Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giải thoát trong Phật giáo

05/01/201112:41(Xem: 7992)
Giải thoát trong Phật giáo
phat-ngoc_111

GIẢI THOÁT TRONG PHẬT GIÁO
HT. Thích Thiện Siêu

Giải thoát

Giải thoát là một thắng đức trong ba đức của Phật: Pháp Thân,Bát Nhã, Giải thoát. Nếu như ba thắng đức ấy hoàn toànviên mãn thì gọi là Phật. Vậy nên giải thoát hoàn toànvà tuyệt đối là sự chung kết của Phật Đà, cũng là chỗxu hướng chung của mọi loài chúng sanh. Không những nhân loại mà loại nào cũng thế vì đang ở trong mê lầm đau khổ nênđều có quan niệm lánh khổ tìm vui, mong cầu giải thoát.Cũng vì vậy người đời thường gọi Đạo Phật là đạogiải thoát chung cho tất cả chúng sanh, hay gọi là tôn giáocủa chúng sanh đau khổ.

Nhưngtrừ các bậc đã cứu cánh giác ngộ, thì chúng sanh mấy aiđặng giải thoát? Tuy hết sức mong cầu mà vẫn luôn luônsống trong cảnh ngộ ngang trái khổ đau. Nguyên do vì chúngsanh chỉ biết tìm giải thoát nơi bên ngoài mà không tìm giảithoát chính ở nơi mình. Chính ta là nguyên nhân, là hình ảnhcủa đau khổ, mà ta cũng là nguyên nhân là hình ảnh củagiải thoát. Nếu không thâm nhập sự thật ấy thì chưa thểgiải thoát chơn thật hoàn toàn. Thế nên bản hoài của Phậtxuất thế là cốt dạy chúng sanh diệt bỏ mê lầm, giác ngộchân lý, và đem an vui đến cho mọi loài. Ngài không quan tâmđến sự khoái lạc huy hoàng của một đế vương, không dừngchân trong rừng khổ hạnh, cũng không thỏa mãn với nhữngcõi trời Tứ thiền, Tứ không mà các hàng ngoại đạo đềucho là nơi rốt ráo cuối cùng của đạo họ. Bao nhiêu nỗivui đẹp ở những chỗ ấy đối với Ngài đều là cái vuitrá hình, chưa phải là dứt hẳn được mê lầm, giải thoátngoài vòng luân hồi sanh tử.

Mụcđích của người theo đạo Phật là sự giải thoát nên Phậttử không được chú trọng việc cầu tài, cầu phúc, cầuquả báo tốt đẹp ở nhân thiên. Mà cần phải phát tâm hướngmạnh về giải thoát, thì sự tu hành mới càng lâu càng bền,càng khó càng dai và có ngày mới đạt được mục đích cuốicùng như chư Phật. Trái lại như Ngài Lục Tổ nói trong KinhPháp Bảo Đàn: "Nếu tự tánh chân thật đang mê thì phướcnào cứu đặng?" Nhưng giải thoát hoàn toàn là thế nào? Muốnhiểu, trước cũng nên biết thế nào là giải thoát chưa viênmãn.

Giải Thoát Hoàn Cảnh

Hoàncảnh bên ngoài vẫn gây nên đau khổ, cho nên tất cả chúngsanh đều cần đến sự giải thoát cho mình trong đời sốnghiện tại, nghĩa là được sống với quyền sống rộng rãithiêng liêng của mình đang ở giữa cõi trần này, mà khôngbị kềm hãm trong sự bất công mạnh hiếp yếu, khôn hiếpdại, lớn hiếp bé v.v... Có hai cách giải thoát khỏi nhữngràng buộc đau khổ của hoàn cảnh đối với bản thân:

1.Cải tạo hoàn cảnh vật chất cho thật hết sức tốt đẹpnhư xứ Bắc Câu Lô Châu theo trong kinh Phật dạy. Nhân loạiở đây chẳng có đâu bằng, vì ở đây nhân loại đã đếntrình độ văn minh vật chất cực điểm. Đồ ăn mặc khídụng lúc nào cũng sẳn sàng để cho người ta dùng tùy ý,không cần làm việc mà không thiếu thốn, không lập cơ quancai trị mà vẫn đặng thuận hòa an ninh, cho đến sanh con đẻcái chỉ do công chúng nuôi, không nhọc nhằn cha mẹ cấp dưỡng.Họ đẹp đẽ, họ mạnh mẽ, họ giàu sang, họ trường thọ,không bị điều chi đau khổ. Nhưng Phật kết luận sanh vềBắc câu lô châu là một cái nạn, vì ở đấy người chỉbiết đắm say theo vật dụng không phát đạo tâm và thườngphải sa đọa.

2.Không chú trọng đến hoàn cảnh bên ngoài như những ngườixuất gia trong Phật giáo, họ ẩn mình vào nơi thanh vắng củachùa chiền, rừng núi, thâu hẹp đời sống vật chất màmở rộng đời sống tinh thần. Vật chất phồn hoa đối vớihọ là mồi ngon của dục vọng, trợ lực của cạnh tranh,và nhân đó chúng sanh sẽ gieo trồng ác nhân mà sẽ nhậnlấy ác quả, vật chất đã không hay nên cần phải xa lìađể huân tu về đạo lý. Đến khi đời sống vật chất trởnên món đồ phụ thuộc hẳn, thì không cần lợi danh vinhnhục gì bên ngoài đến ràng buộc và lay chuyển. Sánh vớihạng trên thì hai đàng khác nhau, một bên tìm sống trong vậtchất đầy đủ, một bên không quan tâm đến vật chất bênngoài. Cả hai đều mới đến phương diện của giải thoát,giải thoát về hoàn cảnh.

GiảiThoát Về Tự Tâm

Tuyđã vượt khỏi những ràng buộc của hoàn cảnh chi phốibên ngoài nhưng bên trong còn bao nhiêu giống phiền não si mêthì vẫn chưa thoát hết nỗi thống khổ lớn lao và vữngchắc do chúng gây nên, đấy là vì thấy có ta và có mọivật. Tại sao mà giận? Tại thấy có ta và có mọi vật, tứcđã nhận không làm có, nhận giả thành chơn nên mới có đaukhổ. Chúng sanh hàng ngày, suốt từ sáng đến tối, thứccũng như ngủ chỉ sống với giả tướng giả danh chứ chưabao giờ được chứng nhập với sự thật. Trái lại còn chobao nhiêu giả ảnh ấy là thật, dùng ý thức phân biệt, đểđòi hỏi tham lam, giận hờn và nghi hoặc. Không nhận sựvật một cách khách quan lại thêm vào chủ quan và tư kiếnnên mãi mãi mê lầm. Tất cả phiền não từ đó mà ra thìtất cả buộc ràng đau khổ cũng từ đó mà sanh trưởng,nếu quan sát biết rõ ràng tất cả, dù hiện tượng, trừutượng, khái niệm v.v... đều là giả dối, biến tướng củathức tâm, thì mê lầm bị tiêu diệt, trí tuệ hiện ra ứnghợp với thật lý thật sự, và đồng thời những đứa conđẻ của mê lầm như phiền não, như nghiệp, như khổ đềubị tiêu tan mà giải thoát luân hồi sanh tử. Nghĩa là giảithoát tất cả nhiễm ô trược ác, tất cả những gì củatam giới chúng sanh hiện đang chịu...

GiảiThoát Hoàn Toàn

Dứtbỏ mọi điều triền phược nơi tự tâm, thoát khỏi chốnlao tù ba cõi là một công trình lớn lao thiết thực, nhưngchưa phải là tuyệt đối hoàn toàn, chưa phải đã phá hếtmê lầm thầm kín nhỏ nhiệm, đến đó chỉ phá được mêlầm về nhân ngã mà vẫn còn mê lầm về pháp ngã, nên phầntrí giải cũng như phần thực hành còn ở trong vòng tươngđối cả. Trí giải tương đối vì còn thấy có giải thoátvà chưa giải thoát, đau khổ và an vui, Niết bàn và sanh tử,thực hành tương đối chỉ vì cải thiện hành vi xấu xa nơimình mà tự giải thoát hành vi cá nhân còn e dè chướng ngại,chưa đủ năng lực tự tại ra vào chỗ uế trược khổ não,cũng như ra vào chỗ thanh tịnh an vui để hành động nhữngcông việc lợi lạc vị tha mà không bị nhiễm trước. Tráilại giải thoát hoàn toàn và tuyệt đối thì trí thức khôngcòn bị thời gian và không gian hạn chế, không còn bị tâmlý sanh lý tầm thường chi phối. Trí tuệ đã chứng nhậpnhân tướng của sự vật rồi nên tất cả cảnh giới đềuvô ngại hiện ra trong trí Bát nhã viên dung, ngoài trí khôngcó cảnh, ngoài cảnh không có trí , cảnh trí đều như nhưthì đối với uế cũng như với tịnh, ở trong sanh tử cũngtức an trú Niết bàn không thấy có chi sai khác phải bị buộcràng, hay tìm cách giải thoát ra ngoài ba cõi. Như kinh Duy MaCật nói: "Không xa lìa văn tự tức là tướng giải thoát".Nhưng được giải thoát ấy chỉ là các vị Pháp thân BồTát và các Đức Phật. Chư Phật tức như Chân như tự tánhmà luôn luôn khởi diệu dụng độ sanh, thi hành tất cả thiệnsự, dù ở địa ngục, dù ở chư Thiên, dù ở Niết bàn haysanh tử, cũng như hoa sen sinh ở trong bùn. Giải thoát tấtcả mà không thấy có tướng giải thoát, tự tại trong côngviệc lợi tha, không phân biệt thân sơ, không có nhân ngã,tuy hướng dẫn mọi người mà mọi người không nhục, trêntất cả chúng sanh mà chúng sanh không cảm thấy nặng nề,thế thì còn chi ràng buộc mà không phải là giải thoát hoàntoàn tuyệt đối? Trở lại với trên kia, thấy hạnh phúckhoái lạc của phàm phu chưa phải là giải thoát, cho đếncảnh giới của Niết bàn xuất ly sanh tử của nhị thừacũng chưa phải giải thoát hoàn toàn, chỉ duy có Đức Phậtmới được như thế. Nhưng nếu trong hành vi cũng như ý nghĩcủa ta mà có được đôi phần đức tính của cái chơn giảithoát ấy thì mới thật là ta có giải thoát, thiệt an vuivà lợi ích thực sự cho tất cả mọi người mọi loài.

TríchTập Văn Phật Đản, số 20, 1991

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2011(Xem: 8175)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
03/01/2011(Xem: 12434)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
11/12/2010(Xem: 14450)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
13/11/2010(Xem: 3998)
ánh"không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyếtquan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyếtbị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất. Các tác giảchống Phật giáo thường không hiểu rõ hay ngộ nhận ý nghĩacủa hai chữ sắc và không trong đạo Phật. Họ lẫn lộnhoặc lợi dụng vào hiện tượng đồng âm dị tự trong tiếngViệt và Hán Việt, đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khácnội dung làm một, để bôi bác giáo lý của đạo Phật.
06/11/2010(Xem: 8828)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
28/10/2010(Xem: 3299)
Hỏi:Một lần, tôi có đọc được một đoạn của bài viết trong báo Giác Ngộ như sau “Khi được hỏi con người ở thế giới này từ đâu có, trong một bản kinh Phật trả lời: có những vị Trời sắp hết phước, họ nhìn xuống thế giới này thấy có ánh sáng liền tìm đến. Tới nơi, họ ăn thử trái cây nơi đây thấy ngon, liền mất thần thông nên ở lại luôn, làm tổ tiên loài người…”. Xin cho biết xuất xứ của đoạn kinh trên và tóm tắt ý chính của kinh. Quan điểm của Phật giáo về nguồn gốc loài người có sự khác biệt như thế nào so với các lý thuyết khoa học đương đại?
23/10/2010(Xem: 9619)
Trên đời này có những người có chánh kiến, tin rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chánh hành trì Chánh pháp, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên nhân chánh kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này (Trung Bộ kinh I)
16/10/2010(Xem: 3364)
Đạo Phật tồn tại trên thế gian cách đây hơn 2.500 năm. Ngoài nền tảng giáo lý vượt thời gian và không gian, thích ứng với cuộc sống con người trong giai đoạn mới thì yếu tố để hình thành nên phẩm chất đạo đức con người chính là sự góp phần bằng Đạo hạnh của người tu sĩ, mà công hạnh ấy được xây dựng trên nền tảng căn bản của giới luật.
11/10/2010(Xem: 5616)
BA PHÁP ẤN - Edward CONZE - Bản dịch Hạnh viên
03/10/2010(Xem: 6024)
Bernard Glassman, Viện trưởng của Cộng đồng Thiền ở New York, và Trung tâm Thiền ở Los Angeles. Tốt nghiệp tiến sĩ Toán Ứng Dụng, ông là kỹ sư không gian của hãng McDonnell-Douglas, trong chương trình gửi người lên Mars những năm 1970. Khi tôi bắt đầu học Thiền, thầy tôi cho tôi một công án, một câu hỏi Thiền để tôi trả lời: “Làm sao đi xa hơn đầu ngọn cờ một trăm thước?” Ta không thể dùng lý trí để trả lời công án này hay bất cứ câu hỏi Thiền nào một cách logic. Tôi quán chiếu một thời gian dài, rồi thưa với thầy: “Câu trả lời là phải sống một cách trọn vẹn”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567