Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viên Tịch và Tân Viên Tịch

13/11/201516:20(Xem: 5510)
Viên Tịch và Tân Viên Tịch

lotus_3 

VIÊN TỊCH và TÂN VIÊN TỊCH

 



Trước đây do phương tiện truyền thông còn nhiều hạn chế nên người ta ít khi nghe và thấy chữ "Tân Viên Tịch" trong các văn thư, cáo phó, phân ưu, điếu từ và điếu văn trên các phương tiện truyền thông, nhưng gần đây người ta thấy chữ "Tân Viên Tịch" nhiều hơn trước để chỉ sự kiện một vị Tôn Đức Tăng Ni Giáo Phẩm vừa viên tịch.  Vậy trong thực tế có sự khác nhau giữa viên tịch và tân viên tịch không?


Trong Kinh Luận Đại Thừa thì có Tân Vãng Bồ Tát và Cựu Trụ Bồ Tát, tức là tên gọi để phân biệt Bồ Tát mới vãng sinh về cõi Tịnh Độ với Bồ Tát đã trụ ở cõi Tịnh Độ từ trước.  Nhưng đấy là một phạm vi kinh luận khác còn chữ "Tân" trong "Tân Viên Tịch" chỉ thuần là phạm vi ngôn ngữ mà thôi.  Về phương diện ngôn ngữ học thì chữ "tân" được dùng dưới ý nghĩa tỉnh từ (mới / new) nhiều hơn trạng từ (vừa / newly / recently) như tân hôn, tân lang, tân giai nhân, tân gia, v.v...; tuy thỉnh thoảng cũng có dùng, ở vị trí trạng từ, nhưng ít lắm, như tân trang, tân tạo.  Trong chữ "tân viên tịch" thì chữ "tân" (mới, vừa xảy ra) là trạng từ; chữ "viên tịch" là động từ.  Chữ "tân" trong "tân viên tịch" hoàn toàn không mang ý nghĩa "mới" (tân / new / tỉnh từ) để đối chiều với "cũ" (cựu / old, former / tỉnh từ) mà chỉ mang ý nghĩa "vừa xảy ra" (tân / newly, recently / trạng từ).

Về phương diện kinh luận Phật học thì chữ "tân viên tịch" cũng không được khế lý mặc dầu trong ý nghĩa xã hội thì có vẻ khế cơ.  Viên tịch hay niết bàn (Sancrit: Nirvàna / Pali: Nibbàna / Nir là không, không còn, không có; Vàna là vọng, tham, dục, dục vọng, tham vọng, vọng tưởng) là một biến cố cấp kỳ, xảy ra trong sát-na chớp nhoáng (mỗi ngày có 24 giờ và gồm 4.800.000 sát-na) như thổi tắt ngọn đèn, và có nghĩa là diệt tận vòng quay sinh tử luân hồi, hoàn toàn giải thoát để vào một cõi sống khác đầy an lạc.  Khoảnh khắc viên tịch như một niệm, khởi lên và tan biến ngay lúc đó như khi ta nghĩ về, nhớ đến hình ảnh người thân yêu thì hình ảnh đó hiện ra ngay cho dầu người thân của chúng ta đang ở đâu đó trên trái đất này.  Tình trạng đau yếu, và thời gian bệnh hoạn, kể cả khoảng thời gian lâm chung và trăn trối không phải là thời điểm viên tịch mà là giai đoạn trả nghiệp mà người lâm chung đã tạo ra trong cuộc đời của họ.  Để hình dung được sự viên tịch và hành viên tịch thì phải hiểu sát-na là gì?

" Nhất sát-na vi nhất niệm.
Nhị thập niệm vi nhất thuấn.
Nhị thập thuấn vi nhất đàn-chỉ.
Nhị thập đàn-chỉ vi nhất la-dự.
Nhị thập la-dự vi nhất tu-du.
Nhất nhật nhất dạ hữu tam thập tu-du.

一刹那为一
二十念为一
二十瞬为一弹
二十弹指为一罗预
二十罗预为一须
一日一夜有三十

1 sát-na là 1 niệm
20 niệm là 1 thuấn
20 thuấn là 1 đàn-chỉ
20 đàn-chỉ là 1 la-dự
20 la-dự là 1 tu-du
1 ngày 1 đêm có 30 tu-du."


["Nhất Sát-Na" Thị Đa Cửu / Huỳnh Chương Hưng dịch]

Như vậy trọn mỗi một ngày đêm trong 24 giờ thì có 4.800.000 sát-na và được tính như sau:

30 tu-du x 20 la-dự x 20 đàn-chi x 20 thuấn x 20 niệm = 4.800.000 niệm mà mỗi niệm là một sát-na.

Mỗi lời, mỗi chữ đều có nội hàm và ngoại diên của nó và nó còn tùy thuộc vào ngữ cảnh (context) mà thay đổi ý nghĩa nữa.  Trong ngôn ngữ thường dùng mỗi ngày chúng ta thường gặp những mâu thuẩn thật khó nói; chẳng hạn như, khi một tín hữu Thiên Chúa Giáo từ trần thì tang gia đưa ra một cáo phó với nội dung “Gia đình chúng tôi vô cùng đau buồn báo tin Cụ Phê-rô Nguyễn Văn A … đã được Chúa gọi về ngày …” và rồi sẽ nhận được nhiều phân ưu như “Nhận được tin buồn Cụ Phê-rô đã được Chúa gọi về ngày … chúng tôi xin thành kính chia buồn … .”  Được Chúa gọi về Nhà Cha ở trên Trời là một tin vui chứ sao lại tin buồn; tin buồn là khi nào bị Chúa gọi về mới hợp lý. 

Ngôn ngữ là một quy ước không thuần lý nên ở đây, là người Phật tử, chúng ta nên hiểu rõ sự khác nhau giữa hai chữ “Viên Tịch” và “Tân Viên Tịch” do tập tục lâu đời trong sinh hoạt sơn môn như sau.  Và ở đây cũng cần nói qua về ý nghĩa hai chữ “sơn môn” và “hệ phái.”  Sơn môn nghĩa đen là cổng chính của một ngôi chùa được kiến lập ở chốn núi rừng, nghĩa thông thường là cửa chùa, nhưng nghĩa rộng thường được dùng trong nhóm chữ “sơn môn hệ phái” thì sơn môn là chùa Tổ, là Tổ đình, là môn phái trong Phật giáo.  Sơn môn và hệ phái được hiểu như là một chi nhánh, một cấp nhỏ hơn của một Tông chính.

Khi một vị Tôn Đức Tăng Ni Giáo Phẩm cao cấp như các bậc Cao Tăng, Trưởng Lão, Đại Lão Hòa Thượng, Đại Lão Ni Trưởng, Hòa Thượng, Ni Trưởng hay vị Phương Trượng, Trụ Trì, Viện Chủ từ trần thì theo tập tục sơn môn, vị Tăng sĩ phụ trách giới luật, thanh quy phải viết tôn kính vị Tôn Đức đó là “Hòa Thượng, Thượng Tọa Tân Viên Tịch” để bày tỏ lòng thương tiếc và kính trọng theo đúng tinh thần văn hóa “tôn lão, kỉnh trưởng” của dân tộc Việt Nam.  Chữ “Tân Viên Tịch” được dùng từ ngày viên tịch cho đến khi xong Lế Giỗ lần thứ nhì, tức là mãn phục Đại Tường, và sau đó là Lễ Thỉnh Nhập Tổ Vị.

Khi một vị Tôn Đức Tăng, Ni còn tương đối trẻ tuổi và chưa giữ trách nhiệm Trụ Trì, Viện Chủ mà từ trần vì bất cứ nguyên do gì thì chúng ta, môn đồ, Pháp quyến, và đồng bào Phật tử xa gần vẫn chỉ nói và viết "Thượng Tọa / Đại Đức (Pháp danh) vừa viên tịch lúc 11 giờ 22 phút 33 giây ngày 14 tháng 11 năm 2015" như xưa nay mà thôi.

Trần Việt Long

San Jose, 15-11-2015

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2010(Xem: 7703)
Trong các chùa Phật giáo ở Trung Quốc và Việt Nam, một số loại thuộcpháp khí như chuông, trống, mõ được dùng để trang nghiêm nơi đạo tràng,hoặc thêm phần sắc thái lễ nhạc trong lúc tụng kinh, lễ sám, thuyếtpháp v.v... Những loại này xuất hiện từ hồi nào? Nhằm mục đích gì?... Chuông, trống được đưa vào PG từ khi Đức Phật còn sanh tiền với mục đích tập hợp chúng Tăng. Về sau, chuông, trống, mõ được dùng trong các nghi lễ để trang nghiêm đạo tràng...
28/09/2010(Xem: 4104)
Phật Giáo Đông truyền trong tâm niệm đem giáo lý Đại Thừa chiếu sáng Phương Đông, vì lẽ đó trong bất cứ lĩnh vực nào về văn hóa nghệ thuật, triết học, văn học, thi ca, tín ngưỡng, âm nhạc, phong tục, tập quán củangười Đông phương mà không thấy không có sự hiện diện của Phật Giáo, cũng như tinh thần từ bi phổ độ bình đẳng của Phật Đà, sự hòa nhập trongtinh thần vô tư chỉ có một mục đích duy nhất là “Hoằng Pháp Độ Sanh” nên ngày nay khi nói đến văn hóa Đông phương người ta không thể không nhắc đến Phật Giáo.
23/09/2010(Xem: 10153)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
22/09/2010(Xem: 8739)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân. Cách bài trí các tượng Phật ở chánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
20/09/2010(Xem: 6830)
Nghi lễ biểu hiện lòng thành kính đối với Tam Bảo: Tín đồ luôn có một niềm tin sâu sắc và thành kính đối với Tam Bảo. Niềm tin đó tạo sự chuyển hóa trong nội tâm...
19/09/2010(Xem: 14213)
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt, Toát hơi may lạnh buốt xương khô, Não người thay buổi chiều thu, Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
18/09/2010(Xem: 4856)
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh, lạc bang giáo chủ, y chánh trang nghiêm, tứ thập bát nguyện độ chúng sanh, cữu phẩm liên đài mông thát hóa
18/09/2010(Xem: 4839)
Từng nghe, pháp không tự khởi, nhờ cảnh mới sanh, đạo chẳng hư hành, gặp duyên liền ứng. Hôm nay, hoa đàn la liệt, Phật sự xiển dương, hương xông triện báu
18/09/2010(Xem: 5983)
Trong Đạo Phật, lòng từ bi được đưa lên hàng đầu. vì thương tưởng đến loài chúng sanh bị đói khát, đau khổ mà đức Phật và chư Tổ đã dạy phương Pháp bố thí cho loài Ngạ quỷ, súc sanh...
15/09/2010(Xem: 3714)
Đấng Pháp vương vô thượng, Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người, Cha lành chung bốn loài. Quy y tròn một niệm, Dứt sạch nghiệp ba kỳ, Xưng dương cùng tán thán, Ức kiếp không cùng tận.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567