng ta đang đứng giữa hai con đường, con đường nuôi thân ích kỷ, tham lam, ác độc, si mê dẫn đến địa ngục khổ đau. Con đường khác là nuôi tâm vị tha, bố thí, từ bi, sáng suốt dẫn đến thiên đàng, an lạc. Nếu ta theo con đường nuôi thân tội lỗi thì thân chúng ta phạm ba tội: Sát sanh, trộm cắp và dâm dục. Miệng phạm 4 tội: nói láo, vu oan giá họa, nói thêm bớt và chửi rủa. Ý ta cũng phạm 3 lỗi: Tham lam, sân hận và cuồng si. Bây giờ chúng ta quay về nẻo thiện thì thân, miệng và ý sẽ quay đầu trở lại: Thân không sát sanh mà phóng sanh, giúp người không cầu lợi, miệng nói lời chân thật, đứng đắn, hòa giải và dịu dàng, ý không tham lam mà phải bố thí, từ bi và sáng suốt. Ở đây, vì đức mỏng, tội dày nên chúng ta chưa dám nghĩ đến cảnh niết bàn của chư Phật đầy đủ 4 đức: Chân thường, chơn lạc, chơn ngã, và chơn tịnh mà tôi chỉ bàn đến ác và thiện, khổ và vui để định rõ hai con đường hầu giúp chúng ta cùng đi.

Tôi sinh ra và lớn lên hấp thụ trong một gia đình nho giáo, có lẽ đối với hiện tại thì đã lỗi thời, theo quan niệm của một số người. Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên được những điều tôi đã học, học sinh lúc đó đối với thầy rất tôn kính, trọng thầy như cha đẻ, sống thì tết chết thì giỗ, đã là đồng môn thì tất cả đều phải đóng góp để nuôi thầy, tết thầy, và khi thầy chết phải làm giỗ, cùng góp sức với các con đẻ của thầy.

Nếu chúng ta cứ lấy ân oán, để trả thù lẫn nhau thì không bao giờ hết. Khổng Tử cũng đã dậy cho ta rằng “Oan oan tương báo, ác giả ác báo, thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Nếu ai cũng cứ nghĩ đến hơn thua, ân oán giang hồ thì nghiệp chướng oan gia cứ chồng chất, không bao giờ hết nạn binh đao, không bao giờ hết được cái tội lỗi của con người đã gây ra.

Mạnh Tử cũng đã phát huy chủ thuyết Khổng Tử để khuyên răn người đời cần phải có Đức. Đức được tạo dựng bởi Đạo, Đạo là một con đường hướng dẫn ta đi đến Chân, Thiện, Mỹ hầu đạt được cái Đức, cho nên ngài đã nói “Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo”. Đạo không thể xa con người, người không thể xa Đạo, tất cả ai ai trên thế gian này cũng phải có Đạo. Đạo đây là đạo ông bà, cha mẹ đã để lại những lời vàng thước ngọc và các Đạo Phật, Đạo Khổng, Đạo Lão, Đạo Nho, Đạo Cao Đài, Đạo Hoà Hảo v.v...

Vậy, nếu ai chưa có Đạo thì hãy tìm lấy một con đường cho linh hồn khi quá vãng, đó là theo Đạo, Đạo Phật là Đạo từ bi hỷ xả, một trong những lời dậy của Đức Thế Tôn để ta lấy đó làm kim chỉ nam cho cuộc đời của mình là: “Lấy ân báo oán thì oán tiêu tan. Lấy oán báo oán, thì oán chồng chất.” Đến đây tôi xin dẫn giải một vài thuyết của các danh nhân: Lão Tử đã nói: “Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu thân, nhược ngô vô thân hà hoạn chi hữu” Ta có hoạn lớn do ta có thân, bằng ta không thân làm gì có hoạn. Không phải ta tạo tội mà cứ chịu quả báo nhất định, mà theo Phật dậy, ta còn có phương pháp cải thiện được, không có gì khó, một anh đồ tể nếu biết ăn năn hối cải buông dao sám hối cũng có thể thành Bồ Tát được.

Nho giáo có câu: 

Thế sự vô vạn sự.
Đô lại tâm bất chuyên,

Tạc sơn thông đại hải,

Phi vụ đỗ thánh thiên.

Tạm dịch :

Ở đời không có việc gì khó,
Đều do Tâm không chuyên mà thôi,

Có thể đục núi thông ra biển,

Vén mây núi thấy trời xanh.

Lại có câu “Nhất chí đông khí, nhơn định thắng thiên”. Nghĩa là quyết chí thì có một năng lực mạnh, mình định lấy nghiệp mình không phải trời làm cho. Vì chúng ta không chịu làm, cứ xuôi tay theo định mệnh thế thôi, bằng muốn cải thiện cho khỏi tai ương cũng như quả báo nơi địa ngục, thì nên cố gắng tập ăn chay, không sát sinh, thường ngày tụng kinh niệm Phật, nhờ Phật cầu sanh về Tịnh Độ, chớ có chần chờ, thân người khó đặng, Phật Pháp khó gặp, sống ngày nay khó bảo đảm ngày mai, thân như cá cạn nước, có vui gì mà chẳng lo tu.

Nếu ai không hiểu được thế nào là địa ngục, linh hồn đi về đâu sau khi qua đời, chỉ biết sống cho hiện tại, bồi đắp cho thể xác không nghĩ đến kiếp sau, khi thân xác này trong tích tắc đã qua đi, linh hồn sẽ trở về địa ngục vì ta đã quá tham lam, ích kỷ, gây nhiều tội ác. Địa ngục, âm phủ, danh từ này không phải xuất xứ từ các tôn giáo, mặc dầu tôn giáo nào cũng nhìn nhận có địa ngục, âm phủ, ngước lên trời ta thấy bầu trời xanh bao la, thanh bạch, nhìn xuống ta thấy hỗn loạn ô trược. Do đó, người ta có một khái niệm rõ rệt về âm, dương hay thiên đàng, địa ngục vậy.

Lão giáo cho rằng: “Khinh quang thắng thượng, trông ám trầm học”. Đạo Gia Tô gọi là thiên đàng, tất cả các tín đồ Thiên Chúa dường như ai cũng thuộc lòng câu “Ai làm lành tin theo Chúa, được lên thiên đàng, ai làm ác phải bị phạt nơi địa ngục” Phật Giáo nói: “Ba cõi dục giới, vô sắc giới, cộng chung có 38 cõi trời và theo Duy Thức luận: “Nhất thiết do tâm, vạn pháp duy thức”. Thiên đàng hay địa ngục đều do Tâm tạo, cho đến siêu lên giải thoát thành Phật cũng đều do Tâm, những hiện cảnh đang thấy đây là địa ngục, thiên đàng nơi xa xôi thanh bạch hoặc mờ ám kia cũng do Tâm tạo ra cả. Cao Đài Giáo trong bài sám hối có câu:

- Hình bảo lục, cột đồng vòi vọi,
- Đốt lửa hồng, ánh sáng chói loà,
- Trói người vào đó xát chà,
- Vì chưng hung bạo, đốt nhà bắn săn.

Nói tóm lại các tôn giáo đều công nhận và quả quyết rằng có “Địa ngục”. Người ngoài các tôn giáo kém lòng tin cũng phải nhận có địa ngục như: Hiện cảnh nơi khám đường, những người có bổn phận điều tra giám sát hiện nay họ đâu có thù oán gì, mà cứ tra tấn đánh đập tội nhân, cũng như quỷ sứ hiện tại há thù hằn gì với vong giả mà cứ cưa xẻ, đánh đập như vậy, đó là oan gia thù đối nhiều kiếp, nên tạo cảnh khám đường cũng như địa ngục nên Nho Giáo có câu “Dương gian âm phủ đồng nhất lý”.

Lênh đênh qua cửa trần phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm

Thế mà chẳng biết nổi lên ở đâu? Chìm xuống ở đâu? Khéo tu những gì? Và vụng tu là sao?. Nếu ta chịu khó tìm hiểu, nghiên cứu, tham khảo và chuyên cần đi chùa lễ Phật, đi nghe thuyết giảng của các vị chân tu truyền giáo những điều của các thánh nhân để lại trong các kinh sách, ta có thể tạo cho Tâm có được niềm tin để tu thân, tích đức vậy.

Trời Phật ở tại lòng ta
Làm lành, lánh dữ, ấy là đức tin
Ta tin có trời, có đất
Có mưa, có gió, có ngày, có đêm
Hết đêm trời lại bừng sáng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2025(Xem: 123)
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central. Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.
15/01/2025(Xem: 107)
Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.
15/01/2025(Xem: 130)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi. Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.
15/01/2025(Xem: 106)
Bài này sẽ nói về vai trò của người cư sĩ với nhiệm vụ nên học nhiều về Kinh điển, nên hiểu Phật pháp cho thâm sâu, nên tu tinh tấn để làm gương cho người đời thường, và nên sống đơn giản nhằm thích nghi với mọi hoàn cảnh cần để hoằng pháp. Không phải ai cũng có cơ duyên để học nhiều về Kinh điển. May mắn, thời nay chúng ta đã có kinh điển dịch ra tiếng Việt rất nhiều. Các Kinh điển, Bộ Nikaya và Bộ A Hàm đều đã dịch ra tiếng Việt. Trong khi đó, các buổi giảng Kinh do nhiều vị tăng ni thực hiện đã phổ biến nhiều trên YouTube và các trang web về Phật học. Những gì thắc mắc, có thể hỏi trên mạng Google hay các mạng trí tuệ nhân tạo, như ChatGPT hay Gemini, đều có thể được giải thích ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên các giải thích này đều khả vấn, có khi là trích dẫn theo sự giải thích của các học giả Ky Tô Giáo hay không phải Phật tử, cần kiểm chứng.
15/01/2025(Xem: 105)
Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.
15/01/2025(Xem: 118)
Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
15/01/2025(Xem: 118)
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.
15/01/2025(Xem: 104)
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.
19/10/2024(Xem: 753)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]