Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5. Sự khác biệt giữa Phật giáo và phi Phật giáo

19/02/201105:23(Xem: 8209)
5. Sự khác biệt giữa Phật giáo và phi Phật giáo

PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền

5. Sự khác biệt giữa Phật giáo và phi Phật giáo

5.1. Hữu thần và vô thần

Phật gíao là tôn giáo vô thần luận nhưng không phải là duy vật luận. Phật giáo chủ trương hết thảy mọi hiện tượng ở đời đều do nhân duyên sinh khởi và huỷ diệt. Sự hình thành của thế giới chúng ta đang sống là do sự chiêu cảm của tất cả các nghiệp báo của những chúng sinh được sinh ra trong thế giới này tạo ra từ nhiều đời kiếp. Được gọi là „ nghiệp quả“ hay „nghiệp báo thể“. Cùng chung một hoàn cảnh là do cộng nghiệp sở cảm, còn thân tâm và hoàn cảnh riêng là do sở cảm của biệt nghiệp tạo ra. Tất cả đều do chúng sinh tự tạo mà không do thần thánh dựng lên, nên là tôn giáo vô thần luận. Nhưng Phật giáo không phủ nhận sự hiện hữu của quỷ thần. Chỉ khác là Phật giáo xem những quỷ thần ấy cũng là một loại chúng sinh mà không phải là chủ tể của vũ trụ.

Ngoại trừ Phật giáo ra các tôn giáo khác đều là tôn giáo thần luận gồm ba dạng.

5.1.1. Tín ngưỡng nguyên thuỷ đa thần

Cho rằng mọi hiện tượng trong vũ trụ đều do những vị thần khác nhau nắm giữ như thần núi, thần sông, thần biển, thần cây, thần cỏ, thần bếp núc, thần nhà cửa... Tất cả mọi sự vật hiện tượng đều do thần linh chi phối, các vị thần này không phụ thuộc nhau và không có lãnh tụ.

5.1.2. Hình thức tín ngưỡng đa thần trung ương tập quyền

Nghĩa là sẽ có một vị thần đứng trên thống nhiếp tất cả các thần khác như đạo Giáo của Trung Quốc có Nguyên Thuỷ Thiên Tôn chính là Ngọc Hoàng Thượng Đế hay Bà La Môn giáo của Ấn Độ có Phạm Thiên.

5.1.3. Tôn giáo duy nhất thần luận

Tin rằng vị thần mà mình đang tin theo là người duy nhất có khả năng sáng tạo và huỷ diệt vũ trụ, là Đấng sáng thế, là vị Chúa tể của muôn loài, còn tất cả những vị thần khác đều là ma quỷ như niềm tin của Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo (Thiên Chúa giáo, Tin Lành), Hồi giáo.

5.2. Sự khác biệt giữa tịnh hoá
với thần hoá và tục hoá

Thần hoá là đặc trưng của tất cả các tôn giáo ngoại trừ Phật giáo. Họ tin tưởng rằng có Đấng bậc thần linh nắm giữ chi phối mọi hoạ phúc ở đời và người tín đồ đem cả vận mạng của mình giao phó cho bậc thần thánh đó. Có tôn giáo tin rằng thần của họ có năng lực toàn năng có thể cho họ lên thiên đàng và cũng có thể đày họ xuống địa ngục, không phải do làm thiện được lên thiên đàng hay tạo tội đoạ đường ác, mà được xét duyệt trên căn bản có tuyệt đối tin và phục tùng theo vị thần đó hay không. Người tin theo thì được sinh lên trời, người không tin theo thì đắc tội và sẽ bị đoạ vào địa ngục. Lại có tôn giáo cho rằng dựa vào sức mạnh và sự gia trì của thần linh thì sẽ tu luyện thành Thần, thành Phật. Tất cả những tôn giáo này có thể giải quyết một phần nào những vấn đề trước mắt còn những vấn đề phát sinh sau đó hay vấn đề cơ bản nhất thì không thể giải quyết được.

Tín ngưỡng tục hoá là lấy việc cúng lễ để lấy lòng thần linh đặng thần linh ban giáng cho những tài lợi mà mình cầu mong ở trên đời. Như cúng thần tài cầu phát tài, lạy Mẹ Sinh Mẹ Độ, Chú Sinh Nương Nương cầu con cái, tin Mã Tổ Thiên Hậu để thần biển độ đi biển bình an, bói toán cầu Hoàng Thạch Công, lạy Thổ Địa cầu trúng số, ngày lễ tết cúng vái tổ tiên, thần đình cầu gia hộ cho con cái bình an tất cả đều là tín ngưỡng tục hoá.

Phật giáo không phủ nhận lợi ích nhất định của tín ngưỡng tục hoá hay tôn giáo thần hoá nhưng nhấn mạnh và khẳng định lợi ích to lớn hơn của Phật giáo là tịnh hoá thế đạo nhân tâm. Phật giáo lấy Tam Bảo Phật Pháp Tăng để hoá đạo thế gian, lấy ngũ giới để tịnh hoá hành vi ngôn ngữ của chúng sinh. Lại lấy công phu thiền định để tịnh hoá hành vi tâm lý. Phật giáo càng chủ trương lấy trí tuệ để xử lý mình và làm lợi ích cho người. Nếu y theo giáo lý Phật giáo để tu tập thì với bản thân sẽ được thân tâm yên ổn, đối với tha nhân thì gia đình an vui hoà thuận, xã hội ổn định. Sự tịnh hoá trong Phật giáo dung nhiếp cả công năng của thần hoá cùng sức mạnh của tục hoá nhưng không vì thế mà tạo nên sự trói buộc cho bản thân hay làm mất quân bình trong xã hội.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/09/2018(Xem: 8861)
Thái tử Siddhãrtha Gautama (Pãli) hay Siddhattha Gotama (Sanskrist) hoặc Sĩ-Đạt-Ta (Tất-Đạt-Đa) Cồ-Đàm, sau khi thành đạo được các Phật tử tôn kính xem Ngài là một bậc đạo sư vĩ đại, vì Ngài là người đã giác ngộ viên mãn, là người tự biết mình thực sự thoát khỏi vòng quay luân hồi sinh tử, là người hiểu rõ được nguyên tắc vận hành khách quan của hiện tượng thế gian. Sau đó truyền bá kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người hữu duyên không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dạy họ phương pháp tu tập chấm dứt khổ đau phiền não trong cuộc sống thế gian, hầu kinh nghiệm được hạnh phúc tối thượng.
15/12/2017(Xem: 77552)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 122248)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 24715)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13461)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8690)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
09/04/2016(Xem: 15532)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
05/01/2015(Xem: 19240)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
31/10/2013(Xem: 17295)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 34814)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567