Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khóa X - XI

02/05/201316:33(Xem: 23392)
Khóa X - XI


Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa


KHOÁ X - XI

LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI

--- o0o ---


THÔNG BẠCH

Các loại sách của tôi phiên dịch hoặc sáng tác đều không giữ bản quyền. Song, Quí vị nào muốn ấn tống, xin theo bản sửa chữa cuối cùng cua tôi. Nếu vị nào muốn sửa đổi nội dung hay hình thức hoặc in để phát hành (bán) đều đều phải được sự chấp thuận của tôi

Sa môn THÍCH THIỆN HOA

LỜI DỊCH GIẢ

Chúng tôi tường không cần phải giới thiệu dài dòng, chắc độc giả cũng đã biết rằng bộ Luận "Đại thừa Khởi Tín" là một trong số những bộ Luận có một nội dung hàm súc, sâu sắc nhứt và một lối lý luận rốt ráo bén nhọn và tế nhị nhứt. Vì lẽ đó nên chúng tôi đã khổ công rất nhiều, trong khi đem dịch Luận này. Lần đầu chúng tôi đã dịch hơn phân nữa bộ, nhưng vì thấy nhiều đoạn chưa được vừa ý, nên chúng tôi đã bỏ tất cả, và dịch lại lần thứ hai. Tính tất cả hai lần dịcu thuật, thời gian trên một năm (từ tháng 11 năm Canh Tý đến tháng 12 năm Tân Sửu, tức là từ năm 1960 đến năm 1962).

Bộ luận này do Bồ Tát Mã Minh soạn ra bằng chữ Phạn. Những nhà dịch giả có danh tiếng, đã dịch sanh chữ Hán. Chúng tôi că cứ vào bản dịch bằng Hán văn của Ngài Chơn đế Tam tạng Pháp sư, để dịch sang chữ Việt. Về Phần chú giải, thì sau khi tham khảo nhiều bản khác nhau của các dịch giả Trung hoa, chúng tôi đã căn cứ một phần lớn vào bản trực giải của Ngài Đức Thanh, mà chúng tôi nhận thấy rõ ràng và gọn gàng hơn hết.

Tuy thế, trong khi phiên dịch sang Việt ngữ, để cho ý luận được biểu lộ rõ ràng, gãy gọn và mạch văn thích hợp với cú pháp Việt Nam, nên có nhiều đoạn, chúng tôi chỉ dịch cho rõ ý, hoặc đảo ngược trước sau, hoặc thêm bớt một vài chữ. Mong quý độc giả thông cảm mà lượng thứ cho.

Nói riêng về chương trình Phật học phổ thông, mà Ban Hoằng pháp Phật giáo Nam Việt đã chủ trương từ trước đến nay, thì bộ luận này thuộc về khóa thứ IX; nhưng sau khi phiên dịch và giảng dạy, chúng tôi nhận thấy, vì ý nghĩa thâm sâu của nó nên sắp vào khoá thứ X và XI, thì mới đúng trình độ, lợi ích cho độc giả và những vị theo học các lớp Phật học Phổ thông.

***

Thưa quý vị độc giả,

"Lời của dịch giả", đến đây có thể xem như đã chấm dứt. Nhưng chúng tôi xin phép quý vị, để nói thêm lên đây lòng nguyện ước thiết tha của chúng tôi trước khi dừng bút:

Trong khi chúng tôi đang dịch thuật bộ Luận này, thì Bổn sư chúng tôi là Hoà thượng Thích Khánh Anh, nguyên Thượng Thủ Giáo hội Tăng già toàn quốc kiêm cố Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, viên tịch. Trong nỗi niềm đau xót lớn lao trước một cái tang chung và riêng ấy chúng tôi rất ngậm ngùi và nhớ tưởng lại hồng ân của Bổn sư, người đã hướng dẫn và thúc đẩy chúng tôi trong công tác phiên dịch này.

Vậy, hôm nay công việc dịch thuật đã xong xuôi, chúng tôi kính cẩn dâng công đức này hồi hướng lên Giác linh Bổn sư chúng tôi sớm đăng Phật địa, ngõ hầu báo đáp hồng ân pháp hóa trong muôn một.

CHÙA PHƯỚC HẬU TRÀ ÔN

Dịch xong ngày khởi công trùng tu chùa Phước Hậu 

(Ngày Phật thành đạo năm Tân Sửu, nhằm ngày 13/1/1962).

Sa môn THÍCH THIỆN HOA.

***

LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

BÀI KỆ QUY KÍNH TAM BẢO

Chương thứ nhất : Phần Nhơn duyên

Chương thứ hai : Phần Định danh nghĩa

Chương thứ ba : Phần Giải thích

Chương thứ tư : Phần Tín tâm, Tu hành.

Chương thứ năm : Phần Lợi ích và khuyến tu

BÀI KỆ HỔI HƯỚNG

**

Chương thứ nhứt: PHẦN NHƠN DUYÊN

Vì tám nhơn duyên nên Bồ Tát tạo ra Luận này.

Chương thứ hai : PHẦN ĐỊNH DANH NGHĨA

A. Pháp Đại thừa

I. Tướng Chơn như
II. Tướng Sanh diệt

B. Nghĩa Đại thừa

I. Thể chất lớn

II. Hình tướng lớn

III. Diệu dụng lớn

Chương thứ ba : PHẦN GIẢI THÍCH, Chia làm ba:

A. Nói rõ nghĩa chánh (10 bài)

B. Đối trị các chấp sai lầm (1 bài)

C. Phân biệt hành tướng phát tâm đến Đạo (2 bài)

A. NÓI VỀ NGHĨA CHÁNH, có 3phần

I. Tâm Chơn như (Chơn tâm)

II. Tâm Sanh diệt (Thức A lại da)

III. Trở về Chơn như .

I. NÓI VỀ TÂM CHƠN NHƯ, có 2 nghĩa:

1. Thật không (không có các pháp nhiễm ô)

2. Thật có (có các công đức thanh tịnh)

II.NÓI VỀ TÂM SANH DIỆT (THỨC A LẠI DA), có 2 nghĩa:

1. Nghĩa "Giác" (Chơn)

2. Nghĩa "Bất giác" (mê: vọng)

1. Nói về nghĩa "Giác", có 5 tên:

a. Bản giác (tánh Phật saün có)

b. Bất giác (mê:vô minh)

c. Thỉ giác (mới giác ngộ)

d. Phần giác (giác ngộ từng phần)

e. Cứu cánh giác (giác ngộ rốt ráo)

Thỉ giác có 4 lớp, từ Thô đến Tế:

1. Giác ngộ niệm "Diệt"

2.Giác ngộ niệm "Dị"

3. Giác ngộ niệm "Trụ"

4. Giác ngộ niệm "Sanh"

Bản giác có 2 tướng và 4 nghĩa:

Hai tướng

1. Tướng Trí tịnh

2. Tướng nghiệp dụng bất tư nghị

Bốn nghĩa

1. Như thật không

2. Nhơn huân tập

3. Pháp xuất ly

4. Duyên huân tập

2. Nói về nghĩa "Bất giác" (mê: vô minh)

Phân làm 11 phần:

a. Tam tế (ba tướng vi tế)

b. Lục thô (sáu món Thô)

c. Hai tướng (đồng và khác)

d. Ý tương tục (có năm thứ)

e. Ý thức

g. Tâm nhiễm ô (có 6 lớp)

h. Tâm nhiễm ô và vô minh khác nhau thế nào?

i. Ba tướng nhiễm ô sanh diệt

k. Bốn món huân tập

l. Chơn như và vô minh, thỉ và chung

m. Ba đại nghĩa của tâm

Nói về Tam tế

1. Nghiệp tướng

2. Chuyển tướng

3. Hiện tướng

Nói về Lục thô:

1.Trí tướng

2.Tương tục tướng

3.Chấp thủ tướng

4.Kế danh tự tướng

5.Khởi nghiệp tướng

6.Nghiệp hệ khổ tướng

Nói về 2 tướng. "Giác" và "Bất giác" đều có hai tướng

1. Đồng (đồng thể)

2. Khác (khác tướng)

Nói về "Ý tương tục", có 5 tên:

1. Nghiệp thức (nghiệp tướng)

2. Chuyển thức (chuyển tướng)

3. Hiện thức (hiện tướng)

4. Trí thức (Trí tướng)

5. Tương tục thức (tương tục tướng)

Nói về "Ý thức" có 3 tên:

1. Ý thức

2. Phân ly thức

3. Phân biệt sự thức

Nói về "tâm nhiễm ô", có 6 lớp:

1. Nhiễm ô chấp trước (chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng)

2. Nhiễm ô bất đoạn (Tương tục tướng)

3. Nhiễm ô phân biệt (Trí tướng)

4. Nhiễm ô cảnh sắc (Hiện tướng)

5. Nhiễm ô năng phân biệt (Kiến tướng)

6. Nhiễm ô về nghiệp (Nghiệp tướng)

Nói về tâm nhiễm ô và Vô minh khác nhau:

Tâm nhiễm ô là phiền não, chướng, làm chướng ngại căn bản trí.

Vô minh là sở tri chướng, làm chướng ngại sai biệt trí

Nói về 3 tướng nhiễm ô sanh diệt:

1. Tướng sanh diệt thô

2. Tướng sanh diệt vừa

3. Tướng sanh diệt vi tế

Nói về 4 món huân tập:

1. Chơn như huân tập

2. Vô minh huân tập

3. Nghiệp thức huân tập

4. Cảnh giới hư vọng huân tập

Nói về cảnh giới hư vọng (sáu trần) huân tập:

Cảnh giới huân tập làm tăng trưởng vọng niệm

Cảnh giới huân tập làm tăng trưởng chấp thủ

Nói về vọng tâm (Nghiệp thức) huân tập:

Vọng tâm huân tập lại căn bản vô minh

Vọng tâm huân tập chi mạt vô minh

Nói về vô minh huân tập:

Căn bản vô minh huân tập vào chơn như

Chi mạt vô minh huân tập vào vọng tâm

Nói về chơn như huân tập:

Thể tướng chơn như huân tập

Diệu dụng chơn như huân tập

Lại chia hai phần nữa:

Chưa chứng nhập chơn như

Đã chứng nhập chơn như, được hai trí

Căn bản trí (vô phân biệt trí)

Hậu đắc trí (sai biệt trí)

Nói về Chơn như và vô minh, thỉ và chung:

Chơn như vô thỉ vô chung

Vô minh vô thỉ hữu chung

Nói về ba đại nghĩa của tâm:

Thể rộng lớn của Tâm: Tâm bình đẳng không vọng

Tướng rộng lớ của Tâm: Đủ hằng sa công đức

Dụng rộng lớn của Tâm: Báo thân, Ứng thân và Y báo trang nghiêm

(đã hết nghĩa Bất giác)

III. TRỞ VỀ CHƠN NHƯ:

Không khởi vọng niệm thì trở về Chơn như.

(Hết phần thứ nhứt (Nói rõ nghĩa chánh) trong chương thứ ba (Phần Giải thích) của Luận này).

B. ĐỐI TRỊ CÁC CHẤP SAI LẦM 

I. CHẤP NGÃ, CÓ 5 THỨ:

1. Chấp hư không là chơn tánh của Như Lai.

2. Chấp Chơn như hay Niết bàn không có chi hết.

3. Chấp Như Lai tạng có các hình tướng sai khác.

4. Chấp Như Lai tạng có đủ các pháp nhiễm ô.

5. Chấp chúng sanh có thỉ, chư Phật có chung.

II. CHẤP PHÁP:

Chấp thật có vũ trụ và vạn hữu

C. PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG PHÁT TÂM ĐẾN ĐẠO. _ Ba món phát tâm:

I. Tin hoàn toàn mà phát tâm.

II. Hiểu biết và làm mà phát tâm.

III. Chứng nhập chơn như mà phát tâm.

I. NÓI VỀ TÍN HOÀN TOÀN MÀ PHÁT TÂM:

1. Ba món Tâm trong Tín vị:

a. Trực tâm

b. Thâm tâm

c. Đại bi tâm

2. Bốn món phương tiện:

a. Phương tiện căn bản

b. Phương tiện ngăn ngừa các việc tội ác.

c. Phương tiện làm phát sanh các việc lành

d. Phương tiện Đại nguyện và Bình đẳng.

3. Tám tướng thành Đạo:

a.Giáng sanh

b.Nhập thai

c.Ở trong thai

d.Sanh ra

đ. Xuất gia

e. Thành đạo

g. Thuyếp pháp

h. Nhập Niết bàn.

II. NÓI VỀ HIỂU BIẾT VÀ LÀM MÀ PHÁT TÂM:

1. Bồ Tát biết tự tánh mình không có lục tệ:

a)Không tham lam

b)Không nhiễm ô

c)Không sân hận

d)Không giải đãi

đ)Không tán loạn

e)Không si mê

2. Bồ Tát tu lục độ

a)Bố thí

b)Trì giới

c)Nhẫn nhục

d)Tinh tấn

đ) Thiền định

e) Trí huệ

III. NÓI VỀ CHỨNG NHẬP CHƠN NHƯ MÀ PHÁT TÂM:

Bồ Tát khi nhập chơn như, rồi khởi dụng độ sanh:

1. Chơn tâm tức là thật trí.

2. Phương tiện tâm tức là Quîền trí.

3. Nghiệp thức tâm tức là Dị thục thức.

(Hết phần Giải thích về chương thứ ba)

Chương thứ tư:TÍN, TÂM, TU HÀNH, có 4 phần:

A. Bốn món Tín tâm

B. Năm môn tu hành

C. Các thứ ma chướng

D. Mười điều lợi ích tu Thiền

A. NÓI VỀ BỐN MÓN TÍN TÂM:

I. Tin căn bản (Phật tánh)

II. Tin Phật

III. Tin Pháp

IV. Tin Tăng

B. NÓI VỀ NĂM MÓN TU HÀNH (Lục độ)

I. Bố thí

II. Trì giới

III.Nhẫn nhục

IV. Tinh tấn

V. Chỉ, Quán (Định, Huệ).

C. NÓI VỀ CÁC THỨ MA CHƯỚNG:

I. Ma hiện Phật, Bồ Tát v.v...

II. Ma nói Pháp

III. Ma làm hành giả hoặc điên

D. NÓI VỀ 10 ĐIỀU LỢI ÍCH TU THIỀN

Được mười phương Phật, Bồ Tát bảo hộ v.v....

Chương thứ năm: Nói về LỢI ÍCH và KHUYẾN TU

Học và tu theo luận này sẽ được lợi ích vô cùng: hành giả nên tu theo luận Đại thừa này.

BÀI KỆ HỔI HƯỚNG

---*^*---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 76547)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 120273)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 24304)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13176)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8502)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
09/04/2016(Xem: 15397)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
05/01/2015(Xem: 18881)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
31/10/2013(Xem: 17140)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 34063)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
27/05/2013(Xem: 6460)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Hoàng Lộ,Bệ Lan Nhã, bấy giờ Vua Thần (Vua A Tu La) có tên là Bà La La và Thái Tử Thần tên Mâu Lê Già có tướng sắc uy nghi, ánh sáng chói lọi, vào lúc quá nửa đêm đến chỗ đức Phật đảnh lễ rồi đứng một bên. Khi ấy, đức Phật hỏi: -Này Bà La La, có phải mọi Thần đều không bị suy thoái về tuổi thọ, hình sắc,vui vẻ, sức mạnh, cho nên các Thần thích sống trong biển lớn chăng?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567