Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Con người, Thiện và Ác

16/01/201202:11(Xem: 7610)
09. Con người, Thiện và Ác

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
CON NGƯỜI, THIỆN VÀ ÁC

Dân tộc Việt Nam từ ngày lập quốc, đã trải bao thế hệ. 18 đời Vua Hùng Vương đã tạo dựng Đinh, Lê, Lý, Trần... để bảo vệ và phát huy nền văn hóa cho các từng lớp nhân dân, mà con người là “Linh ư vạn vật”. Trời, Phật đã ban cho con người có bộ óc siêu việt, chúa tể muôn loài, Trời, Phật lại ở trong lòng ta. Phật tại Tâm, người là một vũ trụ thu gọn, nên ông bà ta thường nói: “Vũ trụ giai bị ư ngã, phản thân nhi thành lạc mạc đại yên”. Tức là Vũ Trụ ở trong ta mọi việc đều an vui.

Bản chất thật của con người vốn chí thành, ông bà ta thường nói “Chí thành thông thánh”. Lại nói: “Thành giả thiên chi đạo giả”, tức thành là đạo Trời Phật vậy. Khi tôi còn thơ ấu, cắp sách đến thầy Đồ Nho, đó là ông Bác, anh của Bố tôi. Ông thường dậy tôi rằng: Làm người phải sống cho ra người, đói cho sạch, rách cho thơm. Người như ngọc, nhưng ngọc mà không dũa cũng trở thành vô dụng, tức là người tuy là “Linh chi vạn vật” nhưng người phải được giáo dưỡng mới ra con người. Đạo làm người là căn bản cho nền giáo dục, không theo được đạo làm người thì cũng không thể theo được các Đạo Phật, Đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa, Tin Lành...

Thầy tôi còn dậy: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Có học mà không có hạnh con người cũng vô dụng. Phải học lễ phép trước, biết tôn sư học đạo, biết các lễ nghi gia giáo, biết tôn ty trật tự, tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em... Cho nên các cụ thường nói phải “Kính trên nhường dưới, kính lão đắc thọ, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn, con chim có tổ, con người có tông”. Nền giáo dục của Á Đông và nhất là đối với dân tộc Việt Nam là như vậy. Đó chính là đạo làm người vậy. Không thể viện dẫn bất cứ một lý do nào đó, để tự hủy diệt nền văn hóa của tiền nhân để lại.

Nền giáo dục là căn bản để tạo cho con người phải biết có TÂM và THÂN, hay thể xác và tinh thần, vì con người ngoài tính người hay được gọi là nhân tính, thiên tính, còn có xã hội tính, hợp quần tính và dân tộc tính. Giáo dục là tu luyện hoàn hảo của con người để hướng thượng. Đức Phật Thích Ca đã tu thành Phật, nhưng ngài lại trở lại nhân gian với hạnh Bồ Tát, để cứu giúp chúng sanh, truyền bá đạo pháp của ngài, để giáo dục con người ác độc trở thành con người có bản ngã lương thiện, biết tu tâm, tích đức, làm lành, lánh dữ. Đức Phật cũng đã dậy cho ta rằng: "Lấy ân báo oán thì oán tiêu tan, lấy oán báo oán thì oán chồng chất” hay Khổng Tử cũng đã truyền lại cho ta rằng “Oan oan tương báo, ác giả ác báo” Thiện ác đáo đầu chung hữu báo.

Lão Tử: Về hiện tượng học, Lão Tử đã dậy rằng:

“Người Đức cao” là người đạt Đạo, là chính Đạo, Đức là sự thực hiện Đạo. Người Đức cao có Đạo trong mình và không cần thực hiện Đạo hay “không có Đức”. Nhưng chính vì thế ông có Đức; Đức nằm sẵn trong ông rồi.

“Người Đức thấp” chưa hoàn toàn làm một với Đạo, nên cần phải có Đức hay thực hiện Đạo. Ông chưa có Đức nằm sẵn trong lòng Ông.

Người đức cao không làm, và không có gì để làm.
Người đức thấp làm, và có cái để làm.
Người nhân cao làm, và không có gì để làm.
Người nghĩa cao làm, và có cái để làm.
Người lễ cao làm, và không được đáp ứng, cho nên xắn tay áo bắt người ta theo.

Lão Tử phân biệt và mô tả tiến trình sa đọa từ người có Đức cao đến người có lễ cao.

Người Đức cao không làm, và không có gì để làm. Ông làm một với Đạo và không có gì để làm nữa.

Người Đức thấp còn làm hay thực hiện Đạo và thấy có chỗ để thực hiện Đạo. Ông chưa thấy Đạo với mình là một.

“Người nhân cao làm”. Làm ở đây là thực hiện Đức nhân hay Đạo. Ngài thấy đời thiếu Nhân và muốn đem Nhân vào đời. “Và không có gì để làm”: Ngài không có những cái thuộc lãnh vực vật chất để làm. Người ta hay cắt nghĩa “Không có gì để làm” là “làm theo ý riêng tư”. Nhưng đâu là ý riêng tư của người Nhân?

Người nghĩa cao làm là làm theo những qui luật đạo lý của xã hội. Ai không theo sẽ bị người lễ cao xắn tay áo bắt phải làm theo. Lão Tử không nói người lễ cao, người nghĩa cao, người nhân cao, người Đức thấp là xấu. Họ tốt nhưng chỉ không tốt bằng người Đức cao. Cho nên sau khi mất Đạo, người ta tìm đến Đức.

Sau khi mất Đức, người ta tìm đến Nhân.
Sau khi mất Nhân, người ta tìm đến Nghĩa.
Sau khi mất Nghĩa, người ra tìm đến Lễ.
Lễ là cái vỏ mỏng của Trung Tín và là cái đầu của loạn.

Như vậy Lão Tử xếp theo thứ tự từ trước đến sau như: “Đạo, Đức, Nhân, Nghĩa, Lễ”. Đức là Đạo thể hiện nơi hành vi của con người và ở dưới Đạo. Khi nói đến Đức là nói đến thực hiện Đạo. Có mất Đạo mới nói đến việc thực hiện Đạo. Nhân, Nghĩa, và Lễ, Lão Tử xếp sau Đức. Con người đã sa đọa từ Đạo đến Lễ. Khi Trung Tín không còn nữa, người ta nói đến Lễ. Khi loạn lạc bắt đầu người ta nói đến Lễ.

“Biết trước” là hoa (vẻ đẹp bên ngoài) của Đạo, và là khởi thủy của dốt nát.

Cho nên bậc đại trượng phu ở chỗ hậu hĩ chứ không ở chỗ đạm bạc, “ở chỗ quả chứ không ở chỗ hoa”.
Cho nên ngài bỏ cái ở ngoài, mà giữ cái ở trong. 
“Biết trước” là sự biết về sự vật. Lẽ dĩ nhiên phải có Đạo xuất hiện, người ta mới biết về sự vật. Nhưng tự nhiên con người biết về sự vật mà không cần suy tư. Đó là sự biết trước khi suy tư. Sự biết về sự vật đặt nền tảng trên sự biết về Đạo. Vì thế nói sự biết trước là hoa, hay vẻ bề ngoài của Đạo. Nó là khởi thủy của dốt nát, vì nó trở nên sự biết duy nhất, người ta vì nó bỏ quên mất Đạo. Những người trượng phu hay người hiểu biết đích thực cư ngụ nơi chỗ hậu hỹ hay qủa (Đạo) chứ không ở chỗ đạm bạc hay hoa (sự vật).

Trên đây tôi trích một đoạn hiện tượng học của Lão Tử để quí độc giả suy nghiệm và liên hệ đến đời sống hàng ngày của mình mà tu tập hầu cải tiến cho phù hợp với đời sống cá nhân, gia đình và xã hội mà mình hiện đang sống. Mọi người chúng ta nên luôn luôn ghi nhớ là “Đạo Đức” là kim chỉ nam cho cuộc đời của chúng ta, nếu con người không có Đạo Đức thì con người sẽ trở nên độc ác và tàn bạo, chỉ với lòng tham lam, sân hận và si mê, cho nên Mạnh Tử đã phát huy học thuyết Khổng Tử và khuyên dậy cho chúng ta rằng: “Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân”. Đạo không thể xa người, người không thể xa Đạo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 76852)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 121131)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 24406)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13263)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8534)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
09/04/2016(Xem: 15455)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
05/01/2015(Xem: 19069)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
31/10/2013(Xem: 17205)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 34530)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
27/05/2013(Xem: 6482)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Hoàng Lộ,Bệ Lan Nhã, bấy giờ Vua Thần (Vua A Tu La) có tên là Bà La La và Thái Tử Thần tên Mâu Lê Già có tướng sắc uy nghi, ánh sáng chói lọi, vào lúc quá nửa đêm đến chỗ đức Phật đảnh lễ rồi đứng một bên. Khi ấy, đức Phật hỏi: -Này Bà La La, có phải mọi Thần đều không bị suy thoái về tuổi thọ, hình sắc,vui vẻ, sức mạnh, cho nên các Thần thích sống trong biển lớn chăng?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567