Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quan Niệm Phật Giáo Về Chính Quyền

27/03/201321:09(Xem: 5156)
Quan Niệm Phật Giáo Về Chính Quyền

Quan Niệm Phật Giáo Về Chính Quyền
Gunaseela Vitanage - Đăng Nguyênlược dịch

GMHK-01.04Phật giáo, giống như những tôn giáo khác, nhấn mạnh vào những giá trị tinh thần hơn là vào những giá trị vật chất; vào việc buông xả những tài vật của thế gian hơn là chấp chặt vào chúng; và vào khía cạnh tâm linh của đời sống hơn là vào khía cạnh trần tục của nó. Tuy nhiên, Phật giáo không hoàn toàn không quan tâm đến phương diện đời sống vật chất và thế tục. Trong thực tế, có một bản kinh Phật có tên là Giáo thọ Thi-ca-la-việt(Singālovāda Sutta), giảng giải về những luật tắc dành cho đời sống của người tại gia. Bản kinh đặt ra những bổn phận của một người tại gia đối với người khác cũng như những phương pháp rèn luyện bản thân để trở thành một công dân tốt và hữu ích. Những kinh sách Phật giáo cũng đặt ra một số quy chuẩn đạo đức cho người lãnh đạo cũng như dân chúng. Chúng cũng đề cập đến những hình thức nhà nước thịnh hành vào thời bấy giờ; và thật ý nghĩa, cho thấy rằng Đức Phật thể hiện sự ủng hộ hình thức nhà nước dân chủ.

Chúng ta cần phải nhớ rằng Đức Phật sinh vào trong một xã hội, mà nói một cách tương đối, là tiến bộ về phương diện chính trị, và xã hội mà qua các thời đại đã phát triển một số tư tưởng lành mạnh về tổ chức nhà nước. Trong luật Manu, những người Hindu đã có những luật lệ để hướng dẫn họ trong những bổn phận dân sự của họ. Manu, giống như Moses của Thánh kinh Thiên Chúa giáo, là người làm luật huyền bí của Ấn Độ. Những luật này thảo luận không chỉ về quyền của người cai trị, mà cũng về những bổn phận của họ đối với thần dân của họ. Chúng cũng thảo luận về những nghĩa vụ của dân chúng đối với người cai trị và cũng như những quyền của họ. Do đó, cần có một vài ý kiến về quan điểm của người Hindu về chính quyền, nếu chúng ta muốn đánh giá đúng những quan điểm của Phật giáo về vấn đề này.

Luật matsya nyaya

Quan điểm của người Hindu về chính quyền được đặt cơ sở trên một lý thuyết được gọi là matsya nyaya, mà nó có nghĩa đen là “luật con cá”.

Thuật ngữ matsya nyayacó thể dịch là “luật của kẻ mạnh đè kẻ yếu/ luật rừng”. - “Tại sao cần nên có chính quyền ở cuộc đời này?” “Tại sao cần nên có một số người lãnh đạo những người khác?” “Tại sao cần nên có những luật lệ mà người ta buộc phải tuân theo dựa trên hình phạt?” Những nhà tư tưởng Hindu đã trả lời những câu hỏi này bằng việc xác định một luật tự nhiên căn bản: “Matsya nyaya”, luật mà qua đó một con cá nhỏ trở thành mồi của một con cá lớn.

Chính quyền, những người cai trị và luật lệ là cần thiết để ngăn chặn luật tự nhiên này có tác dụng ở trong xã hội loài người. Loại bỏ chính quyền, loại bỏ những người cai trị và loại bỏ luật lệ, xã hội loài người sẽ thoái hóa trong một tình trạng hỗn loạn mà trong đó kẻ mạnh hơn sẽ hủy diệt kẻ yếu hơn. Luật Manunói, “Nếu không có quy định và luật lệ, kẻ mạnh sẽ nuốt chửng kẻ yếu giống như những con cá.” Thánh điển Mahabharatanói, “Nếu không có người cai trị để thi hành sự trừng phạt ở trên trái đất, kẻ mạnh sẽ nuốt chửng kẻ yếu giống như những con cá ở trong nước. Điều này có liên quan đến sự băng hoại trong thời đại của người xưa, do vì vô chính phủ nên họ ăn nuốt lẫn nhau như con cá mạnh bắt con cá yếu làm mồi”.

Điều này cho thấy rằng lý thuyết về chính quyền của người Hindu được đặt cơ sở nơi niềm tin rằng bản chất của con người vốn đồi bại bẩm sinh. Nếu không có một chính quyền mạnh để kiểm soát con người, kẻ mạnh hơn sẽ hủy diệt kẻ yếu hơn, giống như con cá lớn hủy diệt con cá nhỏ ở ngoài biển. Chính quyền, người cai trị và luật lệ trở nên cần thiết để ngăn chặn luật “matsya nyaya” này có tác dụng ở trong xã hội loài người.

Học thuyết về chính quyền này một cách tự nhiên đưa đến hệ quả rằng, cần phải có một chính quyền kiểm soát, và rằng chính quyền phải được trao cho quyền trừng phạt hay còn gọi là danda.

Quốc vương Hindu như vậy buộc phải chọn chính sách bốn bậc (caturopaya) trong việc cai trị dân chúng: sama, dana, danda, và bheda. Sama có nghĩa là hòa bình: người trị vì tài trí phải duy trì hòa bình cho thần dân. Dana có nghĩa là từ thiện (bố thí): người trị vì tài trí phải thực hiện từ thiện. Danda có nghĩa là trừng phạt: người trị vì tài trí trừng phạt tội phạm theo các mức độ phạm tội. Bheda có nghĩa là tạo nên sự chia rẽ khi cần thiết: người trị vì tài trí phải tạo ra những bất đồng trong dân chúng để vị trí của ông ta được bảo đảm. Nói cách khác, ông ta phải chọn chính sách “đường phân giới và sự cai trị”.

Tình hữu nghị

Quan điểm của Đức Phật hoàn toàn khác với quan điểm của người Hindu, rằng matsya nyayalà luật cơ bản của tự nhiên. Ngài rõ ràng nhìn thấy sự đấu tranh cho việc sinh tồn mà nó quá hiển nhiên ở trong đời sống, nhưng điều này Ngài quy cho sự vô minh của con người hơn là bản tính xấu ác bẩm sinh. Đức Thế Tôn cũng thấy rằng con người luôn sẵn lòng sống trong hòa bình và quan hệ thân thiện với đồng loại của mình, để hợp tác với đồng loại của mình, và thậm chí hy sinh bản thân vì lợi ích của đồng loại, với điều kiện là họ được hướng dẫn đúng đắn. Theo cái nhìn của Đức Phật, luật lệ áp đặt từ quyền lực bên trên hay bên ngoài là không đủ để kiểm soát con người, mà cần thiết phải có sự hiểu biết tự thân và kỷ luật bên trong.

Luật kẻ mạnh hiếp kẻ yếu (The law of the jungle/ luật rừng) rõ ràng không phải là phổ quát ngay cả ở trong rừng. Có tình hữu nghị và sự hợp tác giữa những con thú ở trong rừng - như Đức Phật đã chỉ ra trong nhiều câu chuyện Jataka.

Do vì có sự khác nhau cơ bản nơi cách nhìn giữa Ấn giáo và Phật giáo, chúng ta thấy rằng Phật giáo ít nhấn mạnh vào quyền lực (bala) hay trừng phạt (danda). Ví dụ, chúng ta thấy rằng thay vì là chính sách bốn bậc (caturopaya) sama, dana, danda, bheda của người Hindu, kinh sách Phật giáo nói về catu-sangaha-vatthu, hay bốn cách thức hành xử. Đó là, bố thí (dana), ái ngữ (priya-vacana), tiết kiệm (artha cariya), và bình đẳng (samanatmata).

Như vậy, theo Phật giáo, vị vua đức hạnh nên thực hành bố thí (từ thiện). Bố thí ở đây không chỉ đem tài vật ban cho người nghèo mà cũng ban phát bổng lộc cho những người phục vụ nhà vua. Vị vua đức hạnh cũng phải thực hành ái ngữ, nói năng đúng đắn, tử tế. Ông ta không được sử dụng ngôn từ cay nghiệt và độc ác đối với người khác với bất kỳ lý do gì.

Nhà vua phải rèn luyện tính tiết kiệm. Từ artha cariyacó nghĩa là tinh thần phục vụ cũng như sự tiết kiệm và sống một đời sống giản dị. Vị vua hay người trị vì tốt cũng thực hành sự bình đẳng. Tức là, trong khi duy trì vị trí tối cao của người trị vì, ông ta không xem bản thân là kẻ tối thượng và dân chúng là kẻ hèn kém, và ông ta cũng học cách thực thi sự công bằng đối với nhân dân của mình mà không sợ hãi hay là như ban phát đặc ân. Một vị minh quân phải học đối xử bình đẳng với mọi người.

Mười phẩm hạnh dành cho vua(Dasa Raja Dharma/ Thập vương pháp)

Trong Thập vương pháp hay mười phẩm hạnh dành cho một vị vua, quan điểm Phật giáo về vương quyền được nói thêm. Mười phẩm hạnh của một vị vua bao gồm: bố thí (dana), giữ giới (sila), rộng lượng (pariccaga), trung thực (ajjavan), hòa nhã (majjavan), kiềm chế (tapam), không sân hận (akkodho), không bạo lực (avihimsa), nhẫn nhục (khanti), và từ ái (avirodhata).

Đức Phật cũng nhấn mạnh vào sự thật rằng cái xấu và cái tốt của dân chúng tùy thuộc vào sự hành xử của người trị vì họ; và vì cái tốt của dân chúng, Ngài đặt ra mười phẩm hạnh này để những người trị vì dân chúng thực hành. Trong Tăng chi bộĐức Phật nói rằng, “Này các Tỳ-kheo, khi một người trị vì đất nước tốt và đúng đắn, những quan thượng thư của họ sẽ trở nên tốt và đúng đắn. Khi các quan thượng thư trở nên tốt và đúng đắn, các quan lại sẽ trở nên tốt và đúng đắn. Khi các quan lại trở nên tốt và đúng đắn, các binh lính sẽ trở nên tốt và đúng đắn. Và, khi các binh lính trở nên tốt và đúng đắn, dân chúng sẽ trở nên tốt và đúng đắn”.

Mặc dù điều này đối với chúng ta là có phần đơn giản, tuy nhiên cần phải xem xét vấn đề này từ nơi xã hội đương thời, nơi hệ thống Bà-la-môn đã phân chia xã hội thành những đẳng cấp bất di bất dịch, và có một sự chấp thuận tôn giáo về sự phân chia đó...

Bình đẳng

Sự bác bỏ đẳng cấp và phân chia giai tầng của Đức Phật không chỉ là lý thuyết. Ngài thâu nhận thành viên của tất cả các đẳng cấp vào trong Tăng đoàn. Upali, trước đó là một thợ cắt tóc, Sunita trước đó là một người ngoài lề xã hội (ngoài đẳng cấp), đã nhận được sự kính trọng ở trong Tăng đoàn.

Đức Phật nói rằng: “Này các Tỳ-kheo, giống như tất cả những con sông lớn, đó là sông Hằng, sông Jammu, sông Aciravati, sông Sarabhu, sông Mahi, khi ra đến đại dương đều mất đi tên gọi ban đầu và đặc tính riêng của chúng và được đổ dồn vào trong đại dương. Cũng như vậy, Kshatriya, Brahmana, Vaisya và Sudra sau khi tham gia vào Tăng đoàn, đều mất đi những đặc tính trước đây của mình và trở thành thành viên của Tăng đoàn”.

Những nhà chiêm bái Trung Hoa như Pháp Hiền, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh cho chúng ta biết rằng những khái niệm dân chủ và bình đẳng này vẫn được cổ vũ ở Ấn Độ nhiều thế kỷ sau khi Đức Phật diệt độ.

Dân chủ

Sau khi đã thảo luận về quan điểm vương quyền trong Phật giáo, chúng ta phải tự hỏi rằng có phải Phật giáo xem nền quân chủ như là mô thức chính quyền lý tưởng? Vào thời Đức Phật, có một số vương quốc lớn ở Ấn Độ, chẳng hạn như Magadha và Kosala. Cũng có một số nhà nước dân chủ thời bấy giờ. Đức Phật rõ ràng đã bày tỏ sự ủng hộ hình thức nhà nước dân chủ và cũng bày tỏ quan điểm rằng hình thức nhà nước này có lợi cho sự ổn định xã hội.

Đề cập đến những chuẩn bị mà vua Ajatasattu thực hiện để tấn công vào một trong những xứ sở dân chủ - những xứ sở của người Vajjī - Đức Phật nói:

“Này Ananda, khi nào dân Vajjī thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này Ananda, dân Vajjī sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm…. Này Ananda, khi nào nghe dân Vajjī tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết, này Ananda dân Vajjī sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm… Này Ananda khi nào dân Vajjī, không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjī như đã ban hành thuở xưa thời, này Ananda, dân Vajjī sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm… Này Ananda, khi nào dân Vajjī tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjī và nghe theo lời dạy của những vị này, thời dân Vajjī sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm… Này Ananda, khi nào Vajjī không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajjī phải sống với mình thời, này Ananda, dân Vajjī sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm…”

Phật giáo đã có công rất lớn trong việc phát triển những hình thức nhà nước dân chủ ở Ấn Độ cổ đại. Đây là những gì mà M. Zetland, một cựu quan chức của Ấn Độ, nói ở trong phần giới thiệu cuốn sách Legacy of India:

“Thực vậy, chúng ta biết rằng khoa học chính trị - tiếng Sanskrit là Arthasastra - là một đề tài được ưa chuộng đối với các học giả Ấn Độ một vài thế kỷ trước kỷ nguyên Thiên Chúa giáo. Khế ước xã hội như là nguồn gốc của vương quyền được thảo luận trong tác phẩm nổi tiếng thời bấy giờ được cho là của Kautilya, một vị thượng thư của hoàng đế Chandragupta, khoảng 300 năm trước Tây lịch. Và dường như rằng dân chúng - những người thỏa thuận với nhau chọn một vị vua đã làm như vậy với mục đích rằng cần nên có quyền lực bên ngoài để có thể bảo đảm những luật lệ và quy định của những đoàn thể khác nhau - đã được tôn trọng… Đáng chú ý là khuynh hướng về chính phủ tự trị bằng những hình thức hoạt động đoàn thể khác nhau này đã nhận lấy sự thúc đẩy từ việc bác bỏ thẩm quyền của tầng lớp Tăng lữ và xa hơn bởi học thuyết về bình đẳng của Phật giáo, như trường hợp từ bỏ đẳng cấp. Quả thực, chúng ta cần phải lật giở kinh sách Phật giáo để tìm sự giải thích về kiểu thức những hội đoàn tự quản tiêu biểu đầu tiên được hướng dẫn như thế nào. Và nó có thể gây ngạc nhiên đối với nhiều người khi nhận thấy rằng các buổi hội họp của những Phật tử ở Ấn Độ hơn 2.000 năm trước đã hình thành nên những nguyên tắc căn bản mà việc họp Quốc hội của chính chúng ta ngày nay đang thực hành…”. n

(Nguồn: Bodhi Leaf No. 11, Kandy, Buddhist Publication Society, 2010, tr.137 / Nguyệt san Giác Ngộ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/09/2018(Xem: 8841)
Thái tử Siddhãrtha Gautama (Pãli) hay Siddhattha Gotama (Sanskrist) hoặc Sĩ-Đạt-Ta (Tất-Đạt-Đa) Cồ-Đàm, sau khi thành đạo được các Phật tử tôn kính xem Ngài là một bậc đạo sư vĩ đại, vì Ngài là người đã giác ngộ viên mãn, là người tự biết mình thực sự thoát khỏi vòng quay luân hồi sinh tử, là người hiểu rõ được nguyên tắc vận hành khách quan của hiện tượng thế gian. Sau đó truyền bá kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người hữu duyên không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dạy họ phương pháp tu tập chấm dứt khổ đau phiền não trong cuộc sống thế gian, hầu kinh nghiệm được hạnh phúc tối thượng.
15/12/2017(Xem: 77105)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 121573)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 24525)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13373)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8643)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
09/04/2016(Xem: 15484)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
05/01/2015(Xem: 19133)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
31/10/2013(Xem: 17232)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 34652)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567