Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tứ Diệu Đế - Bài Thiền Quán Số 1

12/06/201121:24(Xem: 3045)
Tứ Diệu Đế - Bài Thiền Quán Số 1

TỨ DIỆU ĐẾ - BÀI THIỀN QUÁN SỐ 1
1.Tám loại khổ
2. Ba loại khổ

daukho

Tám loại khổ

(i) Sinh:
* Có bao giờ ta nghĩ rằng: “Ước gì tôi chưa hề được sinh ra”? Bắt đầu từ
khi chào đời, ta trải qua biết bao đau khổ.

* Không những chỉ có sự đau đớn lúc chào đời mà thôi, ta còn trải qua
những đau khổ của lão, bệnh và tử.

* Cuối cùng, nó dẫn đến sự chia lìa ngoài ý muốn (với thân thể ta cho đến những
thứ mà ta quyến luyến).

* Sinh là trú xứ của phiền não, vì khi chào đời, ba thứ độc (tam độc)
cũng phát khởi và ta không thể nào có hạnh phúc, thay vào đó, ta chịu
đau khổ trong thân và tâm.

* Sinh được liên kết với những khuynh hướng tập khí tiêu cực, qua đó ta rất
quen với những vọng tưởng phiền não, khiến cho tâm ta bị chúng chỉ
huy và khống chế.

(ii) Lão:
* Bắt đầu ngay sau khi ta chào đời.

* Thân thể đẹp đẽ của ta bị hư hoại và ta mất đi vẻ đẹp. Một bậc thầy đã bình
luận: “Tuổi già đến chầm chậm là điều tốt, bởi vì nếu nó ập đến, sẽ có biết
bao nhiêu đau khổ.”.

* Sức mạnh và những giác quan của ta yếu đi.

* Sự thưởng thức đời sống qua các giác quan yếu dần.

* Ngài Jeng-nga-wa dạy rằng: “Nỗi đau của cái chết kinh khủng nhưng ngắn
ngủi, còn sự lão hóa thì đáng sợ biết chừng nào!”.

(iii) Bệnh:

* Đau đớn và khổ não gia tăng và ít khi vắng mặt. Điều này tạo ra sự đau khổ tinh thần.

* Ta phải uống thuốc và ăn những món không ngon miệng v.v…, trải qua những cuộc giải phẫu.

* Ta mất sinh lực và không còn ham muốn những thứ lôi cuốn.

* Khi ta bệnh, đôi khi ta không thể nhìn những món ăn ta thích mà không cảm thấy ngao ngán.

(iv) Tử:

* Ta phải chia lìa với những điều ta thích.

* Ta phải chia tay với người bạn đời, thân quyến và bạn bè.

* Ta còn phải xa lìa vật sở hữu quý báu nhất của mình, tức thân thể ta.

* Khi chết, thân thể ta có thể chịu nhiều đau khổ.

(v) Gặp những gì không vừa ý:

* Chỉ cần gặp kẻ thù hay những người ta không thích là ta đã cảm thấy
không vui lòng.

* Lúc nào ta cũng lo ngại kẻ thù sẽ hại ta ra sao.

* Ta sợ nghe người khác nói những lời không vui, chỉ trích ta v.v…

* Ta sợ phải đối diện với cái chết, dù đó là điều hiển nhiên.

(vi) Chia lìa với những điều vừa ý:

* Khi phải chia tay với một người thân, tâm ta nặng trĩu âu sầu.

* Ta nhớ những người và vật mà ta phải chia xa.

* Ta thường không có dịp gặp lại những gì ta đã mất và khi chết, ta phải chia lìa với mọi thứ, ngay cả thân thể ta.

(vii) Không được những gì ta muốn:

* Ta bị thất vọng nặng nề khi ta làm việc tích cực để đạt được điều gì, nhưng lại không thành công.

* Tệ hơn nữa, khi ta làm việc tích cực vì một điều gì, nhưng đối thủ của ta lại đạt được những gì ta tìm kiếm.

* Ta tốn nhiều công sức để thỏa mãn những nhu cầu của mình, nhưng không
có gì bảo đảm là ta sẽ nhìn thấy kết quả của công lao này.

Ngũ uẩn (năm thành phần cấu tạo):

* Đây là năm uẩn ô nhiễm mà ta chuốc lấy từ nghiệp lực và phiền não.

* Chúng là điều chứa những đau khổ ta phải trải qua trong tương lai.

* Dựa trên những uẩn này, ta cảm nhận khổ vì đau khổ, khổ vì thay đổi và khổ vì
điều kiện.

Ba loại khổ

(i) Khổ vì Đau Khổ:

* Quán chiếu những cảm giác đau khổ mà ta đã trải qua. Cái đau khi thân thể ta bị thương; nỗi khổ tâm vì điều này và vì người khác không tử tế với ta.

(ii) Khổ vì Thay Đổi:

* Quán chiếu khi ta xem những cảm giác vui sướng là hạnh phúc hoàn hảo,
không vướng khổ và mang đến cho ta hạnh phúc vĩnh cữu.

* Rồi quán chiếu rằng những cảm giác vui sướng này sẽ chắc chắn thay đổi và
ta lại không tránh được đau khổ.

* Nghĩ đến lúc ta ăn một món ngon, thấy nó ngon vô cùng, nhưng nếu ăn
nhiều quá, ta sẽ no rồi cảm thấy khó chịu. Nếu ta ăn quá nhiều, ta sẽ không thể
nào nhìn món ăn này nữa.

* Nếu ta lạnh và ra ngồi ngoài nắng, ta thấy ấm, nhưng nếu ngồi quá lâu, ta sẽ bị cháy da.

* Đây là nỗi khổ vì thay đổi: Nó là sự vắng mặt tạm thời của khổ nhưng không thể
mang đến cho ta sự sung sướng lâu dài. Tất cả những niềm vui sướng của ta đều
là như thế.

(iii) Khổ vì Điều Kiện

* Điều này nói về các uẩn bị ô nhiễm.

* Quán chiếu rằng, ngày nào ta còn tái sinh trong thân ngũ uẩn ô nhiễm này, ta sẽ
phải tiếp tục trải qua muôn vàn đau khổ.

Sau khi quán chiếu các nỗi khổ khác nhau theo cách này, ta hãy khởi tâm nhận rõ rằng kiếp sống luân hồi của ta đầy đau khổ.
Nhận ra điều này, ta hãy khởi tâm nhàm chán những nỗi khổ cũng như các thú vui trong kiếp luân hồi, bởi vì chúng quyện chặt vào nhau.
Qua đó, phát nguyện mạnh mẽ rằng ta sẽ nhận diện nguồn gốc của những nỗi khổ và quyết tâm loại trừ chúng.


Ghi chú:Xin hồi hướng công đức đến sự toàn giác của tất cả chúng sinh. Mọi sai sót là lỗi của người dịch. Quan Âm Thiền Phật Học Viện, Lozang Ngodrub, Lozang Pema dịch và hiệu đính tại Brisbane, Queensland, tài liệu phân phát nhân dịp Ani Lozang Tsewang hướng dẫn bàn luận và thiền luận về đề tà̀i trên tại Chùa Linh Sơn, 89 Rowe Terrace, Darra Queensland, vào ngày 21 tháng 7 năm 2007.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2011(Xem: 7989)
Giảithoát là một thắng đức trong ba đức của Phật: Pháp Thân,Bát Nhã, Giải thoát. Nếu như ba thắng đức ấy hoàn toànviên mãn thì gọi là Phật. Vậy nên giải thoát hoàn toànvà tuyệt đối là sự chung kết của Phật Đà, cũng là chỗxu hướng chung của mọi loài chúng sanh. Không những nhân loại mà loại nào cũng thế vì đang ở trong mê lầm đau khổ nênđều có quan niệm lánh khổ tìm vui, mong cầu giải thoát.Cũng vì vậy người đời thường gọi Đạo Phật là đạogiải thoát chung cho tất cả chúng sanh, hay gọi là tôn giáocủa chúng sanh đau khổ.
03/01/2011(Xem: 12432)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
11/12/2010(Xem: 14448)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
13/11/2010(Xem: 3996)
ánh"không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyếtquan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyếtbị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất. Các tác giảchống Phật giáo thường không hiểu rõ hay ngộ nhận ý nghĩacủa hai chữ sắc và không trong đạo Phật. Họ lẫn lộnhoặc lợi dụng vào hiện tượng đồng âm dị tự trong tiếngViệt và Hán Việt, đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khácnội dung làm một, để bôi bác giáo lý của đạo Phật.
06/11/2010(Xem: 8820)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
28/10/2010(Xem: 3297)
Hỏi:Một lần, tôi có đọc được một đoạn của bài viết trong báo Giác Ngộ như sau “Khi được hỏi con người ở thế giới này từ đâu có, trong một bản kinh Phật trả lời: có những vị Trời sắp hết phước, họ nhìn xuống thế giới này thấy có ánh sáng liền tìm đến. Tới nơi, họ ăn thử trái cây nơi đây thấy ngon, liền mất thần thông nên ở lại luôn, làm tổ tiên loài người…”. Xin cho biết xuất xứ của đoạn kinh trên và tóm tắt ý chính của kinh. Quan điểm của Phật giáo về nguồn gốc loài người có sự khác biệt như thế nào so với các lý thuyết khoa học đương đại?
23/10/2010(Xem: 9616)
Trên đời này có những người có chánh kiến, tin rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chánh hành trì Chánh pháp, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên nhân chánh kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này (Trung Bộ kinh I)
16/10/2010(Xem: 3364)
Đạo Phật tồn tại trên thế gian cách đây hơn 2.500 năm. Ngoài nền tảng giáo lý vượt thời gian và không gian, thích ứng với cuộc sống con người trong giai đoạn mới thì yếu tố để hình thành nên phẩm chất đạo đức con người chính là sự góp phần bằng Đạo hạnh của người tu sĩ, mà công hạnh ấy được xây dựng trên nền tảng căn bản của giới luật.
11/10/2010(Xem: 5616)
BA PHÁP ẤN - Edward CONZE - Bản dịch Hạnh viên
03/10/2010(Xem: 6024)
Bernard Glassman, Viện trưởng của Cộng đồng Thiền ở New York, và Trung tâm Thiền ở Los Angeles. Tốt nghiệp tiến sĩ Toán Ứng Dụng, ông là kỹ sư không gian của hãng McDonnell-Douglas, trong chương trình gửi người lên Mars những năm 1970. Khi tôi bắt đầu học Thiền, thầy tôi cho tôi một công án, một câu hỏi Thiền để tôi trả lời: “Làm sao đi xa hơn đầu ngọn cờ một trăm thước?” Ta không thể dùng lý trí để trả lời công án này hay bất cứ câu hỏi Thiền nào một cách logic. Tôi quán chiếu một thời gian dài, rồi thưa với thầy: “Câu trả lời là phải sống một cách trọn vẹn”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567