Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài thứ bảy : nt

06/05/201312:16(Xem: 15066)
Bài thứ bảy : nt

Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--- o0o ---

Khóa Thứ IX

DUY THỨC HỌC VÀ NHƠN MINH LUẬN

--- o0o ---

TẬP BA

DUY THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI

Ngài THIÊN THÂN Bồ Tát tạo luận
Ngài HUYỀN TRANG Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Ông ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN giải dễ gọn
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lượt giải.

BÀI THỨ BẢY

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Như trên đã thành lập Duy thức tướng và Duy thức tánh rồi; Người nào mới có thể nhập được? Và làm sao để ngộ nhập?

Đáp:- Phải là người có đủ hai giống tánh Đại thừa và tu hành trải qua năm địa vị sau này mới được ngộ nhập:

1. Vị Tư lương
2. Vị Gia hạnh
3. Vị thông đạt
4. Vị Tu tập
5. Vị Cứu tánh.

Hỏi:- Hành tướng của vị Tư lương thế nào?

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán

Nãi chí vị khởi thức
Cầu trụ Duy thức tánh
Ư nhị thủ tuỳ miên
Du vị năng phục diệt

Dịch nghĩa

Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Từ khi chưa phát tâm, cho đến khi đã phát tâm cầu an trụ Duy thức tánh, trong thời gian đó hai món thủ (ngã chấp, pháp chấp) hãy còn miên phục; hành giả chưa có thể chinh phục hay diệt trừ được.

LƯỢC GIẢI

Từ trước đến đây đã nói rõ về Duy thức cảnh rồi, tức là Duy thức tướng và Duy thức tánh. Nay sẽ nói Duy thức hạnh và Duy thức quả, tức là dạy người sau khi học hiểu, phải phát tâm tu hành rồi mới chứng được Duy thức quả.

Vậy từ khi phát tâm tu Duy thức, cho đến chứng Duy thức quả, phải trải qua năm địa vị:

1. Vị Tư lương:Lương phạn, đồ hành lý. Thí như người đi đường. Trước phải sắm sửa lương phạn tiền bạc v.v... để lên đường.

Địa vị này bắt đầu từ khi chưa phát tâm tu Duy thức quán, cho đến khi phát Bồ Đề tâm, cầu an trụ Duy thức tánh (chơn như tâm).

Thí như chúng ta nghe trong kinh dạy: "Vạn pháp Duy thức"; rồi chúng ta bắt đầu ngày đêm tu Duy thức quán. Bất luận thời giờ nào hay chỗ nơi nào, khi thấy nghe hay biết, chúng ta đều quán "Tất cả pháp là giả tướng, Duy thức biến hiện". Chúng ta luôn luôn ở trong Duy thức quán, cũng như người ở trong cảnh Tịnh độ bảy báu trang nghiêm. Được như thế thì tất cả phiền não không thể xâm nhập.

Song, khi mới cầu an trụ Duy thức, công tu chưa thâm, năng lực còn kém, nên chưa có thể an trụ Duy thức tánh được. Lúc bấy giờ hai món phiền não (năng thủ, sở thủ) còn miên phục, chưa trổi dậy; cũng như cỏ bị đá đè. Đến khi áp lực được nhẹ đi, thì hai món chủng tử này sẽ sanh khởi trở lại.

Duy thức tánh như ông chủ nhà, phiền não như kẻ trộm. Kẻ trộm không bao giờ ưa chủ nhà; chủ nhà lúc nào cũng ghét kẻ trộm.

Duy thức tánh và phiền não cũng thế. Nếu không diệt trừ phiền não thì không thể an trụ Duy thức tánh được. Bởi thế nên muốn an trụ Duy thức tánh thì quyết định phải diệt trừ hai món thủ (ngã, pháp).

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Hành tướng của vị Gia hạnh thế nào?

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán

Tụng viết:

Hiện tiền lập tiểu vật
Vị thị Duy thức tánh
Dĩ hữu sở đắc cố
Phi thật trụ Duy thức

Dịch nghĩa

Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Nếu hiện tiền còn một tí thấy mình an trụ Duy thức tánh, thì chưa phải thật an trụ Duy thức tánh, vì còn có chỗ sở đắc vậy.

LƯỢC GIẢI

2. Vị Gia hạnh:Gia công tấn hạnh. Vị Gia hạnh này giống như người đi đường, trước phải dự bị đồ hành lý, rồi sắp sửa khởi hành.

Hành giả, khi tu Duy thức quán, thấy cảnh giới Duy thức hiện tiền, nếu chấp mình chức được Duy thức tánh, như thế là còn có chỗ sở đắc, nên chưa phải thật chứng Duy thức. Cũng như ông Nhan Hồi học Đạo với đức Khổng tử, sau khi thể hội được Đạo, ông nói rằng: "Như có một vật gì đứng đồ sộ vậy(1)". Đó cũng là cảnh giới Duy thức biến, chẳng qua thức biến không đồng.

Vì chơn tánh của Duy thức, chẳng phải có, chẳng phải không, tuy chứng mà không có gì là chứng, thế mới thật là chứng Duy thức.

Người an trụ được chơn tánh của Duy thức, cũng như cái tay nghười biết viết chữ: Không thấy có gì khác cả. Bởi thế nên nói "đặng mà không có gì là đặng".

Nay người tu Duy thức, do hiện tiền còn một tí thấy mình chứng Duy thức, nên không phải thật an trụ nơi Duy thức tánh.

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Hành tướng của vị Thông đạt thế nào?

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán

Tụng viết:

Nhược thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhĩ thời trụ Duy thức
Ly nhị thủ tướng cố

Dịch nghĩa

Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: bao giờ cảnh sở quán và trí năng quán đều không, khi đó mới an trụ nơi Duy thức tánh, vì đã xa lìa được hai món thủ vậy.

LƯỢC GIẢI

3. Vị Thông đạt:Rõ ràng thông suốt. Vị Thông đạt này cũng như người đi đường, đã thông suốt con đường sẽ đi, bắt đầu khởi hành, không còn lo ngại.

Hành tướng của vị này, là khi hành giả đối với cảnh sở quán và trí năng quán, đều xem như huyễn như hoá, không có sở đắc.

Vị Gia hạnh trước, chưa xa lìa hai món thủ (Ngã chấp, Pháp, chấp), vì còn có sở đắc, nên chưa có thể an trụ nơi Duy thức. Đến vị Thông đạt này, thì đã xa lìa hai món thủ, không có sở đắc, nên mới thật an trụ nơi Duy thức.

Đoạn văn này, đồng một nghĩa với câu: "Vô trí diệc vô đắc" (không có trí năng đắc và cảnh sở đắc) trong Bát Nhã Tâm kinh.

CHÁNH VĂN

Hỏi:-Hành tướng của vị Tu tập thế nào?

Đáp:-Nguyên văn chữ Hán

Tụng viết:

Vô đắc bất tư nghị
Thị xuất thế gian trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y.

Dịch nghĩa

Luận chữ nói bài tụng để trả lời rằng: Cảnh giới: Vô đắc này không thể nghĩ bàn; đây là "Trí xuất thế gian" (vô phân biệt trí). Do đã xa lìa được hai món thô trọng (Phiền não chướng và Sở tri chướng) và chứng được hai món chuyển y (Bồ Đề, Niết bàn).

LƯỢC GIẢI

4. Vị Tu tập:Tu hành tập luyện. Địa vị Thông đạt trên, là chỉ thông suốt giáo lý, song chưa tu tập. Đến địa vị này mới tu tập Lục độ muôn hạnh, để chứng ngộ chơn lý.

Ở địa vị Thông đạt mới vừa chứng cái "Thể" của trí vô đắc. Đến địa vị Tu tập này mới đặng "Diệu dụng" của trí vô đắc. Diệu dụng của trí này không thể nghĩ bàn. Nhưng, nếu trí còn có sở đắc là trí của thế gian; cái trí không có sở đắc, mới phải là trí của xuất thế gian.

25phpt09-3-7a




Vị Tu tập này đã xả bỏ được chủng tử của hai chướng là Phiền não chướng và Sở tri chướng và chứng được hai quả Bồ Đề và Niết bàn.

Bài tụng trên nói chữ "thô trọng" là chỉ cho hai món chủng tử của hai món chướng: Phiền não và Sở tri; còn nói chữ "chuyển y", nghĩa là y cứ trên y tha khởi tánh, mà chuyển nhiễm trở lại tịnh: chuyểm phiền não chướng thành Đại giải thoát (Niết bàn), chuyển sở tri chướng thành Đại Bồ Đề.

25phpt09-3-7b






CHÁNH VĂN

Hỏi:- Hành tướng của vị Cứu cánh thế nào?

Đáp: - Nguyên văn chữ Hán

Tụng viết:

Thử tức vô lậu giới
Bất tư nghị, Thiện, Thường
An lạc, Giải thoát thân
Đại Mâu ni danh pháp

Dich nghĩa

Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Đây là cảnh giới vô lậu, cũng gọi là: 1. Bất tư nghị, 2. Thiện, 3. Thường, 4. An lạc, 5. Giải thoát thân, 6. Đại Mâu ni, cũng gọi là Pháp thân.

LƯỢC GIẢI

5. Vị Cứu cánh:Quả vị rốt ráo; trong các quả vị tu hành, đến đây đã cùng tột rồi, không còn quả vị nào hơn nữa. Hành giả chứng được quả vị Bồ Đề, Niết bàn là cảnh giới vô lậu rốt ráo thanh tịnh.

Nói "Cảnh giới thanh tịnh" tức là chỉ cái tổng tướng của vị Cứu cánh; nếu chỉ biệt tướng của vị này thì có 6 món:

1. Bất tư nghi: Cảnh giới này không thể dùng trí suy nghĩ hay lời nói luận bàn được.

2. Thiện:Cảnh giới này đã xa lìa hết các pháp nhiễm ô, bất thiện.

3. Thường:Cảnh giới này thường còn, tột đến đời vị lai, không có cùng tận vậy.

4. An lạc:Cảnh giới này rất thanh tịnh vui vẻ, không có các điều khổ não bức bách vậy.

5. Giải thoát thân:Do xa lìa các phiền não triền phược, nên được thân Giải thoát (Cảnh giới của Nhị thừa).

6. Đại Mâu Nihay gọi là Pháp thân. Do xa lìa được Sở tri chướng, nên chứng đặng quả vô thượng Bồ đề: Vì hai quả vị này bản tánh rất thanh tịnh, nên gọi là Đại Mâu ni (tịnh mặc) cũng gọi là Pháp thân vậy.

25phpt09-3-7c









Dịch xong tại chùa Phật quang (Trà Ôn)
Ngày trừ tịch năm Canh Tý (14-2-1961)


DUY THỨC TAM THẬP TỤNG
CHÁNH VĂN

Ngài Bồ Tát THIÊN THÂN tạo luận
Ngài HUYỀN TRANG dịch ra chữ Hán
Sa môn T.THIỆN HOA dịch ra chữ Việt

Nguyên văn chữ Hán

Nhược Duy thức, vân hà thế gian cập chư Thánh giáo thuyết hữu Ngã, Pháp?

Tụng viết:

Do giả thuyết Ngã Pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyển
Bỉ y thức sở biến
Thử năng biến duy tam
Vị: Dị thục, Tư lương
Cặp liễu biệt cảnh thức.

Dịch nghĩa

Hỏi: - Nếu chỉ có thức, tại sao người thế gian và trong Phật giáo đều nói có Ngã và Pháp?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Do giả nói Ngã, Pháp:
Các tướng Ngã, Pháp kia,
Nương nơi thức sanh ra.
Thức năng biến có ba:
Dị thục và Tư lương
Cùng thức Liễu biệt cảnh.

Nguyên văn chữ Hán

Tuy dĩ lược thuyết tam năng biến danh, nhi vị quảng biện tam năng biến tướng; thả sơ năng biến kỳ tướng vân hà?

Tụng viết:

Sơ A-lại-da thức
Dị thục, Nhứt thế chủng
Bất khả tri chấp thọ
Xứ liễu thường dữ xúc
Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư
Tương ưng duy Xả thọ
Thị vô phú vô ký
Xúc đẳng diệc như thị
Hằng chuyển như bộc lưu
A-la-hán vị xả.

Dịch nghĩa

Hỏi:- Trên đã được nói cái "tên" của ba thức Năng biến, song chưa nói rõ cái "tướng"; vậy cái "tướng" của thức Năng biến thứ nhứt thế nào?

Đáp: - Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Trước là A-ại-da,
Dị thục, Nhứt thế chủng.
Không thể biết: giữ, chịu (chấp thọ)
Thế giới (xứ) và phân biệt (liễu).
Tương ưng năm Biến hành,
Năm thọ chỉ Xả thọ
Thức này và Tâm sở

Đều vô phú vô ký
Hằng chuyển như nước thác
A-la-hán mới xả.

Nguyên văn chữ Hán

Như thị dĩ thuyết sơ năng biến tướng, đệ nhị năng biến kỳ tướng vân hà?

Tụng viết:

Thứ đệ nhị năng biến
Thị thức danh Mạt-na
Y bỉ chuyển duyên bỉ
Tư lương vi tánh tướng
Tứ phiền não thường câu
Vị: Ngã si, Ngã kiến
Tinh Ngã mạm, Ngã ái
Cặp dư Xúc đẳng câu
Hữu phú vô ký nhiếp
Tuỳ sở sanh sở hệ
A-la-hán, Diệt định,
Xuất thế đạo vô hữu.

Dịch nghiã

Hỏi:-Trên đã nói thức Năng biến thứ nhứt; còn thức năng biến thứ hai thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Thức năng biến thứ hai,
Tên là thức Mạt-na.
Nương kia lại duyên kia (A-lại-da)
Tánh tướng đều lo nghĩ;
Thường cùng bốn phiền não;
Ngã si và Ngã kiến
Ngã mạn với Ngã ái;
Cùng với Xúc vân vân.
Hữu phú vô ký tánh
Sanh đâu chấp ngã đó.
La hán và Diệt định
Đạo Xuất thế không có.

Nguyên văn chữ Hán

Như thị dĩ thuyết đệ nhị Năng biến, đệ tam Năng biến kỳ tướng vân hà?

Tụng viết:

Thứ đệ tam Năng biến
Sai biệt hữu lục chủng
Liễu cảnh vi tánh tướng
Thiện, bất thiện, câu phi
Thử tâm sở Biến hành
Biệt cảnh, Thiện, Phiền não
Tùy phiền não, Bất định
Giai tam thọ tương ưng

Dịch nghĩa

Hỏi:- Như vậy đã nói thức Năng biến thứ hai, còn thức Năng biến thứ ba thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Thức Năng biến thứ ba
Có sáu món sai khác
Tánh, tướng đều biết (liễu) cảnh.
Thiện, Bất thiện, Vô ký
Đây Tâm sở: Biến hành
Biệt cảnh, Thiện, Phiền não
Tuỳ Phiền não, Bất định,
Tương ưng với ba Thọ.

Nguyên văn chữ Hán

Tiền dĩ lược phiêu lục vô tâm sở tương ưng, kiêm ưng quảng biện bỉ sai biệt tướng; thả sơ nhị vị kỳ tướng vân hà?

Tụng viết:

Sơ Biến hành: Xúc đẳng
Thứ Biệt cảnh vị: Dục,
Thắng giải, Niệm, Định, Huệ.
Sở duyên sự bất đồng

Dịch nghĩa

Hỏi:- Trên đã lược nêu 6 vị tâm sở tương ưng; nay xin nói rõ hành tướng sai khác của các loại Tâm sở. Vậy hai vị Tâm sở đầu thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Trước Biến hành là Xúc;
Sau biệt cảnh là Dục,
Thắng giải, Niệm, Định, Huệ
Cảnh bị duyên không đồng.

Nguyên văn chữ Hán

Dĩ thuyết Biến hành, Biệt cảnh nhị vị,
Thiện vị tâm sở kỳ tướng vân hà?


Tụng viết:

Thiện, vị: Tín, Tàm, Quí
Vô tham đẳng tam căn
Cần, An, Bất phóng dật
Hành xả cập Bất hại.

Dịch nghĩa

Hỏi: - Trên đã nói hai loại Biến hành và Biệt cảnh, còn hành tướng của Thiện tâm sở thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Thiện là: Tín, Tàm,Quí
Vô tham, Sân và Si
Cần, An, Bất phóng dật
Hành xả và Bất hại

Nguyên văn chữ Hán

Như thị dĩ thuyết Thiện vị tâm sở,

Phiền não tâm sở kỳ tướng vân hà?

Tụng viết:

Phiền não vị: Tham, Sân,

Si, Mạn, Nghi, Ác kiến.

Dịch nghĩa

Hỏi:- Như trên đã nói Thiện tâm sở rồi, còn hành tướng của căn bản phiền não thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Phiền não là: Tham, Sân,
Si, Mạn, Nghi, Ác kiến.

Nguyên văn chữ Hán

Dĩ thuyết căn bản lục phiền não tướng, chư Tuỳ phiền não kỳ tướng vân hà?

Tụng viết:


Tuỳ phiền não vị: Phẫn
Hận, Phú, Não, Tật, Xan
Cuống, Siễm dữ Hại, Kiêu
Vô tàm cập Vô quí
Trạo cử dữ Hôn trầm
Bất tín tinh Giải đãi
Phóng dật cập Thất niệm
Tán loạn, Bất chánh tri

Dịch nghĩa

Hỏi:- Trên đã nói 6 món căn bản phiền não; còn hành tướng của Tuỳ phiền não thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Tuỳ phiền não là: Phẫn,
Hận, Phú, Não, Tật, Xan
Cuống, Siểm, và Hại, Kiêu
Vô tàm với Vô quí
Trạo cử dữ Hôn trầm

Bất tín cùng Giải đãi
Phóng dật và Thất niệm
Tán loạn, Bất chánh tri.

Nguyên văn chữ Hán

Dĩ thuyết nhị thập Tuỳ phiền não tướng, Bất định hữu tứ kỳ tướng vân hà?

Tụng viết:

Bất định vị Hối, Miên

Tầm, Tư nhị các nhị.

Dịch nghĩa

Hỏi:- Trên đã nói hai mươi món Tuỳ phiền não, còn hành tướng của bốn món Bất định thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Bất định là Hối, Miên

Tầm, Tư lại chia hai

Nguyên văn chữ Hán

Dĩ thuyết lục vị tâm sở tương ưng,

Vân hà ưng tri hiện khởi phận vị?

Tụng viết:


Y chỉ căn bản thức
Ngũ thức tuỳ duyên hiện
Hoặc câu hoặc bất câu
Như đào ba y thuỷ
Ý thức thường hiện khởi
Trừ sanh vô tưởng thiên
Cập vô tâm nhi6 định
Thuỳ miên dữ muộn tuyệt.

Dịch nghĩa

Hỏi:- Trên đã nói 6 loại tâm sở tương ưng rồi, bây giờ làm sao biết được phận vị hiện khởi của 6 thức?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Nương nới thức căn bản (A-lại-da)
Năm thức tuỳ duyên hiện,
Hoặc chung hoặc chẳng chung,
Như sóng nương với nước.
Ý thức thường hiện khởi,
Trừ sanh trời Vô tưởng
Và hai định Vô tâm,
Ngủ mê hay chết giả.

Nguyên văn chữ Hán

Dĩ quảng phân biệt tam Năng biến tướng, vi tự sở biến nhị phần sở y; vân hà ưng tri y thức sở biến, giả thuyết ngã pháp, phi biệt thật hữu, do thị nhứt thế duy hữu thức da?

Tụng viết:

Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt sở Phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhứt thế Duy thức.

Dịch nghĩa

Hỏi:- Trên đã nói ba thức Năng biến, đều do hai phần (Tự chứng và Chứng tự chứng) làm sở y, rồi tự nó biến ra hai phần (Kiến phần và Tướng phần); bây giờ làm sao lại biết "Tất cả đều Duy thức biến ra" rồi giả nói ngã pháp, chứ không phải thật có?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Các thức này chuyển biến:
Phân biệt, bị phân biệt.
Do bỉ, thử đều không
Nên tất cả Duy thức

Nguyên văn chữ Hán

Nhược duy hữu thức, đô vô ngoại duyên, do hà nhi sanh chủng phân biệt?

Tụng viết:

Do nhứt thế chủng thức
Như thị như thị biến
Dĩ triển chuyển lực cố
Bỉ bỉ phân biệt sanh

Dịch nghĩa

Hỏi:- Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh để làm duyên, thí làm sao sanh ra các món phân biệt.

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Do tất cả chủng thức,
Biến như vậy như vậy;
Vì sức biến chuyển đó,
Sanh các món phân biệt.

Nguyên văn chữ Hán

Tuy hữu nội thức, nhi vô ngoại duyên, do hà hữu tình sanh tử tương tục?

Tụng viết:

Do chư nghiệp tập khí
Nhị thủ tập khí câu
Tiền Dị thục ký tận
Phục sanh dư Dị thục

Dich nghĩa

Hỏi:- Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh để làm trợ duyên, thì tại làm sao chúng hữu tình lại sanh tử tương tục?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Do chủng tử các nghiệp
Và chủng tử hai thủ (năng thủ, sở thủ)
Nên Dị thục trước chết
Lại sanh Dị thục sau

Nguyên văn chữ Hán

Nhược duy hữu thức, hà cố Thế Tôn xứ xứ kinh trung, thuyết hữu tam tánh?

- Ưng tri tam tánh, diệc bất ly thức.

- Sở dĩ giả hà?

Tụng viết

Do bỉ bỉ Biến kế
Biến kế chủng chủng vật
Thử Biến kế sở chấp
Tự tánh vô sở hữu
Y tha khởi tự tánh
Phân biệt duyên sở sanh
Viên thành thật ư bỉ
Thường viễn ly tiền tánh
Cố thử dữ Y tha
Phi dị phi bất dị
Như vô thường đẳng tánh
Phi bất kiến thử bỉ.

Dịch nghĩa

Hỏi:- Nếu chỉ có thức, tại sao trong các Kinh, đức Thế Tôn nói có ba tánh?

Đáp:- Phải biết ba tánh đó cũng không rời thức.

Hỏi:- Tại sao thế?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Do các tánh Biến kế,
Chấp hết tất cả vật.
Tánh Biến kế sở chấp,
Tự nó không thật có.
Còn tánh Y tha khởi
Do các duyên mà sanh.
Viên thành thật với kia (Y tha)
Xa lìa Biến kế trước.
Thành thật với Y tha,
Cũng khác cũng không khác;
Như vô thường vân vân
Chẳng thấy đây (Viên thành) và kia (Y tha)

Nguyên văn chữ Hán

Nhược hữu tam tánh, như hà Thế Tôn thuyết nhứt thế pháp, giai vô tự tánh?

Tụng viết

Tức y thử tam tánh,
Lập bỉ tam vô tánh.
Cố Phật mật ý thuyết:
Nhứt thế pháp vô tánh.
Sơ tức tướng vô tánh,
Thứ vô tự nhiên tánh,
Hậu do viễn ly tiền:
Sở chấp ngã pháp tánh.
Thử chư pháp thắng nghĩa,
Diệc tức thị Chơn như:
Thường như kỳ tánh cố;
Tức Duy thức thật tánh.

Dịch nghĩa

Hỏi:- Nếu có ba tánh, tại sao đức Thế Tôn nói: "tất cả pháp đều không có tự tánh?"

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Y theo ba tánh này,
Lập ra ba vô tánh.
Nên Phật mật ý nói:
Tất cả pháp vô tánh.
Trước là "tướng" vô tánh,
Kế, không tự nhiện tánh,
Sau, do xa lìa trước:
Tánh chấp Ngã và Pháp.
Đây Thắng nghĩa các Pháp,
Cũng tức là Chơn như,
Vì tánh thường như vậy,
Tức thật tánh Duy thức.

Nguyên văn chữ Hán

Như thị sở thành Duy thức tướng tánh, thuỳ y kỷ vị, như hà ngộ nhập? - Vị cụ Đại thừa nhị chủng tánh giả, lược hữu ngũ vị, phương năng ngộ nhập. Nhứt Tư lương vị, nhị Gia hành vị, tam Thông đạt vị, tứ Tu tập vị, ngũ Cứu cánh vị.

1. Sơ Tư lương vị, kỳ tướng vân hà?

Tụng viết

Nãi chí vị khởi thức
Cầu trụ Duy thức tánh
Ư nhị thủ tuỳ miên
Du vi năng phục diệt

Dịch nghĩa

Hỏi:- Như thế là đã thành lập tướng và tánh của Duy thức. Vậy người nào, có mấy vị, và làm sao ngộ nhập được Duy thức ?

Đáp:- Phải người có đủ hai món tánh Đại thừa và tu hành trải qua năm địa vị sau này, mới ngộ nhập được Duy thức tánh.

1. Vị Tư lương, 2. Vị Gia hạnh,

3. Vị Thông đạt, 4. Vị Tu tập,

5. Vị Cứu cánh.

Hỏi:- Hành tướng của vị Tư lương thế nào?

Đáp: - Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Cho đến chưa khởi thức

Cầu trụ Duy thức tánh

Hai thủ còn miên phục

Chưa có thể diệt trừ.

Nguyên văn chữ Hán

2. Thức Gia hạnh vị, kỳ tướng vân hà ?

Tụng viết:

Hiện tiền lập thiểu vật
Vị thị Duy thức tánh
Dĩ hữu sở đắc cố
Phi thật trụ Duy thức

Dịch nghĩa

Hỏi:- Hành tướng của vị Gia hạnh thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Hiện tiền còn một tí
Gọi là Duy thức tánh;
Vì còn sở đắc vậy,
Chẳng thật trụ Duy thức.

Nguyên văn chữ Hán

3. Thứ Thông đạt vị, kỳ tướng vân hà ?

Tụng viết

Nhược thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhĩ thời trụ Duy thức
Ly nhị thủ tướng cố.

Dịch nghĩa

Hỏi:-Hành tướng của vị Thông đạt thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Khi nào "cảnh" bị duyên
Và "trí" đều không có
Khi đó trụ Duy thức
Đã lìa hai món thủ.

Nguyên văn chữ Hán

4. Thứ Tu tập vị, kỳ tướng vân hà?

Tụng viết:

Vô đắc bất tư nghị
Thị xuất thế gian trí
Xả thị thô trọng cố
Tiên chứng đắc chuyển y.

Dịch nghiã

Hỏi:- Hành tướng của vị Tu tập thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

"Không đặng", chẳng nghĩ bàn;
Đây là "Trí xuất thế" (vô phân biệt trí)
Vì bỏ hai Thô trọng
Nên chứng đặng "chuyển y"

Nguyên văn chữ Hán

5. Hậu Cứu cánh vị, kỳ tướng vân hà ?

Tụng viết

Thử tức vô lậu giới
Bất tư nghị, Thiện, Thường
An lạc, Giải thoát thân
Đại Mâu ni danh Pháp.

Dịch nghĩa

Hỏi:- Hành tướng của vị Cứu cánh thế nào?

Đáp:- Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:

Đây là cõi Vô lậu
Bất tự nghị, Thiện, Thường
An lạc, Giải thoát thân
Đại Mâu ni Pháp thân

***

BIỂU THỨ NHỨT

25phpt09-3-7e















25phpt09-3-7f












(1)Nguyên văn như vầy: “Chiêm chi tại tiền, hốt diên tại hậu; như hữu sở trác lập, cảnh tróc mô vị trúng” : Xem đó ở trước, thọat vậy ở sau; như có đứng đồ sộ, rờ nắm không trúng.

(2)Hai cái biểu này trích trong “Duy Thức tam Thập Tụng Kỷ Văn” do ngài Thái Hư giảng.

--- o0o ---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 76635)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 120492)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 24342)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13205)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8506)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
09/04/2016(Xem: 15405)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
05/01/2015(Xem: 18936)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
31/10/2013(Xem: 17156)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 34147)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
27/05/2013(Xem: 6463)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Hoàng Lộ,Bệ Lan Nhã, bấy giờ Vua Thần (Vua A Tu La) có tên là Bà La La và Thái Tử Thần tên Mâu Lê Già có tướng sắc uy nghi, ánh sáng chói lọi, vào lúc quá nửa đêm đến chỗ đức Phật đảnh lễ rồi đứng một bên. Khi ấy, đức Phật hỏi: -Này Bà La La, có phải mọi Thần đều không bị suy thoái về tuổi thọ, hình sắc,vui vẻ, sức mạnh, cho nên các Thần thích sống trong biển lớn chăng?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567