Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cúng dường 12 trời Đại Uy Đức

08/04/201312:44(Xem: 9904)
Cúng dường 12 trời Đại Uy Đức
Phat_Thich_Ca_10

Mật Tạng Bộ 4_ No. 1297 (Tr.383_ Tr.385)

CÚNG DƯỜNG MƯỜI HAI TRỜI ĐẠI UY ĐỨC

PHẨM BÁO ÂN

_MỘT QUYỂN_

Hán dịch:BẤT KHÔNG

Việt dịch:HUYỀN THANH

Bấy giờ Bồ Tát Phổ Hiền quan sát Người, Trời xót thương tất cả không ngưng nghỉ, tự nói rằng:”Tất cả chúng sinh: 4 Đại luôn thay đổi không ngừng, có mọi thứ bệnh, hoặc Quỷ Ma đến gây ra mọi thứ bệnh mê đảo Thế Gian giảm bớt Thọ Mệnh. Làm sao đối trị được mọi thứ gây tổn hại bên trong bên ngoài như vậy? Vì chúng sinh chẳng tri ân cho nên có sự trái ngược như vậy.

Dùng cái gì làm Ân? Ấy là các Trời: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Nhật, Nguyệt có ân dưỡng dục bên trong bên ngoài.

Làm sao báo đáp được các Ân như vậy? Ấy là 4 Đại Chủng có phần tinh túy là Trời với nhóm Nhật Nguyệt

Cúng dường Trời ấy có mọi điều lợi. Khí Giới (giới vật chất) Sinh Giới (giới hữu tình) thảy đều tăng sức mạnh. Ai làm điều ấy? Số lượng bao nhiêu? Ấy là Trời đó có mười hai là: Địa Thiên, Thủy Thiên, Hỏa Thiên, Phong Thiên, Y Xá Na Thiên, Đế Thích Thiên, Điễm Ma Thiên, Phạm Thiên, Tỳ Sa Môn Thiên, La Sát Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên

Địa Thiên vui thời có hai lợi ích. Một là Thân người bền chắc, sắc đẹp sức lực tăng trưởng. Hai là Khí Giới, Địa Chủng tăng trưởng mùi vị, sức lực

Trời này giận thời có hai diều hao giảm. Một là thân người loạn hoại, sắc đẹp sức lực bị giảm bớt. Hai là mùi vị, sức lực của Khí Giới (giới vật chất) và đất đều trái ngược gốc

Thủy Thiên vui thời có hai lợi ích. Một là thân người chẳng bị khát. Hai là mưa thấm ướt theo Thời

Trời này giận thời cũng có hai điều hao giảm. Một là thân người bị khô khát. Hai là Khí Giới bị hạn hán, Thần Hạn hán (bạt), vạn vật khô hết. Hoặc tuôn mưa lớn , Thế Giới ngập nước tuôn chảy làm tổn hoại cây cỏ chẳng kịp cung cấp cho chúng sinh

Hỏa Thiên vui thời có hai lợi ích. Một là nhiệt khí (sức nóng) của thân người tùy thời thêm bớt. Hai là Thời Tiết chẳng nghịch

Trời này giận thời cũng có hai điều hao giảm. Một là sức nóng của thân người thêm bới chẳng đúng thời. Hai là tự nhiên phát lửa thiêu đốt các vật

Phong Thiên vui thời có hai lợi ích. Một là thân người nhẹ nhàng an ổn, cử động tùy theo Tâm Ý. Hai là Khí Giới không có nghiêng động mà tùy Thế Gian có gió lạnh ôn hòa chẳng gây hao giảm cho loài Tình (Hữu Tình) Phi Tình (Vô Tình)

Trời này giận thời cũng có hai điều hao giảm. Một là thân người với âm thanh chẳng được tùy ý. Hai là gió lớn thổi tràn tàn phá Thế Gian. Hoặc chẳng nổi gió khiến cho cây cỏ chẳng thuận theo Thời.

Nếu có 4 Đại Tinh như vậy. Trời giận dữ gây nạn thì nhà vua và người dân vào ở trong Tháp Ngũ Luân của Như Lai, thọ trì các Giới, quy y Tam Bảo, nhiếp tâm mà trụ nên tác Quán này

Đất y theo nước sinh, vì tính của nước trống rỗng cho nên đất cũng vô thường.

Nước y theo gió sinh, vì tính của gió trống rỗng cho nên nước cũng vô thường.

Lửa y theo nước, gió sinh; vì tính của nước, gió trống rỗng cho nên lửa cũng vô thường.

Gió y theo hư không, vì hư không không có thể cho nên gió cũng vô thường.

Vì gió trống rỗng nên lửa trống rỗng

Vì lửa trống rỗng nên nước trống rỗng

Vì nước trống rỗng nên đất trống rỗng.

Vì đất trống rỗng nên loài Hữu Tình, Phi Tình sinh ra trên đất thảy đều vô thường

Tác Quán này thời chư Thiên hết giận dữ, không có chỗ y trụ

Khi ấy Hành Giả lại tác Quán này

Hư Không tuy không có, mới có Hư Không,vì thế nên được tên gọi là Hư Không. Tên gọi ắt có Thể. Bời vì Hư Không có cho nên gió cũng có. Vì gió có cho nên nhóm nước, đất thảy đều có Thể.

Tác Quán này thời chư Thiên vui vẻ, uy quang tăng gấp bội, an ổn mà trụ

Y Xá Na Thiên vui thời chư Thiên cũng vui, Ma Chúng chẳng loạn. Xưa gọi là Ma Hê Thủ La (Mahe’svara).

Đức Phật nói:”Nếu cúng dường Ma Hê Thủ La (Đường gọi là: Đại Tự Tại) tức đã cúng dường tất cả chư Thiên”

Trời này giận thời chúng Ma đều hiện, quốc thổ hoang loạn

Thiên Đế Thích là chủ của cõi Địa Cư, ghi nhận mọi điều thiện ác do chúng sinh gây tạo ra. Trời này vui thời quốc thổ an ổn, người dân chẳng loạn

Trời này giận thời xảy ra đao binh chiến tranh, các vua cõi Địa Cư thảy đều chẳng yên

Diễm Ma Thiên vui thời người không bị chết đột ngột, dịch khí chẳng phát

Trời này giận thời người bị chết không đúng thời, dịch khí tràn đầy

Phạm Thiên là chủ của cõi Thượng Thiên,là cha của chúng sinh. Trời này vui thời Khí Thế Gian an ổn không có loạn động, tại vì sao? Vì Vào thời Kiếp Sơ, Trời này thành lập Khí Thế Gian vậy. Chúng sinh không loạn dùng Chính Trị Thế (Trị đời bàng chính pháp),sao lại thế? Vì vua cha vui vẻ vậy.

Trời này giận thời Thế Gian chẳng yên, có mọi thứ bệnh cho đến cây cỏ thảy đều héo úa rơi rụng, chúng sinh mê hoặc tên gọi như người say

Tỳ Sa Môn vui thời chúng Dược Xoa vui , chẳng hại người dân chẳng hành độc thũng. Khi giận thời đều loạn

La Sát Thiên vui thời các Đạm Hoàn Quỷ Túy cũng vui, chẳng phun khí độc, chẳng gây tạo hạnh ác. Trời này giận thời thảy đều hiện loạn

Nhật Thiên vui thời ánh sáng chẳng làm tổn hại vật, người giận chẳng ngu độn, Hữu Tình, Phi Tình thảy đều khoái lạc

Trời này giận thời mất độ không có ánh sáng, tuy có mắt nhưng chẳng thể thấy vật, lạnh khổ thông nhau lấn bức

Nguyệt Thiên vui thời ánh sáng lạnh tăng thêm khiến cho vật, ngườikhông có bệnh nóng sốt. Khi giận thời buông bỏ hết

Nhật Nguyện trợ nhau chiếu soi có lợi ích lớn, thời tiết hòa dung, chúng sinh làm việc mỗi mỗi tùy vui. Vào thời Kiếp Sơ, con người có sắc đẹp như chư Thiên, dần dần tham đắm mùi vị nên giảm bớt ánh sáng của thân, dời bỏ tâm lành mà tạo nghiệp ác, Thế Gian chẳng thuận mà có lạnh nóng. Chính vì thế cho nên Nhật Nguyệt Thiên dời này hóa thành giấc mộng vậy

Chư Thiên như vậy, lúc nào thì vui vẻ? Lúc nào thì giận dữ? Ấy là quốc vương với các người dân dùng Phi Trị Thế (Trị đời không đúng chính pháp)tạo nghiệp chẳng lành, thường hành giết hại, trộm cắp mà buông bỏ Chính Pháp. Khi ấy chư Thiên đều sinh buồn lo. Buồn lo tức quá liền sinh giận dữ

Nếu thiên tai muốn khởi. Trước tiên có điềm quái lạ là không có mây mà tuôn mưa, các tinh tú tùy loạn (Không mây mà tuôn mưa là nước mắt của chư Thiên ấy buồn khóc vậy). Nếu ngừng nghiệp ác, dùng Chính Trị Thế thì chư Thiên vui vẻ thẩy đều đến hộ giúp, hương thơm xông ướp kháp, tăng thiện giảm ác

Nếu có người biết rõ nhóm Đại Thánh Uy Đức Thiên này dùng Tài Thí (đem tiền của cúng thí) trang nghiêm sinh thân ấy. Sau đó dùng Pháp Thí hiển Pháp Thân ấy kèm hành Từ Bi chẳng giết sinh mệnh. Đem cúng dường này làm báo ânvậy

Đời có số lượng chư Thiên Quỷ Thần rất nhiều, tại sao chỉ cúng dường mười hai Trời khiến an lập quốc thổ, vạn tinh tú an vui? Vì 12 Trời tổng nhiếp tất cả Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Tinh Tú, Minh Quan thế nên cúng dường hiểu rõ 12 Trời tức được tất cả hàng Trời Rồng ủng hộ.

Bởi thế nên Địa Thiên với các vị Thần trên mặt đất, các Quỷ Thần ở đống cát , dưới gốc cây đều đến vào Đàn Trường cùng lúc nhận cúng dường

Thủy Thiên và các vị Thần ở các sông, giòng chảy, sông nhỏ, sông lớn, biển lớn với các chúng Rồng đều đến vào Đàn Trường cùng lúc nhận cúng dường

Hỏa Thiên và các Hỏa Thần cùng với các Chúng Trì Minh Thần Tiên đều đến vào Đàn Trường cùng lúc nhận cúng dường

Phong Thiên và các Phong Thần, hàng Vô Hình Lưu Hành Thần đều đến vào Đàn Trường cùng lúc nhận cúng dường

Y Xá Na Thiên và các Ma Chúng đều đến vào Đàn Trường cùng lúc nhận cúng dường

Đế Thích Thiên với nhóm Tô Mê Lô (Sumeru: Núi Tu Di) , tất cả các núi là nơi nhiếp hàng Trời, Quỷ… đều đến vào Đạo Trường cùng lúc nhận cúng dường

Diễm Ma Thiên với các hàng Ngũ Đạo Minh Quan, Thái Sơn Phủ Quân, Ty Mệnh, Hành Dịch Thần, các loài Quỷ đói… đều đến vào Đàn Trường cùng lúc nhận cúng dường

Phạm Thiên với tất cả chư Thiên thuộc trời Tĩnh Lự ở Sắc Giới đều đến vào Đạo Trường cùng lúc nhận cúng dường

Tỳ Sa Môn Thiên với các hàng Dược Xoa, Thôn Thực Quỷ Thần… đều đến vào Đàn Trường cùng lúc nhận cúng dường

La Sát Thiên Tử, La Sát, cúng Thực Huyết Quỷ… đều đến vào Đạo Trường cùng lúc nhận cúng dường

Nhật Thiên với các Tinh Chúng, bảy Diệu, các Chấp, Hàng Du Không,tất cả Quang Thần… đều đến vào Đàn Trường cùng lúc nhận cúng dường

Nguyệt Thiên với các hàng Trụ Không, 28 Tú, 12 Cung Thần, tất cả Tú Chúng… đều đến vào Đàn Trường cùng lúc nhận cúng dường

Nên Quán như vậy.

Thiên Chủ như vậy, thân đối trước Đức Phật thề sẽ phụ giúp thất cả Hữu Tình, hộ trì quốc giới, thủ hộ Chính Pháp. Như khi Triệu Thỉnh thời chẳng vược Bản Thệ quyết định có ảnh hưởng. Trong khoảng thời gian chưa Phát Khiển thì trụ ở Đàn Trường chẳng xa lìa Hành Giả. Chính vì thế cho nên Cúng Dường sau dó nên Cúng Tạ. Các việc thông suốt rồi cầu xin vui vẻ

Lúc Triệu Thỉnh thời dùng các Biệt Ấn Minh, hoặc dùng Tổng Thỉnh Ấn Minh cũng được vậy

Tại sao chỉ có chút ít vật cúng thí lại có thể khiến cho Thiên Chúng với các Quỷ Thần đều được thọ dụng?

Ấy là do 3 loại nghĩa về “chỉ có chút ít vật cúng mà tất cả đều được thọ dụng”

Một là do ba Mật gia trì, tức là vận tâm Pháp Giới Thật Tướng Diệu Cúng

Hai là do Đại Từ Bi

Ba là do các Thiên Chủ có nhiều Phước Lực như loài Rồng có chút ít nước, do Phúc lực của mình nên rưới khắp các Quốc Thổ

Chú nơi chư Thiên, bởi vì Phúc của người ở khắp bốn thiên hạ đều chẳng bằng Phúc Tài của một người ở cõi Tứ Thiên Vương. Tùy theo chí của Trì Chủ thêm bớt mà phước của chư Thiên có nhiều cho nên được cúng chút ít cũng tràn khắp tất cả. Vì Phước của Trời nhiều nên giao phó điều ấy thành rộng

Lại giả sử tuy hình sắc, mùi vị có thấp kém… do ba nghĩa trước đều thành Đề Hồ vi diệu thanh tịnh. Như Kỳ Bà thương tất cả tức vạn vật thành thuốc. Ni Kiện chú vào chất độc thì chất độc trở ngược thành thuốc

Thế gian còn được như thế huống chi Hành Giả tùy thuận Phật Giáo, khởi Đại Từ Bi tác ba Mật gia trì ư!

Lại do Phước của Trời mà vật cúng thấp kém ấy thành vật cúng vi diệu thanh tịnh. Như Thạch Ma Nam được Thạch Thành Vương làm Thế Nữ lấy cát làm vàng. Chúng phu nhân xinh đẹp chẳng ham tiền của thế gian chỉ vui thuận chính bởi vì chẳng khinh việc bố thí ít mà vui thích với Từ Thí (bố thí do tâm hiền lành)vậy

Nếu Trời chẳng ưa thích, liền thỉnh Ngoại Kim Cương Bộ Chủ Tứ Tý Bất Động Phẫn Nộ Minh Vương cúng dường quy y. Lúc đó chư Thiên tùy thuận Giáo Sắc vui vẻ hộ trì vậy

Nếu cúng dường thời (chư Thiên) đến ngồi ở phương nào?

Ấy là: Đế Thích ở phương Đông, Hỏa Thiên ở Đông Nam, Diễm Ma ở phương Nam, La Sát ở Tây Nam, Thủy Thiên ở phương Tây, Phong Thiên ở Tây Bắc, Tỳ Sa Môn ở phương Bắc, Y Xá Na ở Đông Bắc, Bản Tôn (Tứ Tý Bất Động Minh Vương) ở trung ương, bốn góc là Phạm Thiên, Địa Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên. Như vậy mà trụ

Cúng dường như thế nào? Trời nào làm đầu ? Ấy là: hoặc y theo phương vị , bắt đầu từ phương Đông, hồi thuận mà cúng.Hoặc có nguyện riêng (biệt nguyện)y theo Pháp của nhóm Tức Tai mà cúng dường

Nếu cầu Tức Tai, dùng Đế Thích làm đầu

Nếu cầu Tăng Ích, dùng Phạm Thiên làm chủ

Nếu cầu Điều Phục, dùng Đại Tự Tại làm đầu

Nếu cầu Kính Ái, dùng Tỳ Sa Môn làm đầu. Còn lại hồi thuận mà cúng

Hoặc muốn ngừng đao binh, dùng Đế Thích làm chủ

Nếu muốn trừ trừ các nạn Dược Xoa, La Sát..dùng Tỳ Sa Môn La Sát Thiên

Nếu muốn trừ Dịch (bệnh dịch) dùng Diễm Ma Thiên

Nếu muốn trừ nạn hạn hán, Thần hạn hán, hồng thủy… đều dùng Thủy Thiên

Nếu muốn trừ oán tai dùng Phong Thiên và đối với Trời này, cầu nhóm Phong nạn

Nếu muốn điều người dùng Phạm Thiện Vương

Nạn về nước, dùng Hỏa Thiên

Nạn về lửa, dùng Thủy Thiên

Hàng Ma dùng Y Xá Na Thiên hoặc dùng Hỏa Thiên

Trấn nơi ác, dùng Địa Thiên cộng với cầu về Ngũ Cốc

Nếu cầu Quan Vị, dùng Đế Thích Thiên

Nếu cầu Trí, dùng Nhật Thiên

Nếu cầu Định, dùng Nguyệt Thiên

Nếu muốn trừ bệnh nóng lạnh (hàn nhiệt), tùy dùng Nhật Nguyệt Thiên (Nhật Thiên trừ lạnh, Nguyệt Thiên trừ nóng)

Nếu có bệnh về 4 Đại, tùy dụng Tứ Đại Tinh Thiên

Như vậy làm đầu. Còn lại theo thứ tự hồi thuận mà cúng

Vì phú (giàu có) dùng Tỳ Sa Môn

Vì Quý nên dùng Phạm Thiên

Đồ vật cúng dường ấy đều thuần một vật; nước thơm, hương xoa, hoa mùa, ngũ cốc, cơm (hoặc cháo)đèn cầy, đuốc… cắm đầy một vật khí rồi cúng dường. Đốt hương xống ướp khắp, thanh tịnh như Pháp

Nghi thức cúng dường, các Biệt Ấn Minh với cách vẽ tượng ấy, mọi loại Pháp nghĩa … như Bộ khác nói

Bồ Tát Phổ Hiền vì độ chúng sinh tự hỏi tự đáp nhân duyên như vậy, báo ân như vậy, cầu nguyện như vậy, Pháp Quán như vậy, ba Mật như vậy, phương tiện như vậy, Đại Lực như vậy, tùy ý diễn nói dâng lên Đức Thế Tôn

Đức Thế Tôn nói lời nghĩa lý như vầy:”Lành thay! Lành thay! Như ông đã nói chân thật không hư dối. Mười hai Thiên này tức là chư Phật xa xưa vì độ chúng sinh nên đi đến hiện ra. Chính vì thế cho nên Hành Giả chẳng thể y theo hình Thế Thiên mà chỉ quán Pháp Thân của Thiên ấy để trang nghiêm

Nếu có người tùy thuận Ta với lời ông nói mà cúng dường Trời đó.Ở trước Thiên Tượng này giảng đọc Bát Nhã, Kinh Pháp thâm sâu sẽ khiến cho chư Thiên đều rất vui vẻ vậy

Vì chư Thiên vui vẻ cho nên tất cả chúng sinh đều được vui vẻ. Được tất cả chúng sinh vui cho nên chư Phật cũng vui. Vì chư Phật vui cho nên viên mãn Tất Địa Thế Gian và Xuất Thế Gian

NGHI QUỸ CỦA 12 THIÊN (Một quyển_Hết)

12/03/2007

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/07/2015(Xem: 18615)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
10/06/2015(Xem: 8413)
Trong Phật giáo Mật tông Tây tạng có nhiều pháp môn tu tập để đưa hành giả đến Tự chứng ngộ Phật tánh của mình. Được xếp hàng cao nhất trong tất cả các pháp môn đó là Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā) của phái Khẩu Truyền (Kargyu) và Đại Hoàn Thiện (Dzogchen hay Ati-yoga) của phái Cổ Mật (Nyingma). Theo các học giả và hành giả Tây tạng thuộc phái Kargyu – tiêu biểu là Khenchen Thrangu Rinpoche, một trong những đại sư xuất sắc thời hiện đại thuộc dòng Karma Kargyu – thì Mādhyamika (Trung đạo hay Trung quán) là giáo lý dạy về nguyên lý Tánh Không (Shūnyatā) trong hình thức tổng quát và Mahāmudrā (Đại Ấn hay Đại Thủ Ấn) là giáo lý dạy về tu tập và chứng ngộ Tánh Không.
18/05/2015(Xem: 21858)
Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (bản Việt dịch của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn) HT Thích Huyền Tôn dịch Hạ tải bản Kinh này: Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (PDF Liên lạc để thỉnh tập sách này tại: Nhà sách Văn Thành Địa chỉ: 235/53 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P7, Q3. TP.HCM ĐT: 848 82028 – 0909 093 106 – 0908 585 560
05/02/2015(Xem: 7404)
Sách Cúng Dường Mây Cam Lồ (Choden Rinpoche) posted Nov 13, 2014, 10:08 PM by Tam Bao Dan [ updated Nov 20, 2014, 10:56 PM by Pema Zangmo ] Một sưu tầm giáo huấn về pháp luyện tâm và các đề tài khác do Choden Rinpoche luận giảng. Gyalten Deying chuyển Việt ngữ. Thanh Liên và Mai Tuyết Ánh hiệu đính. Viet Nalanda Foundation phát hành lầu đầu vào tháng 12 năm 2014. Sách ấn tống không bán. [Đọc sách] Tại Hoa Kỳ và Canada, xin liên lạc vnfbookrequest@gmail.com để nhận sách. Tại Úc Châu, Tân Tây Lan và Đông Nam Á (không kể Việt Nam), xin liên lạc xitrum70@yahoo.com. Tại Việt Nam, xin liên lạc huyen2307@yahoo.com. Quý vị cũng có thể tìm thấy bản điện tử của sách này ở trang "Giáo Pháp" trong phần "Kinh Sách"
24/01/2015(Xem: 7064)
Nghi Thức Cúng Tsog, Chùa Đại Nhật Như Lai - Maha Vairocana Temple 1631 South White Rd, San Jose, CA 95127 Tel: (408)926-1998 -- Email: ThongDat72@yahoo.com
22/12/2014(Xem: 23650)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
28/11/2014(Xem: 8342)
Thrangu Rinpoche sinh ở Tây tạng. Sau khi thoát khỏi Tây tạng sang Ấn độ, sư đã giúp thành lập chương trình giáo dục cho dòng truyền Karma Kagyu của đức Karmapa thứ 16. Sư là thầy dạy các Tulku chính của dòng truyền như Shamar Rinphoche, Situ Rinphoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche, và Gyaltsab Rinpoche. Sư cũng thành lập nhiều tự viện ở Nepal và Ấn độ, và dựng các trung tâm Phật giáo ở Viễn đông, Đức, Anh, Hoa Kỳ, và Ca-na-đa. Sư được biết đến nhiều vì tài nhận lấy những đề tài khó và làm cho chúng trở thành có thể tiếp cận được cho người tu tập. Sư là tác giả một số sách bằng Tạng ngữ và Hoa ngữ gồm hơn 30 quyển bằng Anh ngữ. Hiện tại sư cũng là một trong những vị thầy chính của Karmapa thứ 17.
27/11/2014(Xem: 6994)
Dù một số học giả cho rằng Mật điển của Phật giáo phát xuất từ Ấn giáo (Hinduism), điều này không đúng. Lý thuyết này thịnh hành trong số những người theo học thuyết Tiểu thừa, dựa trên sự tương đồng bề ngoài của các yếu tố trong hai hệ thống, chẳng hạn như sắc tướng của các Hộ Phật, pháp thiền quán về kinh mạch và khí, nghi lễ lửa, v.v... Tuy một số hành trì như trì tụng mật chú đều phổ biến trong cả hai truyền thống Mật điển Ấn giáo và Phật giáo, sự diễn dịch của chúng, ý nghĩa nội tại, có một sự khác biệt lớn. Hơn nữa, Mật điển Phật giáo cao cấp hơn, bởi vì không như Ấn giáo, nó chứa đựng ba điểm tinh yếu của đường tu giác ngộ: tâm xả ly, bồ đề tâm và chánh kiến về tánh Không.
24/11/2014(Xem: 16596)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
10/11/2014(Xem: 5397)
Diễm, từ Việt Nam gửi một tin nhắn cho tôi qua Yahoo Messenger để hỏi về Mật Tông. Cô bảo sáng nay vào paltalk nghe thiên hạ nói về hai chữ đó mà phút cuối vẫn mù mờ. Tôi hỏi sao cô không hỏi trực tiếp trong Room, cô nói giọng Huế của mình trọ trẹ khó nghe, nói ra lỡ người ta không hiểu thì dị òm (mắc cỡ chết). Tôi cứ băn khoăn không biết phải nói sao về một chuyện không phải sở trường của mình. Không nói thì kẹt cho cả đôi bên: Diễm tiếp tục mù tịt về một chuyện kể cũng nên biết và tôi mang tiếng ăn quẩn cối xay. Dù thiệt ra thiên hạ có nghĩ sao thì trái đất vẫn quay mà.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567