Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp phục của PGVN từ triều Lý đến nay

16/08/201311:44(Xem: 8313)
Pháp phục của PGVN từ triều Lý đến nay

Mao_Dia_TangThiết nghĩ, Phật Giáo Việt Nam cần nghiên cứu và có quy định thống nhất về phẩm phục của tu sĩ, sao cho vừa hội nhập được với Phật giáo quốc tế, Phật giáo khu vực, vừa giữ được bản sắc truyền thống Phật giáo VN.

Đạo Phật từ Ấn Độ theo con đường thương mại trên biển vào nước ta từ đầu Tây lịch, tính đến nay cũng đã ngót 2.000 năm. Tuy nhiên, phẩm phục của các tu sĩ Phật giáo Bắc tông từ đó đến nay như thế nào là một vấn đề cần sự quan tâm của các nhà nghiên cứu Phật giáo.

Đức Thích Ca Mâu Ni sinh thời sinh hoạt, hành động thế nào, nay không thể biết rõ được. Song cứ góp nhặt các việc tản mạn trong kinh sách mà suy luận ra thì cũng có thể tưởng tượng cách sinh hoạt, hành vi của Phật đại khái như sau : "sáng dậy sớm, khoác áo cà sa (kashaya), tay cầm bình bát ra ngoài thành hay vào trong xóm làng, đi từng nhà một để khất thực".

Cà sa, (kasàya - y phục), từđiển Phật học (1) định nghĩa như sau : Tên gọi đầy đủ là cà sa duệ... Pháp y của Tỳ kheo có ba loại : đại, trung và tiểu; tránh dùng năm màu chính : xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, mà lại dùng pha trộn các màu đó, nên theo sắc mà gọi là cà sa. Ba loại áo đại, trung, tiểu cũng có tên riêng. Loại nhỏ gọi là An đà hội (antarvasaka), còn có tên là áo năm mảnh (ngũ điều y); áo loại trung gọi là Uất đa la tăng (yttaarasamha), còn gọi là áo bảy mảnh (thất điều y); áo loại lớn gọi là Tăng già lê (samhati) cũng gọi là áo chín mảnh (cửu điều y). Theo Lục vật đồ, cà sa có 12 tên gọi : 1. Cà sa; 2. Đạo phục, áo của người tu đạo Phật; 3. Thế phục, áo của người xa rời cách biệt thế tục; 4. Pháp y, áo theo đúng pháp quy định; 5. Ly trần tục, áo xa rời cách biệt lục trần; 6. Tiêu sấu phục, áo có khả năng trừ phiền não; 7. Liên hoa phục, áo như hoa sen không nhiễm bùn hôi; 8. Gián sắc phục, áo không dùng 5 màu chính, 5 màu nguyên, mà đã nhuộm cho biến màu đi; 9. Từ bi phục, áo của người thực hành đức từ bi; 10. Phúc điền phục, áo cà sa do nhiều miếng vải nhỏ chắp lại, như từng thửa ruộng trên cánh đồng; cũng lại như phúc điền (ruộng phúc lộc); 11. Ngọa cụ, được dùng như cái nệm để nằm; 12. Phu cụ, được dùng như cái chăn để đắp. Kinh Tâm địa quán nêu 10 điều có lợi của áo cà sa, gồm có : 1. Che thân khỏi thẹn ngượng; 2. Tránh ruồi muỗi, nóng rét; 3. Biểu thị các tướng của Sa môn; 4. Kho chứa châu báu (tức Diệu Pháp của Phật); 5. Khi mặc, nảy sinh bảo tháp tướng, diệt mọi tội; 6. Màu không thắm tươi rực rỡ, nảy sinh lòng không tham muốn; 7. Cà sa là áo thanh tịnh của Phật, vĩnh viễn đoạn trừ phiền não, phát sinh mọi sự tốt lành, như thửa ruộng tốt cho bội thu; 8. Tiêu trừ tội lỗi, phát sinh mười điều thiện; 9. Như nơi đất tốt, có thể nảy nở mầm Bồ đề; 10. Như áo giáp, mũi tên độc phiền não không làm hại được, vì thế mà chư Phật ba đời đều mặc.

Khi đạo Phật từ Ấn Độ truyền theo hướng Nam (Nam truyền) và hướng Bắc (Bắc truyền) thì cà sa của các tu sĩ Phật giáo giữa hai phái cũng có sự khác nhau về màu sắc (tu sĩ Ấn Độ và Nam truyền thường dùng màu vàng nghệ; Trung Quốc dùng cà sa màu đỏ pha đen, Nhật Bản dùng màu trà sẫm). Ở Ấn Độ chỉ có ba loại cà sa trên, không còn thứ áo nào khác; Trung Quốc và Nhật Bản khí hậu lạnh, cho nên trong mặc thêm các thứ áo quần, ngoài khoác áo cà sa.

1- Triều Lý

Sau khi lên ngôi vào cuối năm 1009, Lý Công Uẩn : "Ban áo mặc cho hàng Tăng đạo" (2). Tuy nhiên sách không nói rõ có bao nhiêu loại áo và màu sắc cụ thể.

Trong sách Thiền uyển tập anh (3), đoạn chép về Quốc sư Thông Biện (? - 1134) thế hệ thứ VII dòng thiền Vô Ngôn Thông, ghi rằng : "... Năm 1096, sư được Phù Thánh Cảm Linh Nhân Hoàng thái hậu (tức Nguyên phi Ỷ Lan, mẹ vua Lý Nhân Tông) phong làm Tăng thống, ban áo cà sa màu tía, ban hiệu là Thông Biện Đại sư, hậu thưởng để tỏ rõ vinh sủng. Sau Thái hậu lại thỉnh sư vào đại nội, phong làm Quốc sư để tham vấn". Còn đoạn viết về Thiền sư Bảo Giám (? - 1173) ghi rằng : "Trụ trì chùa Bảo Phúc, quận Mỹ Lăng (huyện Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay)... Chẳng mấy chú ý đến bản thân, sư thường ăn vận đồ sô gai, hàng tơ lụa không bao giờ dùng đến, năm này qua năm khác cứ giữ một mực như thế".

2- Triều Trần

Phật hoàng Trần Nhân Tông, thống nhất ba dòng thiền : Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thảo Đường thành Thiền phái Trúc Lâm mang đậm nét Phật giáo Việt Nam, tuy nhiên không thấy Ngài quy định thống nhất y phục tu sĩ Phật giáo.

3- Thời Lê - Trịnh

Có lẽ, từ triều Trần trở đi cho tới triều Lê - Trịnh y phục các nhà sư Bắc tông chỉ gồm hai loại như triều Lý : Áo cà sa dùng trong các buổi lễ và bộ nâu sồng dùng thường ngày.

4- Các Chúa Nguyễn và triều Nguyễn

Các chúa Nguyễn rất quan tâm đến Phật giáo. Chúa Nguyễn Phúc Chu từng mời Hòa thượng Thạch Liêm (Quảng Châu, Trung Quốc) sang hoằng pháp ở Đàng Trong và được Hòa thượng ban hiệu cho làThiên Túng Đạo nhân. Một hôm (năm 1695), Chúa hỏi Hòa thượng Thạch Liêm : "Đệ tử từ bé nghe hai chữ Phật pháp đã sinh tâm kính ngưỡng, mỗi lúc gặp tu sĩ áo lam tức thì hoan hỷ, chẳng biết kiếp trước là ai ? Làm phúc nghiệp gì ? mà nay sinh ra làm vua ở đây ? Xin tôn sư chỉ điểm cho biết, hầu chẳng quên nghiệp trước, đội đức từ bi vô lượng" (4).

Đoạn văn trên cho ta biết, đến thế kỷ XVII, ngoài cà sa và áo nâu, có áo lam đã là y phục của tu sĩ Phật giáo Đàng Trong.

5- Từ thế kỷ XX tới nay

Có lẽ do cách ăn mặc khác như vậy mà đến tháng 5 năm 1927, khi được tin phong trào chấn hưng Phật giáo ngoài Bắc có người khởi xướng và một số sơn môn ủng hộ thực hiện, được báo chí cổ động, Hòa thượng Lê Khánh Hòa cử Giáo thọ Thiện Chiếu ra Bắc bắt liên lạc với các Tổ đình ngoài đó để xúc tiến thành lập Tổng hội Phật giáo (tức thống nhất Phật giáo ba miền). Sư Thiện Chiếu ra Hà Nội đến chùa Bà Đá (Linh Quang tự) yết kiến Hòa thượng Đỗ văn Hỷ rồi xin phép lên động Tiên Lữ, Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên để gặp sư Tâm Lai. Vì Thiện Chiếu "đột ngột ăn mặc theo cái lối khác sư Bắc kỳ đến, lại không đưa pháp giới cho Sư ông Lai xem" nên sư Tâm Lai lo ngại, không bộc bạch hết tâm sự về chấn hưng Phật giáo với Thiện Chiếu, do đó cuộc gặp không thành công.

Tuy nhiên ngọn lửa chấn hưng vẫn âm ỉ và bùng phát vào những năm 1930, mở đầu là sự thành lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học (8-1931), rồi Hội An Nam Phật học ở Trung kỳ (1932) rồi Hội Phật giáo Bắc kỳ (11-1934).

Chúng ta hãy điểm qua điều lệ, quy tắc của một số Hội Phật giáo xem các Hội đó đề cập đến vấn đề y phục tu sĩ Phật giáo ra sao.

a) Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học

Hội thành lập năm 1931. Nhưng điều lệ của Hội thông qua ngày 28-12-1929 có 4 chương, 19 điều và Nội Quy riêng của Hội thông qua ngày 21-9-1931 gồm 2 chương, 51 điều, nhưng không có một điều nào quy định về y phục của Tăng sĩ.

Tới Đại hội lần III họp ngày 8 tháng 1 năm 1933, thông qua quy tắc thiền môn, gồm 36 điều, trong đó điều 33 quy định :

Các vị Tăng già đã vào hội thì phải mặc y phục, đã định hôm kỳ Đại hội ngày 8 tháng 1 năm 1933 như sau đây: Hòa thượng, Yết ma và Giáo thọ, thì mặc áo tràng màu thâm, còn Tăng chúng thì mặc áo nhật bình cùng màu thâm, quần và dù màu trắng, và đầu chẳng đặng bịt khăn (nghĩa là đầu không được bịt khăn - NĐĐ).

Như có đám, thì các vị tăng già cũng phải dùng y phục của Hội đã định trên đó (5).

b) Hội An Nam Phật học (Phật học Trung Kỳ)

Hội thành lập năm 1932. Điều lệ Hội ban hành ngày 15-7-1938 do Khâm sứ đại thần Trung Kỳ phê duyệt có 80 điều; kèm theo là Nội Quy An Nam Phật học hội có 17 điều, cả hai văn bản này đều không có một điều nào nói về y phục Tăng sĩ của Hội.

c) Hội Phật giáo Bắc kỳ (Hội Việt Nam Phật giáo)

Tại lễ suy tôn Thiền gia Pháp chủ Thích Thanh Hanh ngày 12 tháng 1 năm 1936 (18 tháng Chạp năm Ất Hợi) tại chùa Quán Sứ, 73 phố Richaud : "Tổ Vĩnh Nghiêm ngoài 90 tuổi, da mồi tóc bạc, thân gầy mắt lõm, đeo cặp kính đồi mồi, mình bận chiếc áo rộng điều, đầu đội mũ ni, do hai vị sư kính cẩn xốc hai bên nách, nhẹ nhàng bước từng bước một tiến lên, theo sau có hai vị sư ở Huế ra, mình bận áo cà sa màu vàng, đầu đội mũ miến chỉ vàng".

Tại lễ đặt móng chùa Hội quán Trung ương sáng ngày 26 tháng 6 năm 1938 (20-5-Mậu Dần) : "...8g30, Sư tổ Liên phái kỳ túc nhất mặc mũ áo Thiền gia Pháp chủ và 4 vị Kỳ túc Đạo sư mặc xa đàn cùng chư Tăng lên Tam bảo cúng Phật, viên đá mỏng thứ nhất đặt trước Tam bảo...".

Báo Đuốc tuệ số 89 ra ngày 15-7-1938 có trưng cầu ý kiến về vấn đề cải cách trong Phật giáo, nêu 5 vấn đề trong đó có vấn đề thứ tư : "Phục sức của Tăng Ni và lễ phục của cư sĩ nên chế ra thế nào ?".

Tuy nhiên, cho tới năm 1945, chưa thấy có ý kiến nào góp ý về y phục của Tăng sĩ đăng trên báo Đuốc Tuệ (6).

d) Giáo hội Tăng già (GHTG) Việt Nam

Đại hội thành lập GHTG toàn quốc họp từ ngày 7 - 14-9-1952 tại chùa Quán Sứ, Hà Nội đã ra đòi Bản quy chế về phẩm phục của chư Tăng thi hành toàn cõi Việt Nam :

Về phẩm phục có sự thay đổi như sau :

Pháp phục bình thường :

- Thượng tọa bộ : áo tràng bảy thân, tay rộng;
- Đại chúng bộ : áo tràng bảy thân, tay hẹp;
- Sa di : áo nhật bình tay hẹp;
- Hình đồng : áo cài khuy cổ đứng, năm thân;
- Hạ y : quần cũng toàn dùng màu nâu thẫm;

Áo mặc thường ngày của Ni giới thì kiểu may như 4 bộ của Tăng giới nhưng dùng toàn màu mực (khói hương).

Về lễ phục :

- Tăng giới : cà sa toàn dựng màu vàng, áo tràng rộng màu mực khói hương;
- Ni giới : cà sa và áo tràng rộng đều dùng màu nâu.

Từ ngày 10-12-1952 (14-10 năm Nhâm Thìn) chư Tăng chùa Quán Sứ, Hà Nội và chùa Vọng Cung, Nam Định đã bận lễ phục mới theo đúng quy chế của Hội nghị GHTG toàn quốc ấn định. Lễ phục của Tăng giới là áo cà sa toàn màu vàng, áo tràng rộng bằng màu mực (khói hương) và thường phục dùng toàn màu nâu thẫm. Bên Ni giới, lễ phục là áo cà sa và áo tràng rộng dùng toàn màu nâu thẫm. Theo quy chế thường phục của Ni giới phải là màu khói hương, nhưng phần đông Ni chúng ở Nam và Bắc có gửi thư xin dùng màu lam để tránh đồng với sắc áo lễ của chư Tăng, nên Hội đồng Trị sự GHTG Việt Nam đã đồng ý để Ni chúng được dùng thường phục màu nâu như trước...

Kết luận

Cho đến nay, trải qua những thời kỳ khác nhau, nhiều tổ chức Phật giáo khác nhau trong hệ thống Bắc tông Phật giáo đều tuân theo quy định nói trên.

Tuy nhiên, từ năm 1952 đã ngót 60 năm, việc thực hiện Quy chế Phẩm phục tuy đã có sự thay đổi về màu sắc, về y phục, về lễ phục, nhưng đến các ngày Đại lễ trong năm Pháp phục của chư Tăng Ni vẫn chưa được thống nhất,... Thiết nghĩ, Phật giáo Việt Nam cần nghiên cứu và có quy định thống nhất trong cả nước về phẩm phục của tu sĩ, sao cho vừa hội nhập được với Phật giáo quốc tế, Phật giáo khu vực, vừa giữ được bản sắc truyền thống Phật giáo Việt Nam./.

Nguyễn Đại Đồng

Từ điển Phật học của Phân viện NCPH VN tại Hà Nội, do Nhà xuất bản KHXH ấn hành năm 2004. (2) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1, Nxb Giáo Dục, 2007. (3) Thiền uyển tập anh, Nxb. Văn Học, 1990 (4) Dẫn theo Lược khảo Phật giáo sử VN, Vân Thanh, trang 158, Phật học viện và các chùa xuất bản năm 1974. (5) Xem Từ bi âm số 1, ra ngày 1-1-1931. (6) Các Hội Phật học khác như Hội Lưỡng Xuyên Phật học, Hội Thiên Thai Thiền giáo tông liên hữu hội v.v... đều không có quy định về y phục tu sĩ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2023(Xem: 4801)
Ngưỡng bạch Chư Tôn Thiền Đức, thân mẫu chúng con khi sinh tiền dốc lòng vun trồng cội phúc, gieo nhân chí thiện cần mẫn cực nhọc lo lắng cho chúng con. Nhớ lại những khi răn bảo dặn dò, những lúc nhọc nhằn nuôi dưỡng. Nhưng hởi ôi ! Ân sâu chưa trả, nghĩa nặng chưa đền mà ngày nay người đã vĩnh viễn ra đi để lại muôn vàn nhớ thương cho con cháu. Thật: Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, Con muốn phụng dưỡng mà Cha Mẹ đã khuất bóng.
14/09/2023(Xem: 1172)
1) Nhẹ nhàng ra đi an lành trong tiếng Niệm 'Nam Mô A Di Đà Phật" của người thân trong gia đình 2) Thành tựu hạnh hiếu thảo cho tất cả người con dâu rể và các cháu qua việc tận tụy chữa bệnh, đặc biệt chăm sóc Ba Mười của Bé Thảo (Tâm Tịnh gọi bằng Cậu Mười_nằm liệt giường) trong khoảng thời gian 11 tháng (kể cả 2-3 tháng nằm tại Khoa Hồi Sức Tích Cực Chống Độc Bệnh Viện Đà Nẵng). Các con (kể cả dâu và rể) thường xuyên thay phiên túc trực chăm sóc Ba hàng đêm, ngày, đặc biệt là con dâu Thủy và con gái út Thảo bằng cả tấm lòng hiếu thảo của mình.
03/05/2023(Xem: 125984)
Chết và tái sinh. Thích Nguyên Tạng (sách, tái bản 2007) Phật giáo khắp thế giới . Thích Nguyên Tạng (sách) Pháp Sư Tịnh Không, người truyền bá giáo lý Tịnh Độ (sách) Từ bi và nhân cách . Dalai Lama. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không . T. Ng. Tạng dịch (sách) Hỏi hay đáp đúng . Ven. Dhammika. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Các Bộ Phái Phật Giáo ở Ấn Độ. Dr.Nalinaksha Dutt.T Ng. Tạng dịch (sách)
29/04/2023(Xem: 2152)
Những ngày sau tết âm lịch, nhất là càng gần đến Đại Lễ Phật Đản, tôi càng đau đáu tâm huyết lan toả Chánh Pháp, muốn Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nằm sẵn trong Kinh Phật gốc Nikaya lan toả đến muôn nơi, đến thật nhiều những người con của Phật, không chỉ quý vị xuất sĩ mà cả các cư sĩ tại gia. Và cứ thế tôi tìm cách tặng Kinh Nikaya, tạo duyên để Nikaya đến nhiều nhất những người thân và học trò thật sự muốn tu tập theo Chánh Pháp, hết sức có thể.
11/09/2022(Xem: 2050)
Sáng 10-9 (15-8-Nhâm Dần), chư tôn đức Tăng Ni cùng đông đảo Phật tử đã vân tập tại Chánh điện chùa Long Sơn để dự lễ Huý Nhật lần thứ 9 (2013-2022) đức Trưởng lão Hoà thượng Thích Chí Tín, trụ trì chùa Long Sơn và hiệp kỵ chư tôn Hoà thượng giáo phẩm, lãnh đạo GHPGVN Tỉnh Khánh Hoà qua các thời kỳ. Tham dự buổi lễ Hiệp kỵ có sự hiện diện của HT. Thích Quảng Thiện – thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo Hội, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Khánh Hoà; HT. Thích Minh Thông - Uỷ viên Hội đồng Trị sự, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Khánh Hoà, cùng chư tôn Hoà thượng, Thượng toạ, Đại đức Tăng Ni các tự viện gần xa. Trước đó, vào tối ngày 09 tháng 9 (14-8- Nhâm Dần) chư Tôn đức Bổn tự và quý Phật tử đã tụng kinh Di giáo trước ban thờ di ảnh quý Ngài.
15/08/2022(Xem: 3328)
Đại đức Tăng xin lắng nghe, tôi Tỳ Kheo .. xin vì Tăng xướng lên các tiêu tướng bốn phương của Tiểu Giới (tức là Giới Trường) từ gốc đông-nam của trú xứ này, lấy (nói lên vật dùng làm Tiêu Tướng) làm nêu. Từ đông-nam đây về hướng tây (nói đến đây, Tỳ Kheo xướng tướng đi đến góc tây-nam thì dừng lại, đứng yên, hướng về phía chúng tăng, bạch tiếp) đến góc tây-nam, lấy .. làm nêu. Từ tây-nam đây về hướng bắc (nói đến đây, Tỳ Kheo xướng tướng đi đến góc tây-bắc thì dừng lại, đứng yên, hướng về phía chúng Tăng bạch tiếp) đến góc tây-bắc, lấy .. làm nêu. Từ tây-bắc đây về hướng đông (nói đến đây, Tỳ Kheo xướng tướng đi đến góc đông-bắc thì dừng lại, đứng yên, hướng về phía chúng Tăng bạch tiếp) đến góc đông-bắc, lấy .. làm nêu. Từ đông-bắc đây về hướng nam (nói đến đây, Tỳ Kheo xướng tướng đi đến góc đông-nam thì dừng lại, đứng yên, hướng về phía chúng Tăng bạch tiếp) trở lại góc đông-nam, lấy . Làm nêu. Đây là xướng xong một vòng gồm các tiêu tướng ngoài
14/08/2022(Xem: 4386)
Người đạo đức tình thương Trăng thanh nước bích Kiều môn cùng dòng họ Thích Ni chúng đồng phái nhà thiền Nghìn nhà một bát hóa duyên Muôn dặm cô thân ứng cúng
16/07/2022(Xem: 9731)
Bồ đề nhất bá bát Diệt tội đẳng hà sa Viễn ly tam đồ khổ Xích sắc biến liên hoa Nam Mô A Di Đà Phật.
06/02/2022(Xem: 11459)
Quang Lưu xứ xứ u minh thất, Ảnh hóa phân thân tọa đạo tràng, Nguyện độ hương linh qui bổn quốc. Cửu liên đài trực vãng Tây Phương. Nam mô Tiến Linh Diên (Vãng Sanh) Bồ Tát Dịch nghĩa: Nơi nơi ngục tối hiện hào quang Ảnh hoá phân thân ngồi đạo tràng Nguyện độ hương linh về bổn quốc Đài sen chín phẩm thẳng Tây phương Nam Mô Tiến Linh Diên ( Vãng Sanh) Bồ Tát
09/01/2022(Xem: 4900)
Chúng con cung kính nghe rằng: Núi Tuyết tu nhơn, Khổ hạnh sáu năm quả mãn; Sao Mai ứng dạng, Hân hoan muôn đức công thành! Một Phật giáng sanh, Muôn loài hưởng phước! Nay có Tăng chúng, Và chư Phật tử chúng con.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567