Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hỏi đáp về nghi lễ .

05/04/201319:35(Xem: 6278)
Hỏi đáp về nghi lễ .

Hỏi & Đáp về Nghi Lễ

Lý Việt Dũng

--- o0o ---

Hỏi:Lễ lạy là một lễ nghi phổ biến trong đời sống. Xin NS Giác Ngộcho biết các hình thức vái lạy ở đời thường cùng trong Phật giáo và tên gọi bằng chữ Hán của các hình thức đó.

Đáp: Lạy là hình thức biểu thị sự cung kính của một người đối với bậc trưởng thượng, còn vái là của hai người đồng vai vế chào nhau.

Việt Nam ta và người Hoa vái lạy hầu như gần giống nhau trong đạo lẫn ngoài đời.

Trước hết xin nói về vái lạy trong đời thường.

Vái lạy đềⵠlà lễ nghi ở thời cổ đại, nhưng cả hai đều có chỗ khác nhau. Căn cứ vào quy định của lễ tục thời cổ đại thì vái chỉ cần cung tay chào chứ không cần phải quỳ. Tuy nhiên cả vái cũng phân biệt ấp trơn (còn gọi là ấp nhượng) và trường ấp tức vái dài .

Ấp ngày nay còn gọi là tác ấp là nghi tiết giữa chủ khách gặp nhau trong thời cổ. Căn cứ Thiên thu quanTư nghicủaChu Lễghi chép lại thì vái nhường tùy theo tôn ty mà phân biệt ra làm ba loại tức tam ấp . Thứ nhất là Thổ ấp , chuyên dùng cho những người khác họ lại không có nghĩa thông gia, khi hành lễ, cung tay hơi chếch xuống phía dưới. Thứ hai là Thời ấp chuyên dùng cho những người tuy khác họ nhưng có nghĩa thông gia, khi hành lễ, cung tay về phía trước ở tầm trung bình. Thứ ba là Thiên ấp dùng cho chủ khách cùng một họ, khi hành lễ, cung tay hơi chếch lên trên. SáchCông Dương truyện, thiênHy công nhị niên chép: Nam công ấp nhi tấn chi . Điều này như chính văn tự học gia trứ danh Đoàn Ngọc đã giải thích trong sáchThuyết văn giải tựlà: Phàm cung thủ về phía trước gọi là vái (ấp) .

Vái dài tức trường ấp so với lạy (bái) có phần ít kính trọng hơn, dùng trong trường hợp mình gặp người trưởng thượng hơn mà cũng là dùng chung cho mọi người khi gặp nhau. lúc hành lễ hơi cúi người xuống một chút, hai bàn tay cung lại, từ trên gặc xuống. Trường ấp cũng là thứ lễ tiết giản đơn. Thiên Cao Đế kyᠴrong Hán thưcó ghi một câu: Lịch Sanh bất bái, trường ấp , nghĩa là: Lịch Sanh không lạy, chỉ vái dài. ThiênChu Bột truyệntrongHán thưcũng ghi một câu liên quan đến vái dài: Chí trung quân dinh, tướng quân tịnh phu ấp viết Giới trụ chi sĩ bất bái, thỉnh dĩ quân lễ kiến , nghĩa là: Đến trung dinh, tướng quân chỉ vái mà nói: Chiến sĩ mình mang giáp trụ không tiện lạy, xin lấy phép quân đội lễ kiến . Xem thế đủ biết vái và lạy là hoàn toàn không giống nhau.

Thế thì lạy tức bái là gì? SáchThuyết văn giải tựgiải: Quỳ xuống tức là lạy vậy . Quỳ là một hình thức không thể thiếu của cổ nhân khi hành lễ tỏ thái độ cung kính. Lễ tục cổ đại quy định nghiêm cách, trong các tình huống khác nhau, tư thế cúi đầu và số lần mọp đầu cũng khác nhau vì loại hình và tên gọi của các kiểu lễ bái ngày xưa có rất nhiều.

Theo sáchChu lễ, ở thiên Xuân quan và Đại chúc có ghi rõ nào là khể thủ , không thủ , kỳ bái , bao bái v.v... gồm cả thảy là cửu bái . Khể thủ và không thủ là sau khi quỳ rồi, đầu không mọp sát đất, còn hai tay thì cung lại đặt trước ngực. Kiểu này còn gọi là bái thủ (chắp tay lạy). Kỳ thủ là quỳ lạy mọp đầu một lần. Bao bái là biểu thị sự cung kính, tiến hành hai lượt lễ không thủ , cũng còn gọi là tái bái tức bao bái đấy. Riêng cửu bái là lễ nghi long trọng dùng trong lúc lạy đấng quân vương hay là thần linh.

Ngoài ra còn có nhiều kiểu lạy nữa như bát bái . Bát bái là lễ dùng cho con em khi ra mắt bậc trưởng thượng lạy tám lạy. Đời sau những người khác họ kết làm anh em gọi là bát bái chi giao . Tam bái là chỉ tiến hành lạy ba lần. Khi chủ nhân tiếp đãi khách khứa, nhân vì khách đông quá không thể lạy chào cùng lúc được thì dùng tam bái lễ , coi như chào toàn thể, hay nói theo điệu ngày nay là tổng chào . Tuy nhiên khách khứa chỉ cần chào đáp một lạy mà thôi.

Thật ra vái lạy còn nhiều kiểu phức tạp nữa, nhưng suy cho cùng, cổ đại thông xưng quỳ xuống mọp đầu mà vái thì gọi là lạy vậy.

Riêng trong nghi lễ Phật giáo thì có mấy cách lạy như sau:

Khi gặp người trưởng thượng thì nghi thức thông thường là xoa thủ, còn gọi là hiệp chưởng, tức chắp hai bàn tay lại, mười ngón giao nhau để giữa ngực và đứng cúi đầu chào, miệng nói Mô Phật hay A Di Đà Phật . Trong lễ nghi Trung Hoa, nếu một tay bận cầm vật gì thì chỉ cần để đứng bàn tay kia trước ngực và cúi đầu chào. Trang trọng hơn là quỳ hai gối chắp hai bàn tay ngang trán cúi mọp xuống mà lạy gọi là quỵ bái hay lễ bái. Nếu quỳ dài rướn thân người xuống đất như lối quỳ lạy của người Hồi giáo thì gọi là Hồ quỵ. Trang trọng hơn cả như cách lạy chân Phật khi Thế Tôn còn tại thế gọi là Đầu diện tiếp túc quy mạng tức là quỳ lạy trán mình đụng bàn chân Phật xin quy mạng.

Giờ xin nói chi tiết hơn về lễ bái trong Phật giáo.

Đối với Phật giáo, tứ lễ bái chỉ hành vi biểu thị kính ý đối với chư Phật, Bồ tát, hoặc các bậc tôn túc, hay tháp Phật, tháp Tổ v.v...

Nguyên khi xưa bên Ấn Độ có chín phép vái lạy, đó là: 1. Phát ngôn ủy vấn (mở lời chào); 2. Phủ thủ (cúi đầu); 3. Cử thủ cao ấp (cất đầu chào); 4. Hiệp chưởng bình cung (chắp tay đứng chào); 5. Khuất tất (quỳ gối xuống); 6. Trường quỵ (quỳ dài); 7. Thủ tất cứ địa (quỳ hai gối và hai bàn tay chạm đất); 8. Ngũ luân câu khuất (năm phần thân thể đều cúi); 9. Ngũ thể đầu địa (hai gối, hai tay và đầu chạm đất). Đây là chín phép từ đơn giản tới trang trọng.

Về quỳ cũng có nhiều cách nhưng đại khái có mấy kiểu phổ biến sau đây:

a) Hổ quỵlà đặt gối phải chạm đất chống gối trái lên. Đây là lối quỳ chủ yếu dành cho Tỳ kheo.

b) Trường quỵlà quỳ hai gối chấm đất, đầu các ngón chân cũng chấm đất, chủ yếu dành cho Tỳ kheo ni.

c) Hồ quỳcó nghĩa quỳ theo cách của người Hồ (nói chung chỉ người Ấn Độ và các người vùng Tây Vực). Cách này khác Ngũ thể đầu địa ở chỗ chân phải trải dài, đầu và hai tay chấm đất cách xa hai gối. Ngũ thể đầu địa là cách lễ bái biểu đạt kính ý cao nhất. Theo cách này, trước tiên khép chặt hai chân đứng thẳng người, chắp hai bàn tay lại trước ngực, đầu cúi xuống, sau đó quỳ gối phải rồi kế gối trái, tiếp đó đặt hai khuỷu tay chạm đất, hai bàn tay mở ra, lòng bàn tay hướng lên trên, tâm quán tưởng như xúc thọ chân của đối tượng mà mình lễ bái, do đó mới gọi là ngũ thể đầu địa, ngũ luân đầu địa haycử thân đầu địa. Lại nhân cách lạy này dùng phần tối thượng của thân mình là đầu trán tiếp xúc với phần tối hạ của đối tượng mình lạy là bàn chân nên còn gọi làtiếp túc tác lễ, đầu diện lễ túc, đảnh lễ song túc, tiếp túc quy mạng đảnh lễ, khể thủ lễ túc, hoặc gọi gọn làđảnh lễ, lễ túc...

Nhân đây cũng xin nói rõ thêm một vài thuật ngữ liên quan đến lễ bái

Phàm phu triển tọa cụ ra mà lễ bái gọi làtriển bái. Nếu trải hoàn toàn tọa cụ ra mà lạy ba lạy gọi là đại triển tam bái. Nếu lạy chín lạy thì gọi làđại triển cửu bái. Nếu không trải tọa cụ ra mà xếp gấp lại rồi đặt trán lên đó mà lạy gọi làxúc lễ.Về số lần lạy thì ở Ấn Độ chỉ cần lạy một lần nhưng ở ta và Trung Quốc thì lạy ba lạy, chín lạy, mười tám lạy, thậm chí tới trăm lạy.

Ngoài ra còn có từhòa namdịch âm từ Sanskrit Vandana, tức lễ pháp chỉ đối với bậc tôn túc mình thăm hỏi để biểu đạt kính ý, cũng còn gọi làbà nam, bàn ra sàng,dịch theo ý là lễ, quy lễ.

Cuối cùng là vì vấn đề nào đó mình không tự đích thân đến lễ bái bậc tôn túc được mà phải nhờ người khác lễ thay, thì trước hết phải vọng không mà lễ bái, tứctruyền bái. Cách lạy này gọi là đại lễ(lạy thay).

--- o0o ---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/07/2013(Xem: 32352)
Chúng sinh sanh trưởng trong đời mạt phát hầu hết nghiệp nặng phước nhẹ, chướng sâu huệ cạn, trọn cuộc đời gặp nhiều khổ đau, thân tâm loạn động, ngay cả hàng xuất gia cũng lại như vậy. Thế nên trên đường đời, đường đạo đều gặp rắc rối giống nhau, thân tâm khổ lụy. Trong Kinh Địa Tạng có câu “Mạt thế chúng sinh nghiệp lực thậm đại, năng địch Tu Di, năng thâm cự hải, năng chướng thánh đạo…” nghĩa là chúng sanh ở đời rốt sau của giáo pháp, sức nghiệp vĩ đại, so sánh có thể cao như núi Tu Di, sâu rộng như biển cả, nó thường hay ngăn chận con đường lên quả Thánh…
22/06/2013(Xem: 18417)
Tại Hoa Kỳ, nhiều người xem bồ công anh là thần dược có tác dụng điều trị bệnh sưng loét bao tử, ung độc, đặc biệt là ung thư vú. Ở nước ta, bồ công anh mọc hoang dại ở các vùng như Đà Lạt, Tam Đảo, Sa Pa và cũng được trồng để lấy lá làm thuốc. Bồ công anh còn chứa nhiều chất sắt tương đương trong rau dền, hàm lượng vitamin A cao gấp bốn lần rau diếp và rất giàu các nguyên tố vi lượng như manhê, potassium, calcium, sodium và nhất là vitamin C, B.Ngoài ra bồ công anh còn chứa protein, chất béo, tinh bột... Theo y học cổ truyền, một số dược tính của bồ công anh như sau:
05/06/2013(Xem: 19444)
Từ “Công văn” trước đây được dùng trong công việc hành chánh của nhà nước gồm những văn kiện của các Bộ, Ty, Sở đối với chính quyền thuộc địa, hay dưới các chế độ quân chủ chuyên chế. Cho tới ngày nay không ai rõ từ này đã ảnh hưởng vào trong sinh hoạt Phật giáo từ lúc nào.
05/06/2013(Xem: 13425)
Nguyện dâng hương mầu nầy Cúng dường tất cả Phật Tôn Pháp, chư Bồ Tát Thinh Văn và Duyên Giác Cùng các bậc Thánh Hiền Duyên khởi đài sáng chói
29/05/2013(Xem: 11219)
Chúng ta đang sống trong những ngày rộn ràng của đại lễ Phật Đản, một lễ hội văn hoá tâm linh mang tầm thế giới. Nhân dịp này, tôi xin lược ghi một số nhận xét về sự liên quan giữa âm nhạc Phật giáo và âm nhạc dân tộc, xem như góp một bông hoa nhỏ kính mừng ngày lễ hội tôn giáo trọng đại mà cả nước đang nô nức đón mừng.
22/04/2013(Xem: 18419)
Bộ sách này có thể gọi là kinh "Khóa Hư" vì là cả một đời thực nghiệm về chân lý sinh tồn của tác giả. Tác giả là một vị vua khai sáng ra triều đại nhà Trần, oanh liệt nhất trong lịch sử dân tộc, ba phen đánh đuổi quân xâm lăng Mông Nguyên, từng chinh phục thế giới từ Á sang Âu "đi đến đâu cỏ không mọc lên được".
11/04/2013(Xem: 22128)
Cúng Quá Đường là một nghi thức quan trọng không thể thiếu trong mùa an cư kiết hạ hay kiết đông của hàng đệ tử xuất gia. Năm nay, Canh Dần 2010, mùa An Cư Kiết Đông kỳ thứ 11 của Giáo Hội Úc Châu được tổ chức từ ngày 6 đến 16-7 năm 2010 tại Thiền Viện Minh Quang, ở thành phố Canley Vale, cách trung tâm thành phố Sydney 30 phút lái xe, người viết xin ghi lại đôi nét về lễ nghi quan trọng này để giúp quý Phật tử mới vào đạo hiểu thêm về nghi thức này.
10/04/2013(Xem: 5347)
Hồng chung khấu thỉnh lần thứ hai, Bảo kệ ngâm cao giọng ngân dài, Trên thấu thiên đường trời niệm Phật Dưới thông địa ngục ngục tiêu tai. ! (0). *Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Cứu khổ bổn tôn, Cứu bạt minh đồ, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (0).
08/04/2013(Xem: 32654)
Sau khi cẩn trọng dịch âm, dịch nghĩa và lược giải 2 thời công phu rồi, tôi mới đặt vấn đề như dưới đây. Biết rằng đặt vấn đề thì gây rắc rối, nhưng nghĩ vẫn phải đặt. Ấy là nên có 1 hội đồng lâm thời nhưng đủ mọi cẩn trọng để xét đến 2 thời công phu. Dưới đây là mấy điều nên xét đến.
08/04/2013(Xem: 22611)
Sở hữu thập phương thế giới trung Tam thế nhất thiết nhân sư tử Ngã dĩ thanh tịnh thân ngữ ý Nhất thiết biến lễ tận vô dư Phổ hiền hạnh nguyện oai thần lực Phổ hiện nhất thiết như lai tiền Nhất thân phục hiện sát trần thân Nhất nhất biến lễ sát trần Phật Ư nhất trần trung trần số Phật Các xử bồ tát chúng hội trung Vô tận pháp giới trần diệc nhiên Thâm tín chư Phật giai sung mãn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]