Pháp Hồng Danh Sám Hối này cũng thuộc về sự, do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong Kinh "Ngũ Thập Tam Phật " tức là từ đức Phật Phổ Quang cho đến Phật Nhứt Thế Pháp Tràng Mãn Vương, và rút 35 hiệu Phật trong Kinh "Quán Dược Vương, Dược Thượng" với pháp thân đức Phật A Di Đà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Đại Nguyện, thành nghi sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não.
Nghi thức sám hối này, nếu ai chí thành kính lễ, thì sẽ diệt trừ những phiền não và tội lỗi đã tạo, trong đời hiện tại cũng như nhiều đời về quá khứ. Đức Phật Tỳ Bà Thi nói: "Nếu chúng sanh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, thì trăm ngàn ức kiếp không đọa vào ba đường ác". Đức Phật Thích Ca nói: "Thuở xưa, đời Phật Diệu Quang, ta đi tu nhằm đời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu 53 vị Phật này, và thành tâm lễ bái, mà tránh khỏi những đau khổ trong đường sanh tử luân hồi nhiều kiếp". Còn 35 danh hiệu Phật sau, từ đức Phật Thích Ca cho đến đức Phật Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương, thì trong Kinh Bửu Tích nói: "Nếu tất cả chúng sanh, hoặc phạm tội ngũ nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp không thể sám hối, chỉ xưng danh hiệu 35 vị Phật này và lễ bái, thì bao nhiêu tội chướng đều tiêu trừ".
Về sau Ngài Từ Vân Pháp Sư vì những người yếu đuối hoặc không quen lạy nhiều, nên dã soạn ra một nghi thức sám hối, rất gọn dễ và đầy đủ ý nghĩa, cũng gọi là pháp tiểu sám hối, để cho Phật tử có thể hằng ngày sám hối tội lỗi của mình.
HT. Thích Thiện Hoa
Nam mô Phổ Quang Phật
Nam mô Phổ Minh Phật
Nam mô Phổ Tịnh Phật
Nam mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật
Nam mô Chiên Đàn Quang Phật
Nam mô Ma Ni Tràng Phật
Nam mô Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật
Nam mô Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật
Nam mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật
Nam mô Huệ Cự Chiếu Phật
Nam mô Hải Đức Quang Minh Phật
Nam mô Kim Cương Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật
Nam mô Đại Cường Tinh Tấn Dũng Mãnh Phật
Nam mô Đại Bi Quang Phật
Nam mô Từ Lực Vương Phật
Nam mô Từ Tạng Phật
Nam mô Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật
Nam mô Hiền Thiện Thủ Phật
Nam mô Thiện Ý Phật
Nam mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật
Nam mô Kim Hoa Quang Phật
Nam mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật
Nam mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật
Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật
Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật
Nam mô Bất Động Trí Quang Phật
Nam mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật
Nam mô Tài Quang Minh Phật
Nam mô Trí Huệ Thắng Phật
Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật
Nam mô Thiên Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật
Nam mô Thế Tịnh Quang Phật
Nam mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật
Nam mô Nhật Nguyệt Quang Phật
Nam mô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật
Nam mô Huệ Tràng Thắng Vương Phật
Nam mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật
Nam mô Diệu Âm Thắng Phật
Nam mô Thường Quang Tràng Phật
Nam mô Quan Thế Đăng Phật
Nam mô Huệ Oai Đăng Vương Phật
Nam mô Pháp Thắng Vương Phật
Nam mô Tu Di Quang Phật
Nam mô Tu Ma Na Hoa Quang Phật
Nam mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật
Nam mô Đại Huệ Lực Vương Phật
Nam mô A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật
Nam mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật
Nam mô Tài Quang Phật
Nam mô Kim Hải Quang Phật
Nam mô Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật
Nam mô Đại Thông Quang Phật
Nam mô Nhứt Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Kim Cang Bất Hoại Phật
Nam mô Bảo Quang Phật
Nam mô Long Tôn Vương Phật
Nam mô Tinh Tấn Quân Phật
Nam mô Tinh Tấn Hỷ Phật
Nam mô Bảo Hỏa Phật
Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật
Nam mô Hiện Vô Ngu Phật
Nam mô Bảo Nguyệt Phật
Nam mô Vô Cấu Phật
Nam mô Ly Cấu Phật
Nam mô Dõng Thí Phật
Nam mô Thanh Tịnh Phật
Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật
Nam mô Ta Lưu Na Phật
Nam mô Thủy Thiên Phật
Nam mô Kiên Đức Phật
Nam mô Chiên Đàn Công Đức Phật
Nam mô Vô Lượng Cúc Quang Phật
Nam mô Quang Đức Phật
Nam mô Vô Ưu Đức Phật
Nam mô Na La Diên Phật
Nam mô Công Đức Hoa Phật
Nam mô Liên Hoa Quang Du Hý Thần Thông Phật
Nam mô Tài Công Đức Phật
Nam mô Đức Niệm Phật
Nam mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật
Nam mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật
Nam mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật
Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật
Nam mô Thiện Du Bộ Phật
Nam mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Đức Phật
Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật
Nam mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật
Ngày nay, khái niệm An cư kiết hạ không còn xa lạ với những người đệ tử Phật. Theo Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma (q.4) giải thích nghĩa lý an cư như sau: “Thân và tâm tĩnh lặng gọi là an. Quy định thời gian ở một chỗ gọi là cư”.
Trong các chùa Phật giáo ở Trung Quốc và Việt Nam, một số loại thuộcpháp khí như chuông, trống, mõ được dùng để trang nghiêm nơi đạo tràng,hoặc thêm phần sắc thái lễ nhạc trong lúc tụng kinh, lễ sám, thuyếtpháp v.v... Những loại này xuất hiện từ hồi nào? Nhằm mục đích gì?... Chuông, trống được đưa vào PG từ khi Đức Phật còn sanh tiền với mục đích tập hợp chúng Tăng. Về sau, chuông, trống, mõ được dùng trong các nghi lễ để trang nghiêm đạo tràng...
Phật Giáo Đông truyền trong tâm niệm đem giáo lý Đại Thừa chiếu sáng Phương Đông, vì lẽ đó trong bất cứ lĩnh vực nào về văn hóa nghệ thuật, triết học, văn học, thi ca, tín ngưỡng, âm nhạc, phong tục, tập quán củangười Đông phương mà không thấy không có sự hiện diện của Phật Giáo, cũng như tinh thần từ bi phổ độ bình đẳng của Phật Đà, sự hòa nhập trongtinh thần vô tư chỉ có một mục đích duy nhất là “Hoằng Pháp Độ Sanh” nên ngày nay khi nói đến văn hóa Đông phương người ta không thể không nhắc đến Phật Giáo.
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân. Cách bài trí các tượng Phật ở chánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
Nghi lễ biểu hiện lòng thành kính đối với Tam Bảo: Tín đồ luôn có một niềm tin sâu sắc và thành kính đối với Tam Bảo. Niềm tin đó tạo sự chuyển hóa trong nội tâm...
Từng nghe, pháp không tự khởi, nhờ cảnh mới sanh, đạo chẳng hư hành, gặp duyên liền ứng. Hôm nay, hoa đàn la liệt, Phật sự xiển dương, hương xông triện báu
Trong Đạo Phật, lòng từ bi được đưa lên hàng đầu. vì thương tưởng đến loài chúng sanh bị đói khát, đau khổ mà đức Phật và chư Tổ đã dạy phương Pháp bố thí cho loài Ngạ quỷ, súc sanh...
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.