Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lama Lhundrup: Người Mẹ, người Cha, người Thầy, người Bạn

04/09/201807:07(Xem: 6536)
Lama Lhundrup: Người Mẹ, người Cha, người Thầy, người Bạn
Lama Lhundrup
Lama LHUNDRUP
Người Mẹ, người Cha, người Thầy, người Bạn:
Lòng Nhân Từ Vô Song của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel Cao Quý ở Tu Viện Kopan
 
 

Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã không chính thức giữ chức vụ này từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.

 

Trong số báo này, tạp chí Mandala mong được nêu lên công lao to tát của Ngài trong việc bảo tồn, quảng bá Phật pháp và hoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche. Hoạt động không hề mỏi mệt và lòng nhân từ vô hạn của Lama Lhundrup dành cho hàng ngàn đệ tử ở Tu Viện Kopan, cũng như tại Singapore, Mã Lai và Hồng Kông, nổi bật như một nguồn cảm hứng đối với tất cả chúng ta.

 

Khi chúng tôi xuất bản tạp chí này vào cuối tháng Tám, Lama Lhundrup tiếp tục biểu lộ tình trạng sức khỏe ngày càng suy yếu và bệnh tình của Ngài khá nặng. Chúng tôi sẽ đăng bài cập nhật cho câu chuyện này trên mandalamagazine.org, khi chúng tôi có thêm thông tin. Quý vị cũng có thể tìm các thông tin cập nhật chính thức của FPMT, kể cả tin tức cập nhật về tình trạng sức khỏe của Lama Lhundrup ở fpmt.org.

 
Lama Lhundrup 2
   
Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, Tu Viện Kopan, Nepal, tháng Ba 2011. Ảnh của Jo Hathaway.
 
 
   Lama Lhundrup 3
Lama Lhundrup tại Kopan, năm 1973. Hình ảnh của Lama Yeshe Wisdom Archive.
 
 
   
Lama Lhundrup 5
Tu Viện Kopan năm 1972. Ảnh của Lama Yeshe Wisdom Archive.
 
 Lama Lhundrup 4
   
Từ trái sang phải: Karuna Cayton, Pam Cayton, Nick Ribush, Thubten Tsering
và Lama Lhundrup tại văn phòng Kopan vào khoảng năm 1981. Ảnh của Karuna Cayton.
 
 
   Lama Lhundrup 6
Lama Lhundrup tại lễ cầu nguyện trường thọ cho Lama Zopa Rinpoche ở Kopan, 2009. Ảnh của Wolf Price:Wanderwolf Media (wanderwolf.com).
 
 
   Lama Lhundrup 7
Lama Lhundrup ở Kopan, 2003. Ảnh của Tu Viện Kopan.

 
Lama Lhundrup 8
Khensur Rinpoche Lama Lhundrup cùng với hai thị giả của ngài, Ven. Thubten Kunkhen, Ven. Lobsang Thardoe và Jo Hathaway, y tá chuyên khoa giảm đau của ngài tại Kopan, 24 tháng Tám, 2011. Ảnh của Ven. Thubten Kunsang.

Lama Lhundrup 9

 Lama Lhundup và Osel trong Kopan, tháng 7 năm 2011. Ảnh của Jo Hathaway.



Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel mà thế giới biết qua như Lama Lhundrup, sinh ra ở Tây Tạng năm 1941, trong một gia đình nông dân nghèo khó. Ngài vào Tu Viện Sera vào thuở bé, và rời Tây Tạng để đến Ấn Độ năm 1959, vì Trung Quốc đã xâm chiếm Tây Tạng vào lúc đó. Ở Buxa Duar, tại trại tỵ nạn phía Đông Nam Ấn Độ, nơi có nhiều tăng sĩ được chính phủ Ấn Độ thuyên chuyển đến, Ngài đã gặp Lama Yeshe cùng Lama Zopa Rinpoche, và tu học với các vị thầy cao cả như Geshe Rabten và v.v...

 

Năm 1972, từ Tu Viện Kopan ở Nepal, Lama Yeshe gởi một bức thư cho Lama Lhundrup, trong khi thầy Lhundrup đang ở Mysore, Ấn Độ, giúp việc trùng tu lại Tu Viện Sera. Bức thư nói rằng, “Tôi có một số tăng sinh, ông có thể dạy cho họ không? Nếu được thì xin ông hãy đến.”

 

Lama Lhundrup hồi âm cho Lama Yeshe rằng thầy không biết thầy có đủ kiến thức để giảng dạy hay không, nhưng thầy rất muốn gặp Lama Yeshe và có thể sẽ viếng thăm Tu Viện Kopan ba tháng. Hòa thượng trụ trì của Tu Viện Sera Je dặn dò Lama Lhundrup trước chuyến đi rằng, “Ông chỉ được phép đi ba tháng thôi, nên khi tới nơi, ông nói với thầy ấy [Lama Yeshe] rằng ông không thể ở lâu hơn, rồi ông hãy trở về lập tức sau ba tháng nhé.”

 

Khi Lama Lhundrup đến Kopan, Lama Yeshe đã nói với Ngài rằng, “Ông hãy làm thầy của các tăng sinh của tôi.” Vào lúc ấy, Tu Viện Kopan, được thành lập năm 1971, đang  chăm nom cho khoảng 30 vị tăng trẻ đến từ Trung Tâm Mount Everest của Lama Zopa Rinpoche, và rất cần một người trông nom việc tu học của các vị tăng trẻ này. Lama Lhundrup chấp nhận lời yêu cầu của Lama Yeshe, và hết lòng đảm trách công việc này cho đến tháng Bảy 2011, khi trách nhiệm trụ trì Tu Viện Kopan đã được Geshe Thubten Chonyi đảm nhiệm.

 

Lama Lhundrup nhận văn bằng Geshe từ Tu Viện Sera năm 1987. Ngài đã đến Tu Viện Sera Je để tham dự cuộc thi tranh luận cuối cùng, và buổi tranh luận của Ngài đã được xem là một trong những cuộc tranh luận hào hứng và lỗi lạc nhất trong lịch sử cận đại của Sera.

 

Từ 1972, gần 800 tăng sinh đã tu học ở Tu Viện Kopan, kể cả 370 vị hiện đang sống ở đó. Kopan House ở Tu Viện Sera, thuộc về Tsawa Kamsen, hiện đang có 80 tăng sinh từ Kopan đang tu học để trở thành Geshe. Các tăng sĩ Kopan cũng tu học ở Trường Cao Đẳng Mật điển Gyume (Gyume Tantric College) và Đại Học Trung Ương Nghiên Cứu Tây Tạng ở Sarnath (Central University of Tibetan Studies). Có sáu vị Geshe ở các trung tâm FPMT xuất thân từ Tu Viện Kopan. Năm 1986, Ni Viện Kopan, tức Khachoe Ghakyil, đã được thành lập và từ đó, khoảng 450 ni cô đã tu học ở đó, kể cả 350 vị hiện đang sống tại đó.

 

Karuna Cayton, một thành viên đương nhiệm của ban điều hành FPMT, đã làm việc sát cánh với Lama Lhundrup ở Kopan từ năm 1975 đến năm 1988, nói rằng, “Nhờ các vị tăng sĩ và các lớp giáo pháp ở Kopan mà Tu Viện này đã mang lại một ảnh hưởng kỳ diệu cho hàng ngàn cuộc đời trên thế giới. Tôi thật sự tin rằng nếu không có Kopan thì các trung tâm Phật giáo FPMT khác sẽ không thể hiện hữu. Và nếu không có các trung tâm FPMT, thì vô số đệ tử sẽ chẳng bao giờ gặp được Lama Zopa Rinpoche, Lama Yeshe hay đường tu Phật pháp. Nếu không có Lama Lhundrup, có lẽ sẽ không có Tu Viện Kopan.”

 

Bên cạnh hàng trăm tăng ni mà Lama Lhundrup chăm sóc hơn 40 năm qua, Ngài còn có nhiều đệ tử ở Singapore, Mã Lai và Hồng Kông mà Ngài thường vân du sang các nước ấy để giảng dạy họ. Trong nhiều năm qua, mấy ngàn Phật tử đã tham gia các khóa thiền thường niên ở Kopan và sự ảnh hưởng cũng như lợi lạc mà Lama Lhundrup đã đem lại cho các Phật tử này thật không thể nào ước tính được, qua việc ban giới quy y, giảng dạy và tham vấn của Ngài, rồi nhờ đó mà các Phật tử này lại tạo ra ảnh hưởng cho những người khác nữa.

 

“Dĩ nhiên cũng có những nhân vật quan trọng khác trong thời kỳ sơ khai của Kopan, như Lama Pasang, Gelek Gyatso, Tenpa Choden và một nhóm thiện nguyện viên đông đảo,” cô Karuna nói, khi cô phản ảnh về sự phát triển của Kopan. “Nhưng Lama Lhudrup là người luôn có mặt ở đó. Ngài là chất liệu nối kết viễn ảnh của Lama Yeshe, ngay cả trước và sau khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Lama Lhundrup cảm thấy có trách nhiệm đối với mỗi một ước nguyện mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche cưu mang đối với Kopan. Khi Lama Lhundrup cảm thấy mình đã làm cho Lama Yeshe thất vọng, gương mặt Ngài sẽ lộ vẻ như một người mẹ đã không thể bảo bọc cho con mình bằng sự an toàn và nuôi nấng. Tuy nhiên, sau khi bị Lama Yeshe khiển trách, trong khi tôi đang buồn bực, thường là sửng sốt và nói chẳng nên lời, thì Lama Lhundrup sẽ quay qua nhìn tôi và khẽ cười khúc khích. Thầy quá thấu hiểu tình thương của Lama Yeshe. Thầy biết Lama Yeshe đã cố gắng hết sức mình. Thầy biết chúng tôi sẽ làm khá hơn và sẽ hoàn thành mọi ước vọng của Lama Yeshe. Lama Lhundrup hiểu các phẩm chất phi thường của Lama Yeshe và không bao giờ bị lầm lạc trước những sự biểu lộ mà Lama Yeshe tỏ ra để hướng dẫn chúng sanh.”

 

Một trong những thành tựu trọng đại nhất của Lama Lhundrup ở Kopan là việc thành lập chương trình tu học triết lý Phật giáo liên hệ đến khóa tốt nghiệp học vị Geshe. Chương trình này đã được chính thức công nhận năm 2010 và đã sản sinh ra khoảng 15 vị rabjampa, cũng như nhiều vị nữa trong tương lai. Với công sức miệt mài bao nhiêu năm qua của Lama Lhundrup, Tu Viện Kopan, cùng với ba Tu Viện Gelug lớn (Sera, Gendun, Drepung) và Tashi Lhunpo, là những học viện cấp phát văn bằng Geshe cho các tăng sĩ.

 

Lama Lhundrup cũng sáng lập chương trình tu học triết lý Phật giáo cho chư ni của Ni Viện Khachoe Ghakyil. Nhờ vào công sức của Ngài, trong một vài năm nữa, Ni Viện sẽ có những chư ni đầu tiên nhận văn bằng Geshema. Lama Lhundrup còn đảm nhận trách nhiệm trông nom Ni Viện Rachen và Tu Viện Mu ở Tsum, và Tu Viện Shedup Ling tại Solu Khumbu.

 

Lama Lhundrup đã hỗ trợ cho việc thành lập Đại Lễ Cầu Nguyện (Great Monlam) của phái Gelug ở Nepal, mà Tu Viện Kopan vẫn tổ chức hàng năm. Ngài còn giúp sáng lập ra Diễn Đàn Giáo Dục Gelug của Nepal, để tất cả các tu viện phái Gelug ở Nepal có thể tham dự cuộc tranh luận Phật pháp trong dịp Jayang Guncho, buổi tranh luận thường niên giữa các tu viện. Năm 2010, các cuộc Khảo Thí đầu tiên của phái Gelug đã được tổ chức cho các tu viện này. Các cuộc thi là một bước quan trọng trong việc tiếp nối chương trình nghiên cứu triết lý Phật giáo tại Tu Viện Sera Je.

 

“Lama Lhundrup luôn luôn nhẫn nại và quan tâm đến mỗi một đệ tử hay vị khách thập phương viếng thăm Kopan.” Geshe Thubten Sherab, vị sư trưởng tại chức bốn năm ở trường Phật giáo thuộc về Tu Viện Kopan, đã nói với tạp chí Mandala như thế. “Ngài đã làm việc ngày đêm, trông nom và lắng nghe những lời than phiền về các vấn đề mà chư tăng ni, các đệ tử khắp nơi trên thế giới và tất cả khách thập phương đến xin Ngài lời khuyên và hướng dẫn. Ngài đáp lời bằng sự quan tâm, lo lắng và lòng bi mẫn lớn lao, nhưng chẳng hề than vãn hay có chút nào kiêu hãnh. Ngài luôn cố gắng hòa giải vấn đề một cách êm thắm, không làm ai buồn phiền hay tổn thương.”

 

Lobsang Drolkar, một đệ tử ở Trung Tâm Phật giáo Phật A Di Đà (Amitabha Buddhist Centre) ở Singapore đã phát biểu trong năm 2010 rằng, “Lama Lhundrup đã biến Kopan thành một nơi mà nhiều đệ tử có được cảm giác đã thật sự trở về nhà. Bao nhiêu năm qua, tôi đã nhiều lần chứng kiến Lama Lhundrup biểu lộ cung cách kỳ diệu của Ngài đối với khách thập phương và các đệ tử của Ngài như nhau, trong cách Ngài cười sảng khoái, trong tư cách của người cha khi Ngài nắm tay ai đó khi Ngài lắng nghe họ nói (ngay cả khi họ nói những lời vô nghĩa!).”

 

Geshe Chokley, một vị thầy ở Kopan đã từng làm trưởng giáo thọ ở Tsum, kể rằng từ cả 20 năm trước, “Lama Lhundrup thật sự chăm sóc tất cả các chú tiểu như một người mẹ, Ngài chùi mũi và mặc đồ cho các chú. Ngài đã dành cả đời mình cho chư tăng ni, và khi mọi việc được tốt đẹp đối với họ thì Ngài cảm thấy mãn nguyện, vui lòng.”

 

Vào tháng Bảy năm nay, Sư Cô Tenzin Jangsem, giám đốc của Ni Viện Khachoe Gakyil nói rằng, “Lòng nhân từ của Lama Lhundrup thật không thể nào đo lường hay so sánh được. Dù Ngài rất bận rộn, Ngài vẫn đến Ni Viện để giảng dạy cho chúng tôi và khuyên nhủ các tiểu ni cô, dạy họ về mười nghiệp bất thiện, rằng họ nên đối xử tốt với người khác ra sao, làm cách nào để có một tấm lòng tốt v.v... Những lần khác, Ngài dạy các ni cô lớn hơn cách tụng kinh. Chư ni đến từ các vùng xa xôi hẻo lánh như Tây Tạng và các vùng khác của Hy Mã Lạp Sơn. Bất cứ những gì chư ni có được, ví dụ như Ni Viện được cả thế giới biết đến, đều nhờ vào lòng tốt và sự gia hộ của Lama Zopa Rinpoche, cùng công lao khó nhọc và sự hướng dẫn của Lama Lhundrup.”

 

Lama Zopa Rinpoche và tăng đoàn Kopan bắt đầu lo ngại về sức khỏe của Lama Lhundrup vào cuối năm 2010. Sau vài lần thỉnh cầu, Lama Lhundrup đã chấp nhận lời khuyên của Tây y tại Singapore và đến đó vào đầu tháng Giêng để nhập viện. Ở đó, Ngài được định bệnh ung thư bao tử di căn vào giữa tháng Giêng 2011.

 

Jo Hathaway là một y tá chuyên khoa giảm đau từ Tân Tây Lan, một đệ tử của Lama Lhundrup, người đã sống ở Kopan từ tháng Giêng 2011, đã chăm sóc Ngài. Vào tháng Bảy, Jo chia sẻ với tạp chí Mandala rằng:

 

-       Ngay từ ngày đầu, khi Lama Lhundrup trở về Kopan từ bệnh viện ở Singapore, thái độ của Ngài đối với bệnh tình của mình rất khác biệt với những “bệnh nhân” khác mà tôi đã chăm sóc. Khi chúng tôi bắt đầu bàn về cách thức mới để chuyền chất dinh dưỡng vào cơ thể Ngài, Lama Lhundrup ngồi đó, cầm đầu ống dẫn chất dinh dưỡng gắn vào bụng Ngài, lắc qua lắc lại, rồi cười và kêu lên, “Coi nè, đây là cái miệng mới của tôi!”

 

-       Dù hoàn cảnh ra sao, Pháp luôn luôn là điều đầu tiên Lama Lhundrup nghĩ đến,” Jo nói. “Nhu cầu vật chất của thân thể không quan trọng đối với Ngài như với đa số người thường, và Ngài không có vẻ quan tâm đến bất cứ sự thay đổi nào trong cơ thể của Ngài. Điều này khiến cho việc theo dõi tình trạng sức khỏe của Ngài trở nên rắc rối, vì không giống những người khác mang bệnh trầm kha, Ngài không hề than vãn về điều gì cả. Không bao giờ.”

 

-       Đối với Lama Lhundrup, ước muốn làm người khác vui lúc nào cũng đi trước phúc lợi của Ngài. Khi chúng tôi lo ngại rằng những thay đổi về phương diện sinh lý trong cơ thể Ngài có thể cho thấy là Ngài đang đau đớn, tôi thử hỏi thăm Ngài. Cuộc đối thoại bắt đầu khá tốt đẹp, 'Thầy có thấy đau không?', 'Có.' 'Thầy có thể cho con biết Thầy đau chỗ nào không?' 'Ở chỗ này.' Thế là tôi lọt vào tình trạng của một 'y tá lo âu', khi tôi hỏi Ngài một câu tiếp theo. Thay vì trả lời câu hỏi của tôi, Lama Lhundrup nói với nụ cười thoải mái, 'Con không thích sự đau đớn phải không?'. 'Dạ không, dĩ nhiên là không, thưa Khen Rinpoche.', Đó là câu trả lời đầy bối rối của tôi (Đâu có ai thích đau, đúng không?) Thế là Lama Lhundrup nói một cách giản dị, 'Vậy thì ta không thấy đau.' Rồi Ngài quay trở lại quyển kinh và tiếp tục buổi cầu nguyện buổi tối. Thế là cuộc đối thoại chấm dứt và lý do lo lắng của tôi cũng chấm dứt ở đây.

 

“Một lần khác, khi chúng tôi lại đề cập đến cái đau, tôi hỏi Ngài muốn giảm đau bằng cách nào, Jo kể tiếp. “Ngài trả lời là, 'Tốt hơn hết ta nên chịu nỗi đau này vì lợi ích của tất cả chúng sanh.' Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu và bệnh tật của họ, để họ không phải đau khổ nữa. Đến nay, tôi ngờ rằng vì lòng từ bi của Ngài và để chúng ta bớt lo lắng, Ngài mới đồng ý uống một lượng thuốc giảm đau nhỏ, vừa đủ để giúp Ngài tập trung tinh thần lúc công phu và tụng niệm, nhưng không cần thiết hay cố ý chấm dứt cái đau hoàn toàn. Quan điểm của Ngài về bệnh tật chắc chắn là vô cùng khác thường!”

 

Theo lời Karuna Cayton, Lama Zopa Rinpoche đã khuyên những ai buồn rầu vì bệnh tình của Lama Lhundrup là, “Con không cần lo cho Lama Lhundrup, vì thầy ấy đã hoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe trong suốt cả đời thầy.” Khi phản ảnh về điều này trong đầu tháng Tám, Karuna nói, “Tôi nghĩ phẩm chất này của Lama Lhundrup chỉ là một trong những phẩm hạnh khiến cho Ngài là một người vô cùng xuất sắc. Lama Thubten Yeshe là một vị thầy có tầm nhìn xa, một người có khuynh hướng nổi loạn, một vị thầy của thời kỳ phục hưng. Trong xã hội Tây Tạng truyền thống, đặc biệt là xã hội của tăng già, người ta rất nghi ngờ sự đổi mới. Tuy nhiên, Lama Yeshe đã nhìn thấy một viễn ảnh mới cho người Tây Tạng lưu vong và Phật tử ở vùng Hy Mã Lạp Sơn. Mặc dù các ý tưởng của Ngài có vẻ cấp tiến, theo tôi thấy thì Lama Lhundrup chưa bao giờ do dự trong việc nỗ lực hoàn tất ước nguyện của Lama Yeshe. Lama Lhundrup biết rõ cá tính phi thường của Lama Yeshe và vì thế, Ngài thường thực hiện các ý kiến của Lama Yeshe dựa vào niềm tin ở vị thầy này mà thôi.”

 

Năm 1995, Lama Lhundrup đã phát biểu với tạp chí Mandala rằng, “Nhiệm vụ chính của tôi là bảo đảm cho chư tăng có một nền giáo dục tốt và thái độ đúng đắn, thế là chúng ta đã hoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe, để cuối cùng, trong 15 năm nữa, sau khi tất cả những cậu bé này hoàn tất các lớp học, ít nhất họ sẽ biết đọc, biết viết Tạng ngữ, cũng như biết được triết lý căn bản, để họ có thể trở thành thông dịch viên, giảng sư hay bất cứ công việc nào khác. Tôi muốn họ có từ tâm và phẩm hạnh tốt; đúng vậy, đây là mục tiêu của tôi... Đây là tu viện chính của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche, nhưng hai Ngài không có thời gian để trông nom nó, nên tôi cần phải làm việc này cho hai Ngài, và tôi rất hoan hỷ.”

 

Khi tình trạng sức khỏe của Lama Lhundrup ngày càng trở nên suy yếu, Karuna Cayton và Osel Hita đã quyết định đến thăm Ngài một thời gian ngắn, để tỏ lòng kính trọng một vị thầy và người bạn già của họ. Họ đến Kopan vào ngày 4 tháng Bảy mà không báo trước. Chỉ có Lama Zopa Rinpoche và thầy Roger Kunsang biết trước về việc này mà thôi. Trong sáu ngày ở Kopan, Karuna và Osel đã thăm viếng Lama Lhundrup hầu như mỗi ngày. Đây cũng là lần đầu tiên Osel trở lại Kopan sau 13 năm, nên đây cũng là chuyến về thăm nhà của Osel. Với sự yêu cầu của Lama Zopa Rinpoche, Osel đã có những buổi nói chuyện thân tình ở Ni Viện Khachoe Ghakyil và tại chánh điện của Tu Viện Kopan.

 

Karuna giải thích với tạp chí Mandala rằng, “Tôi nói về Lama Lhundrup như một người bạn. Tôi không có ý ngã mạn hay phạm thượng. Thầy là một kalyanamitra của tôi, người bạn tâm linh của tôi. Nếu bạn biết Lama Lhundrup, tôi tin rằng bạn sẽ hiểu ý tôi và chắc chắn bạn cũng sẽ xem thầy như một người bạn.”

 

Một Phật tử Tây phương sống ở Kopan 20 năm qua đã nhận xét về Lama Lhundrup như sau, “Nói tóm lại là Ngài đã biến Kopan thành một tu viện mà ta thấy ngày hôm nay. Ngài đã xây dựng các thứ từng bước một bằng sự kiên nhẫn và quan tâm, thương mến, lắng nghe ý kiến của nhiều người và tuân theo chỉ giáo của các bổn sư (guru) của Ngài. Những nỗ lực này đã mang lại một Tịnh Độ Kopan.”

 

Cuộc đời, thành tựu và sự dấn thân của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel rất đáng được tán dương. Ngay lúc còn là một nhà sư trẻ, Ngài đã dấn thân phụng sự Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche, rồi dành thêm 40 năm sau đó để hoàn thành ước nguyện của hai Thầy. Ngài đã đóng vai trò người mẹ, người cha, người thầy và người bạn đối với vô số chúng sanh. Như Lama Zopa Rinpoche đã khen tặng nhiều năm trước, Lama Lhundrup “là một vị lama mà bạn có thể tin cậy hoàn toàn.” Xin bạn hãy cùng toàn thể cộng đồng FPMT tùy hỷ với sự dấn thân to tát của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup trong việc bảo tồn, quảng bá Phật pháp và trông nom Tu Viện Kopan, trái tim của FPMT (Hội Bảo Tồn Truyền Thống Đại thừa).

 

 

Tháng Bảy năm nay, văn phòng của Kopan đã gởi đến Mandala lời yêu cầu sau đây: Hôm nay Lama Zopa Rinpoche, vị Guru Có Lòng Từ Tâm Nhất của chúng tôi, đã khuyên tất cả những ai có duyên lành với Khensur Rinpoche (đã nhận sự tham vấn, truyền khẩu, giáo huấn hay quy y với Ngài) có thể hành trì pháp tu Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát càng nhiều càng tốt, để tạo lợi lạc cho Khensur Rinpoche.

 

Các đệ tử khắp nơi trên thế giới và Tu Viện Kopan đã làm rất nhiều puja (lễ cúng dường) và cầu nguyện cho Lama Lhundrup. Quý vị có thể tìm thấy bài công phu Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, các tin tức cập nhật về tình trạng sức khỏe của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup, cũng như các bài viết về Ngài của Geshe Thubten Sherab, Karuna Cayton, Ani Tenzin Jangsum, Jo Hathaway và các tác giả khác ở www.mandalamagazine.org.

 

Lozang Ngodrub chuyển dịch Việt ngữ

 

Bản Anh ngữ đã được đăng tải trong Tạp Chí Mandala, tháng 10-12, 2011.

 https://fpmt.org/mandala/archives/mandala-issues-for-2011/october/khensur-rinpoche-lama-lhundrup/ll-vietnamese/

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/03/2022(Xem: 4598)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 15714)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 29332)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 16200)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 37891)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 7937)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 6273)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4270)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
24/05/2019(Xem: 5310)
Sau 12 năm học tập và làm việc tại nước Nga, năm 1995 tôi về Việt Nam và vào làm việc tại công ty FPT. Chân ướt chân ráo chưa hiểu nhiều về công việc và cuộc sống trong nước, may thay tôi được anh Phan Ngô Tống Hưng, lúc đó là phó Chủ tịch HĐQT kiêm phó Tổng giám đốc dẫn đi đảnh lễ Thượng tọa Thích Viên Thành. Và thế là Thượng tọa trở thành người thầy sơ tâm đầu tiên của tôi cho đến ngày Thầy viên tịch năm Nhâm Ngọ -2002. Thượng tọa Thích Viên Thành là Tổ thứ 11 của Tùng Lâm Hương Sơn và luôn là người thầy tôn kính của tôi.
04/09/2018(Xem: 4699)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche Tu Viện Kopan, Nepal Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai, được tổ chức ở Tu Viện Kopan, Nepal, năm 1979. Bài này là trích đoạn trong Bài Thuyết Pháp thứ 9 trong khóa tu. Sandra Smith hiệu đính sơ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567