Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sám Quy Mạng.

08/04/201311:44(Xem: 11549)
Sám Quy Mạng.

hoa sen 1a

SÁM QUY MẠNG

Thích Nữ Trí Hải dịch

Quy mạng lễ mười phương Chư Phật
Diễn Pháp mầu như thật sâu xa
Quy y Thánh chúng Tăng già
Xin thương đoái tưởng hằng xa hữu tình
Chúng con những tự mình phản bội
Lỡ sa chân chìm nổi sông mê
Bao phen sanh tử não nề
Lại theo danh sắc mà mê đắm hoài
Bởi ngu si tạo mười trói buộc
Là nhân gây nên cuộc thương đau
căn trần sáu mối duyên đầu
Khiến xui con tạo biết bao lỗi lầm
Lạc nẻo tà trôi lăn khổ hải
Chấp ngã, nhơn xa trái đường ngay
Bao nhiêu nghiệp chướng dẫy đầy
Dưới chân Từ Phụ trải bày tâm can
Kính lạy đấng tình thương vô thượng
Con nguyện xin sám vạn lầm mê
Tay vàng duỗi cánh từ bi
Cứu con thoát ngục ngu si não phiền
Xin kiếp này đủ duyên phước đức
Mong đời sau thần thức chớ quên
Sanh nơi chánh Pháp lưu truyền
Trưởng thành được gặp thánh hiền minh sư
Tin pháp mầu khiến ưa xuất thế
Tuổi xanh chưa nhiễm uế hồng trần
Sáu căn phát tiết tinh thần
Thân, lời, ý thảy thuần thành thoát ly
Duyên đời chẳng chút chi giao động
Hạnh sạch làu tợ bóng trăng thanh
Uy nghi cử động nghiêm minh
Không làm tổn hại sanh linh muỗi mòng
Tám nạn dữ thời không mắc vướng
Bốn duyên lành tăng trưởng càng thêm
Xuất trần trí tuệ cao thâm
Chẳng duyên gì khiến lui tâm Bồ Đề
Nương Pháp Phật quay về chơn tánh
Lục độ cùng vạn hạnh Pháp môn
Thảy đều ứng dụng lưu thông
Khiến cho vĩnh viễn thoát vòng trầm luân
Khai đạo tràng hiển chân, phá vọng
Dẹp tan muôn trùng sóng hoài nghi
Quần ma úy phục theo về
Ba ngôi báu thịnh như kỳ tượng sơ
Hành Phật sự không giờ phút chán
Pháp môn tu tám vạn đều thông
Rộng gieo phước huệ khắp cùng
Cho muôn cõi nước đều mong ơn lành
Đắc lục thông viên thành Phật quả
Con nguyền không lìa xả chúng sanh
Mà quay về cõi điêu linh
Noi gương Quán Thế, Phổ Hiền chư tôn
Ở cõi này và muôn cõi khác
Hóa thân nhiều như cát biển Đông
Tùy loài, tùy nghiệp, ngữ ngôn
Mà khai diệu pháp cứu cơn khổ nàn
Hoặc ở chốn cơ hàn địa ngục
Đói triền miên lạnh buốt xương da
Hoặc là bị khổ hình gia
Từ bi vô ngại hiển ra pháp mầu
Khiến người kẻ hoặc dầu thấy tướng
Hoặc nghe danh nghiệp chướng liền tiêu
Phát tâm vô thượng cao siêu
Luân hồi khổ rụng như chiều lá thu
Rừng thơm hương biến từ sỏi đá
Địa ngục bừng khai đóa bạch liên
Người trong hỏa ngục hiện tiền
Nhờ nương thần lực sanh liền lạc bang
Loài súc sanh lỡ mang phải lốt
Bị nợ nần hoặc chuốt oan khiên
Từ quang pháp lực vô biên
Làm cho tiêu sạch lụy phiền đắng cay
Gặp thời dịch hóa ngay cỏ thuốc
Cứu bệnh nguy thần dược kề môi
Hay khi đói kém cơ trời
Xin nguyền hóa lúa khắp nơi khốn cùng
Với muôn loài nhất tâm phụng sự
Lại cầu cho bạn lữ gần xa
Người thân thuộc, kẻ oan gia
Vĩnh ly sanh tử vượt qua ái triền
Cùng chúng sanh đồng lên bến giác
Tánh hư không dù mất vô biên
Nguyện con vô tận triền miên
Mong cho tất cả đồng nên Bồ Đề.



Xem trang tưởng niệm Ni Sư Trí Hải

57. SÁM QUI MẠNG

Đây vốn là bài văn phát nguyện của Thiền sư Liễu Nhiên ở núi Di (怡山然禪師)

được biên tập trong sách Truy Môn Cảnh Huấn, Đại Chánh Tạng, quyển 48, trang 1072. 

DI SƠN THIỀN SƯ

Qui mạng thập phương Điều Ngự Sư.

Xiển dương thanh tịnh vi diệu pháp,

Tam thừa, tứ quả giải thoát Tăng,

Nguyện tứ từ bi ai nhiếp thọ.

Đệ tử chúng đẳng:

Tự vi chơn tánh,

Uổng nhập mê lưu,

Tùy sanh tử dĩ phiêu trầm,

Trục sắc thinh nhi tham nhiễm.

Thập triền thập sử,

Tích thành hữu lậu chi nhơn.

Lục căn lục trần,

Vọng tác vô biên chi tội.

Mê luân khổ hải,

Thâm nịch tà đồ.

Trước ngã đam nhơn,

Cữ uổng thố trực.

Lụy sanh nghiệp chướng,

Nhứt thế khiên vưu,

Ngưỡng Tam bảo dĩ từ bi,

Lịch nhứt tâm nhi sám hối.

Sở nguyện: Năng nhơn chững bạt,

Thiện hữu đề huề,

Xuất phiền não chi thâm uyên.

Đáo Bồ đề chi bỉ ngạn.

Thử thế: phước cơ mạng vị,

Các nguyện xương long.

Lai sanh: trí chủng linh miêu,

Đồng hy Tăng tú.

Sanh phùng trung quốc,

Trưởng ngộ minh sư.

Chánh tín xuất gia,

Đồng chơn nhập đạo

Lục căn thông lợi,

Tam nghiệp thuần hòa.

Bất nhiễm thế duyên,

Thường tu phạm hạnh.

Chấp trì cấm giới,

Trần nghiệp bất xâm.

Nghiêm hộ uy nghi,

Quyên phi vô tổn.

Bất phùng bát nạn,

Bất khuyết tứ duyên,

Bát nhã trí dĩ hiện tiền,

Bồ-đề tâm nhi bất thoái.

Tu tập chánh pháp,

Liễu ngộ đại thừa,

Khai lục độ chi hạnh môn,

Việt tam kỳ chi kiếp hải,

Kiến pháp tràng ư xứ xứ,

Phá nghi võng ư trùng trùng,

Hàng phục chúng ma,

Thiệu long Tam bảo.

Thừa sự thập phương chư Phật,

Vô hữu bì lao,

Tu học nhất thiết pháp môn,

Tất giai thông đạt.

Quảng tác phước huệ,

Phổ lợi trần sa,

Đắc lục chủng chi thần thông,

Viên nhất sanh chi Phật quả.

Nhiên hậu: Bất xả pháp giới,

Biến nhập trần lao,

Đẳng Quan Âm chi từ tâm.

Hành Phổ Hiền chi nguyện hải.

Tha phương thử giới,

Trục loại tùy hình,

Ứng hiện sắc thân,

Diễn dương diệu pháp.

Nê lê khổ thú,

Ngạ quỉ đạo trung,

Hoặc phóng đại quang minh,

Hoặc hiện chư thần biến.

Kỳ hữu kiến ngã tướng,

Nãi chí văn ngã danh,

Giai phát Bồ-đề tâm,

Vĩnh xuất luân hồi khổ.

Hỏa thạch băng hà chi địa,

Biến tác hương lâm.

Ẩm đồng thực thiết chi đồ,

Hóa sanh Tịnh độ.

Phi mao đới giác,

Phụ trái hàm oan,

Tận bãi tân toan,

Hàm triêm lợi lạc.

Tật dịch thế nhi,

Hiện vi dược thảo,

Cứu liệu trầm kha.

Cơ cẩn thời nhi,

Hóa tác đạo lương,

Tế chư bần nổi.

Đản hữu lợi ích,

Vô bất hưng sùng.

Thứ kỳ: lụy thế oan thân,

Hiện tồn quyến thuộc,

Xuất tứ sanh chi cốt một,

Xả vạn kiếp chi ái triền.

Đẳng dữ hàm sanh,

Tề thành Phật đạo.

Hư không hữu tận,

Ngã nguyện vô cùng,

Tình dữ vô tình,

Tề thành Phật đạo.

---o0o---

Vi tính: Thanh Phi 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/09/2010(Xem: 3378)
Quán đảnh đã được định nghĩa một cách khái quát là “hành động hay nghi thức ban ý nghĩa tôn giáo (thánh phước) cho những đồ vật, nơi chốn, hoặc con người; thường bằng năng lực và sự thánh thiện” (Bowker, tr. 234). Trong Phật giáo, quán đảnh đã được miêu tả như một nghi thức biến đổi một pho tượng hoặc một ngôi tháp từ một vật thể thế tục thành tinh tủy của một đức Phật (Bentor 1997).
09/09/2010(Xem: 15940)
5 bài kệ hô canh ngồi Thiền được áp dụng vào mùa An Cư, Kiết Hạ hằng năm của của Chư Tăng, hoặc trong trường hợp khai Đại Giới Đàn của xưa và nay.
08/09/2010(Xem: 5061)
Lễ nghi trong Phật giáo là bày tỏ lòng thành kính đối với các đấng thành kính. Họ là thầy tổ, là ông bà, cha mẹ và tất cả những người thân, kẻ sơ đã qua đời.
07/09/2010(Xem: 5502)
Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
31/08/2010(Xem: 7130)
Trước cửa Phật lập đàn phổ thí, Cho trọn đều quân lợi âm dương, Quang minh tỏ khắp mười phương, Kính dâng một nén tâm hương ngạt ngào. Cơn mưa tuệ dồi dào tưới khắp, Bóng mây từ che rợp mọi nơi, Lọt đâu dưới đất trên trời, Từ bi tế độ muôn đời viên thông. Trên đức Phật rất công rất chính, Dạy cho đời luyện tính tu tâm, Thương người đọa kiếp tối tăm, Giáo Hội chỉ dẫn khỏi lầm khỏi mê.
27/08/2010(Xem: 44688)
Đi thuyết linh nhiều nơi, thấy nhiều trường hợp oan gia trái chủ hiển bày rất rõ nét, cần phải giải trừ để có một đời sống an lạc. Rất nhiều Phật tử, thấy tâm tư không an khi nhìn lại đời sống đã gây nên tội lỗi oan trái muốn giải trừ, mà chưa có nhận thức đúng đắn.
05/08/2010(Xem: 4060)
Thiết dĩ, thể tánh hư hàm, bí thảo điêu tàn du vị tử, Thiền cơ diệu ngộ, đàm hoa lạc khứ hữu dư hương. Xuất một tự như, Khứ lai vô ngại. Cung duy - Tôn sư: Đạo phong trác thế, Giới đức siêu trần.
04/08/2010(Xem: 6576)
Có rất nhiều đám tang, không chỉ trong cộng đồng Phật Giáo mà cả trong các cộng đồng tôn giáo khác, khi đăng cáo phó thường ghi là: “Xin Miễn Phúng Điếu” và có một số cáo phó khác còn ghi rõ là: “Xin Miễn Phúng Điếu và Tặng Vòng Hoa”. Vậy xin hỏi: ý nghĩa của việc miễn phúng điếu này như thế nào? Nếu tang gia nhận tiền và tràng hoa người ta mang đến phúng điếu, thì người qua đời có mang nợ hay không? Và có nên nhận hay không nhận phúng điếu?
05/06/2010(Xem: 3166)
Sám Ngã Niệm - Cư Sĩ Hạnh Cơ dịch - Ngã niệm tự tùng vô lượng kiếp, Thất viên minh tánh tác trần lao, Xuất sanh nhập tử thọ luân hồi, Di trạng thù hình tao khổ sở, Túc ư thiểu thiện sanh nhơn đạo, Hoạch ngộ di phong đắc xuất gia,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567