Hán dịch: Nước Kế Tân_ Sa Môn PHẬT ĐÀ BA LỢI phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
THAY LỜI TỰA
Theo truyền thống Mật Giáo thì Phật Đỉnh Tôn Thắng là một trong 5 Phật Đỉnh của viện Thích Ca thuộc Thai Tạng Giới Mạn Đà La ( Garbhadhàtu- Manïdïala) có tên là Trừ Chướng Phật Đỉnh (Vikiranïa Usïnïìsïa) biểu thị cho Đỉnh Thần Thông không có chỗ sợ hãi (vô sở úy) của Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai (‘Sàkyamunïi Tathàgaya). Phật Đỉnh này có Chủng Tử là HRÙMÏ ( ) , Tam Muội Gia Hình là “Hoa Sen bên trên có dựng móc câu” . Tôn này có công năng nhiếp phục , làm tiêu trừ mọi nghiệp cấu của tất cả chúng sinh và khiến cho chúng trở thành thanh tịnh. Trong 5 Phật Đỉnh hóa hiện từ đỉnh kế của Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai thì Phật Đỉnh này là thù thắng nhất cho nên hệ Mật Giáo dùng Phật Đỉnh Tôn Thắng làm Bản Tôn cho Pháp tu trì về Tức Tai, trị bệnh… và xưng là Tôn Thắng Pháp.
_Truyền thống Hoa Văn ghi nhận vào đời Đường Cao Tông , niên hiệu Nghi Phượng, năm đầu tiên (676) có vị Tam Tạng của nước Kế Tân tên là Phật Đà Ba Lợi (Buddhapàli) đi đến Trung Hoa. Trong dịp lễ bái thánh tích ở núi Ngũ Đài, Ngài gặp một ông lão khuyên bảo nên trở về Thiên Trúc lấy Kinh Bản Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni đem truyền cho dân chúng Trung Hoa. Đến niên hiệu Vĩnh Thuận thứ hai (683) Ngài đi đến Trường An, được vua ban sắc là Nhật Chiếu Tam Tạng Pháp Sư cùng với vị quan tên Đỗ Hành Khải cùng dịch ra để lưu truyền.
Sau này các bậc Đạo Sư, học giả cũng phân biệt dịch Kinh này như:
Đời Đường, Đỗ Hành Khải dịch Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh (1 quyển)
Đời Đường, Pháp Sùng biên soạn Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh Sớ (2 quyển). Sau đó lại chú thích Phạn Bản Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni của ngài Bảo Tư Duy
Đời Hậu Chu, Trí Xứng dịch Tôn Thắng Đà La Ni kèm với Niệm Tụng Công Đức Pháp (đã bị thất lạc)
Đời Đường, Thiên Trúc Tam Tạng Địa Bà Ha La dịch Tối Thắng Phật Đỉnh Đà La Ni Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Kinh (1 quyển)
Đời Đường, Địa Bà Ha La lại trùng dịch Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh (1 quyển)
Đời Đường, Tam Tạng Sa Môn Nghĩa Tịnh dịch Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh (1 quyển)
Đời Đường, Tam Tạng Thiện Vô Úy (‘Subhakara) dịch Tôn Thắng Phật Đỉnh Tu Du Già Pháp Nghi Quỹ (2 quyển)
Đời Đường , Tam Tạng Kim Cương Trí (Vajra Jnõàna) dịch Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni (1 bản)
Đời Đường, Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí Bất Không (Amogha) dịch Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni Niệm Tụng Nghi Quỹ Pháp (1 quyển)
Đời Đường, Tam Tạng Bất Không lại ghi chú nghĩa của Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La ni (1 bản)
Đời Tống, Thi Hộ (‘Sìlapàla) dịch Tôn Thắng Đại Minh Vương Kinh (1 quyển)
Đời Tống, Truyền Pháp Đại Sư Pháp Thiên (Dharma Deva) dịch Tôn Thắng Phật Đỉnh Đà La Ni (1 bản) và Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng Tổng Trì Kinh (1 quyển)
Ngoài các Kinh Bản này ra, còn lưu truyền rất nhiều bản Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni của Ngài Nghệ Không, Vũ Triệt…., các bản Gia Cú Linh Nghiệm chép tay được phát hiện ở Động Đôn Hoàng. Nhân đây Pháp Tu Tôn Thắng đã được truyền rộng qua Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản…
_ Truyền Thống Mật Giáo Nhật Bản thường lưu hành các bài Phật Đỉnh Tôn Thắng của Tam Tạng Thiện Vô Úy và bài Phật Đỉnh Tôn Thắng Cụ Túc Bản của Đại Sư Hoằng Pháp
_ Ở Tây Tạng thì lưu truyền bài chú của Namgyelma ( tức Phật Đỉnh Tôn Thắng Thần Chú) gồm một bài dài và một bài ngắn.
_ Tại Việt Nam , Đời nhà Đinh đã lưu truyền bản Phật Đỉnh Tôn Thắng Gia Cú Linh Nghiệm Đà La Ni .Theo quyển Văn Sắc Hán Nôm Việt Nam Thời Lý do Viện Viễn Đông Bác Cổ và Viện Hán Nôm Việt Nam biên soạn (từ trang 55 đến trang 70) ghi nhận 5 bài Phật Đỉnh Tôn Thắng Gia Cú Linh Nghiệm Đà La Ni được Thái Tử Đinh Liễn ghi khắc trên các cột đá ( Gồm 5 bia số 5, số 6, số 7, số 8, số 9 ) để cúng dường . 5 bia văn đó là:
.) Bia số 5 ( 973) : Cột đá gồm 8 mặt , phát hiện vào năm 1963 trong lòng đất thuộc xã Trường An, huyện Hoa Lư, nay đã thất lạc, chỉ còn lại bản phục chế tại Bảo Tàng huyện Hoa Lư. Bài văn khắc trên 8 mặt, cao 65cm, rộng 5cm, gồm 16 hàng, khắc chìm, chữ chân phương, cả thảy gồm 470 chữ.
Đề bạt nói về việc Nam Việt Vương Đinh Liễn dựng 100 tòa Thạch Tràng vào năm Quý Dậu (973) . Phần cuối minh văn bị mờ. Thác bản (in từ bản phục chế) lưu tại viện Nghiên Cứu Hán Nôm ( ký hiệu VB1)
.) Bia số 6 (979): Cột đá 8 mặt phát hiện dưới lòng đất xã Trường An , huyện Hoa Lư năm 1986, hiện bảo quản tại Bảo tàng Ninh Bình. Minh văn 8 mặt, cao 65cm, rộng 6,5cm , gồm 19 hàng, khắc chìm , chữ khải chân phương. Cả thảy khoảng 560 chữ. Thác bản văn bản để tại viện Nghiên Cứu Hán Nôm (ký hiệu VB2)
Trong phần đề bạt không ghi rõ năm tạo. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ( Ngoại Ký:5 a-b) Đinh Liễn giết hại em trai vào mùa xuân năm 979 , và tháng 10 năm đó Đinh Liễn cùng với cha cũng bị giết hại. Chúng tôi ( Nhóm biên soạn quyển Văn Sắc Hán Nôm Thời Lý) có thể đoán định Thạch Tràng này tạo dựng vào năm 979, thời điểm sau khi em trai ông bị giết hại và trước khi ông bị giết.
.) Bia số 7 (979) : Cột đá 8 mặt phát hiện ở xã Trường Xuân, huyện Hoa Lư, hiện bảo quản ở Bảo tàng Ninh Bình. Bài văn khắc trên 8 mặt, cao 66cm, rộng 16cm, gồm 20 dòng, khắc chìm, chữ khải chân phương. Cả thảy khoảng 560 chữ.
Thác bản hiện lưu tại viện Nghiên Cứu Hán Nôm (ký hiệu VB3) Về niên đại của bia này, xem văn bản số 6.
.) Bia số 8 (979) : Cột đá 8 mặt, phát hiện năm 1986, hiện bảo quản tại Bảo tàng Ninh Bình. Minh văn khắc trên 8 mặt, cao 60cm, rộng 7cm,gồm 18 dòng, khắc chìm, chữ chân phương. Cả thảy khoảng 460 chữ.
Thác bản tại viện Nghiên Cứu Hán Nôm (VB8). Về niên đại của bia này, xem văn bản số 6)
.) Bia số 9 (Thế kỷ X): Cột đá 8 mặt, phát hiện năm 1964. Hiện bị thất lạc. Minh văn 8 mặt, cao 80cm, rộng 10,5cm, chỉ có thể đọc được 6 mặt, mỗi mặt có 3 dòng, gồm khoảng 470 chữ. Tuy trong đề bạt không ghi năm tạo, nhưng chúng tôi (nhóm biên soạn quyển Văn Sắc Hán Nôm thời Lý) có thể đoán định vào thế kỷ thứ X . Thác bản minh văn năm 1970 để ở Bảo tàng Lịch sử Hà Nội, hiện bị thất lạc. Theo đoán định của đề dẫn bản chép tay Đôn Hoàng(P.2197R0 (8) ,S.4378 V0 và P.3919 [B] [5] ). Phần mở đầu của Đà La Ni viết thêm 28 câu (P.3919 [B] [5] chỉ có 18 câu) thơ thất ngôn, rất có khả năng là một bài văn Đạo Tràng tụng niệm Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni. Bài thơ chỉ ghi việc cúi đầu tán dương Đức Phật và “Tổng Trì Sa-Ba-Nhã” (sarva-jnõa) mà thôi. Cuối bài thơ là việc thỉnh chư Phật Bồ Tát và Bát Bộ Thiên Long, Diêm Vương cùng hai vị Thiện ác đồng tử …. Tất cả Thánh Hiền trong Phật Giáo giáng lâm Đạo Tràng để phù hộ Phật Pháp. Từ đó hy vọng tất cả chúng sinh khi nghe được bài văn chú Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni sẽ thành Phật .
( Phần ghi chép gốc tích 5 văn bia này đều trích trong quyển Văn Sắc Hán Nôm Việt Nam thời Lý , từ trang 55 đến trang 56).
Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni (Usïnïisïa Vijaya Dhàranïì) còn được gọi là : Diên Mệnh Đà La Ni, Thiện Cát Tường Đà La Ni. Phàm có 9 lược bản (bản ngắn) được lưu truyền là các bản dịch của Đỗ Hành Khải, Tam Tạng Nhật Chiếu, Tam Tạng Nghĩa Tịnh, Bà La Môn Tăng Phật Đà Ba Lợi, Tam Tạng Thiện Vô Úy,Tam Tạng Kim Cương Trí, Tam Tạng Bất Không, Bản chú dịch của Pháp Sùng ( Bản Phạn của Ngài Bảo Tư Duy), Phạn Bản sở truyền của Đại Sư Hoằng Pháp. Ngoài ra còn có các Quảng Bản ( Bản dài) được dịch bởi Truyền Pháp Đại Sư Pháp Thiên, Thiền Sư Nghệ Không, Truyền bản của Tây Tạng…. Riêng Bản Phật Đỉnh Tôn Thắng Gia Cú Linh Nghiệm Đà La Ni được lưu truyền ở Việt Nam trong đời nhà Đinh là bản phối hợp giữa Quảng Bản và Lược Bản .
Hầu hết các bản ghi chép đều công nhận là: Nếu có người ghi chép, thọ trì, cúng dường, đọc tụng Đà La Ni này. Hoặc sao chép bài Chú rồi đặt trong Tháp Miếu ( Stùpa) , trên cây phướng cao, lầu gác… Hoặc ghi khắc trên các trụ đá, bia đá cúng dường cầu đảo… ắt tịnh trừ được tất cả các nẻo ác, tiêu trừ tội chướng, tăng trưởng thọ mệnh, sau khi chết được vãng sinh về cõi Cực Lạc.
Nếu cầu cho người đã chết được siêu độ thì trì tụng Đà La Ni này 21 biến vào một nắm đất hoặc cát sạch rồi rải lên thi hài hoặc nấm mồ thì người ấy nhất định siêu thoát.
Ngoài ra trong Nghi Quỹ và Kinh Điển còn ghi rất nhiều công năng của Pháp tu trì Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni như: Cầu mưa, trừ lũ lụt, trừ tai nạn, cầu tài lộc, trị bệnh tật…
Người tu Mật Tông vào hai buổi sáng, chiều có thể vì người chết mà hồi hướng Thời Tụng thì người chết được hưởng nhiều lợi ích cho đến có thể tiêu trừ nghiệp chướng ác được sinh lên cõi Trời hoặc có thể sinh về cõi Tịnh Thổ. Trong khóa tụng của Thiền Tông cũng thường niệm tụng bài Chú này.
Tại Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam có rất nhiều người tin tưởng và trì tụng Đà La Ni này và được sự linh nghiệm chẳng ít
Tuy nhiên do các Truyền Bản có nhiều sai khác về âm ngữ và nghĩa thú nên sau nhiều năm tham khảo tìm tòi, tôi xin sưu tập lại các bài Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni và mạo muội phục hồi lại Phạn văn cùng với nghĩa thú của Đà La Ni nhằm có thể giúp ích được phần nào cho sự tu học của Phật Tử Việt Nam. Điều không thể tránh khỏi là các bản này còn nhiều sự khiếm khuyết. Ngưỡng mong các Bậc Long Tượng của Mật Giáo, chư vị Cao Tăng Đại Đức hãy rũ lòng Từ Bi sửa chữa giùm lỗi lầm ngỏ hầu giúp ích cho những người cầu học Chính Pháp Giải Thoát được thọ hưởng nhiều sự lợi ích.
Đầu Hạ, năm Ất Dậu (2005)
Huyền Thanh ( Nguyễn Vũ Tài) kính ghi
Mật Tạng Bộ 2 _ No.967 ( Tr.350)
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
Hán dịch: Nước Kế Tân_ Sa Môn PHẬT ĐÀ BA LỢI phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
1_ Nẵng mô
2_ Bà nga phộc đế
3_ Đát-lạt lộ chỉ-dã
4_ Bát la để
5_ Vĩ thủy sắt-tra dã
6_ Mộ đà dã
7_ Bà nga phộc đế
8_ Đát nễ dã tha
9_ Aùn
10_ Vĩ thú đà dã
11_ Sa ma sa ma, tam mãn đa
12_ Phộc bà sa
13_ Sa-phả la noa
14_ Nghiệt đế, nga hạ nẵng
15_ Bà phộc, vĩ truật đệ
16_ A tị tru tả đổ hàm
17_ Tố nghiệt đá
18_ Phộc la tả nẵng
19_ A mật-lật đá
20_ Tị sái kế
21_ Ma ha mạn đát-la, bá nãi
22_ A hạ la, a hạ la
23_ A dữu tán đà la ni
24_ Thú đà dã, thú đà dã
25_ Nga nga nẵng, vĩ truật đệ
26_ Ô sắt nị sái
27_ Vĩ nhạ dã, vĩ truật đệ
28_ Sa hạ sa la
29_ La thấp-minh
30_ Tán tổ nễ đế
31_ Tát phộc đát tha nghiệt đá
32_ Phộc lộ ca nĩnh
33_ Sát bá la nhĩ đa
34_ Bả lị bố la nị
35_ Tát phộc đát tha nghiệt đá
36_ Hiệt-lị ná dã
37_ Địa sắt-xá nẵng
38_ Địa sắt-xỉ đá
39_ Ma hạ mẫu nại-lị
40_ Phộc nhật-la, ca dã
41_ Tăng hạ đá nẵng, vĩ truật đệ
42_ Tát phộc phộc la noa
43_ Bả dã nạp, nghiệt đế
44_ Bả lị vĩ truật đệ
45_ Bát-la để
46_ Nĩnh miệt đá dã
47_ A dục, truật đệ
48_ Tam ma dã
49_ Địa sắt-xỉ đế
50_ Ma ni, ma ni
51_ Ma ha ma ni
52_ Đát đạt đá
53_ Bộ đa cú trí
54_ Bả lị truật đệ
55_ Vĩ đột-phổ tra
56_ Một địa, truật đệ
57_ Nhạ dã, nhạ dã
58_ Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã
59_ Sa ma la
60_ Tát phộc một đà
61_ Địa sắt-xỉ đá, truật đệ
62_Phộc nhật-lị, phộc nhật-la nghiệt bệ
63_ Phộc nhật lam
64_ Ba phộc đổ, ma ma (xưng tên…)
65_ Xả lị lam
66_ Tát phộc tát đát-phộc
67_ Nan tả , ca dã
68_ Vĩ truật đệ
69_ Tát phộc nga đế
70_ Bả lị truật đệ
71_ Tát phộc đát tha nghiệt đá
72_ Tam ma thấp-phộc sa diễn đổ
73_ Tát phộc đát tha nghiệt đá
74_ Tam ma thấp-phộc sa
75_ Địa sắt-xỉ đế
76_ Một địa dã, một địa dã
77_ Vĩ một địa dã
78_ Mạo đà dã, mạo đà dã
79_ Vĩ mạo đà dã, vĩ mạo đà dã
80_ Tam ma đá
81_ Ba lị truật đệ
82_ Tát phộc đát tha nghiệt đá
83_ Hiệt-lị ná dã
84_ Địa sắt-xá nẵng
85_ Địa sắt-xỉ đá
86_ Ma hạ mẫu nại-lệ
87_ Sa-phộc hạ
_Hết_
15/09/1997
Mật Tạng Bộ 2_ No.968 (Tr.353_ Tr.354)
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
Hán dịch: Đời Đường_ Kinh Triệu ĐỖ HÀNH KHẢI phụng chiếu dịch
Việt dịch : HUYỀN THANH
1_ Nam mô bà già bà đế, để-lệ lô cát dã, bát-la để tỳ thủy sắt tra dạ, bột đà dạ (Quy mệnh Tam Giới Thánh Tôn Thắng Giác)
2_ Đát điệt tha
3_ Ô mâu
4_ Tỳ du đà dạ, ma ma ( họ tên người thọ trì. Ở đây tự xưng tên họ…)
5_ Da mạn đa bá bà sa, phục cự la noa, già để, già ha na tỏa bà bà, thuấn đề
6_ A tỳ sắt giả-da, tố già đa, bà giả na, mật-lật đa, tỳ sán kế
7_ A ha la, a ha la
8_ Thâu đà dạ, thâu đà dạ
10_ Già già na, tỳ thuấn đề
11_ Ô sắt-ni sa, tỳ xà dạ, thuấn đề
12_ Sa ha sa-la , la thấp-nhĩ tam thất địa đê
13_ Tát la-bà đa tha già đa, địa sắt-xá na, địa sắt-xỉ đê
14_ A địa-lị bạt xà la ca dạ, tăng ha đa na, thuấn đề
15_ Tát la-bá bá la noa, tỳ thuấn đề
16_ Bát-la dạ nễ dạ đa bà dạ
17_ A dụ, thuấn đề
18_ Sa ma gia, địa sắt-xỉ đê
19_ Ma nễ, ma nễ, ma ma nễ
20_ Đa tha đa, bồ đà câu tri, bả lị thuấn đề
21_ Tỳ sa-phổ tra bột địa , thuấn đề
22_ Xà dạ, xà dạ
23_ Tỳ xà dạ, tỳ xà dạ
24_ Sa-ma la, sa-ma la
25_ Bột đà, địa sắt-xỉ đa, thuấn đề
26_ Bạt xà-lê, bạt xà-la yết la-bệ
27_ Bạt xà-lam bà bá đổ , ma ma ( Họ tên người thọ trì. Ở đây xưng tên họ…)
28_ Ma ha gia na, bát la bà ca dạ, tỳ thuấn đề
29_ Tát la-bá già để, bả lị thuấn đề
30_ Tát la-bá đa gia đa, sa ma thú-a sa, địa sắt-xỉ đê
31_ Bột đà dạ, bột đà dạ
32_ Tỳ bồ đà dạ
33_ Sa mạn đa, bả lị thuấn đề
34_ Tát la bá đa tha già đa, địa sắt-tra na , địa sắt-xỉ đê
35_ Sa ha
*) phục hồi Phạn Văn :
NAMO BHAGAVATE TRAILOKYA PRATIVI’SISÏTÏAYA
TADYATHA: OMÏ _ VI’SODHAYA MAMA (Xưng họ tên ….)
SAMANTA AVABHÀSA SPHARANÏA GATI GAHÀNA SVABHÀVA ‘SUDDHE
ABHISÏIMÏCA SUGATA VACANA AMRÏTA ABHISÏAIKA
ÀHARA ÀHARA
ÀYUHÏ SANDHARANÏI
‘SODHAYA ‘SODHAYA
GAGANA VI’SUDDHE
USÏNÏÌSÏA VIJAYA ‘SUDDHE
SAHASRA RA’SMI SAMÏSUDITE
SARVA TATHÀGATA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE
A DHRÏ
VAJRAKAYA SAMÏHATANA ‘SUDDHE
SARVA AVARANÏA VI’SUDDHE
ÀYUHÏ ‘SUDDHE
SAMAYA ADHISÏTÏITE
MANÏI MANÏI MAHÀ MANÏI
TATHÀTA BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE
VISPHUTÏA BUDDHI ‘SUDDHE
JAYA JAYA
VIJAYA VIJAYA
SMARA SMARA
BUDDHA ADHISÏTÏITA ‘SUDDHE
VAJRÌ VAJRAGARBHE
VAJRAMÏ BHAVATU
MAMA (Xưng họ tên…)
MAHÀ YÀNA PRABHÀ KÀYA VI’SUDDHE
SARVA GATI PARI’SUDDHE
SARVA TATHÀGATA ‘SAMA ‘SVASA ADHISÏTÏITE
BUDDHYA BUDDHYA VIBUDDHYA
SAMANTA PARI’SUDDHE
SARVA TATHÀGATA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE SVÀHÀ
_Hết_
11/05/1998
Mật Tạng Bộ 2 _ No.969 ( Tr.356)
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
Hán dịch: Đời Đường_ Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư ĐỊA BÀ HA LA phụng chiếu dịch
Việt dịch : HUYỀN THANH
1_ Nạp mô nạp mặc
2_ Đát tát mê bạc già phạt đế
3_ Thất ni lộ ca bát-la để bí thất sắt tra gia
4_ Tam bồ đà gia
5_ Ma ha mâu ni
6_ Đát điệt tha
7_ Ô hồng
8_ Bí du đà gia
9_ Tam ma, tam mạn đa ha bà bà ha sa
10_ Tát phả la noa, già để, già ha na
11_ Tát bà hà bà bà, thuấn đề
12_ A tỵ tru giả , ma, tô đà già, bạt la bạt thiện na
13_ A mật lật đa, tỳ sái kế
14_ A hạt la, a hạt la
15_ A du, tán đà la ni
16_ Du đà gia, du đà gia
17_ Tát bà yết ma, bà la noa nễ
18_ Mê lô bạt la, già già na, tỳ thuấn đề
19_ Ô sắt nị sa, bạt la hạt la đát na, tỳ xã gia
20_ Đạt ma đà đổ tô, tỳ thuấn đề
21_ Tát ha tát la hạt , la thấp nhĩ, châu địa đế
22_ Mạt ni, ma ha mạt ni, tô chân đà ma ni
23_ Bạt la tát bà , đát tha nghiệt đa, địa sắt xá na, địa sắt xỉ đa
24_ Ma ha mẫu điệt ni
25_ Bạt chiết la cá gia, tăng ha đá na, tô thuấn đề
26_ Tát bà bà la noa, tỳ thuấn đề
27_ Bát lạt đề bà nễ bà đá gia, a dụ , thuấn đề
28_ Tam ma gia, át địa sắt xỉ đê
29_ Mạt nễ ma mạt nễ
30_ Đát đạt đa, bộ đa, câu chi, bát lý thuấn đề
31_ Bỉ tát phổ đa, bột địa, thuấn đề
32_ Xã gia, xã gia
33_ Tỳ xã gia, tỳ xã gia
34_ Tỳ xã gia, tát ma la, tát ma la
35_ Tát bà bồ đà
36_ Bạt chiết lê, bạt chiết la yết tỳ
37_ Bạt chiết lam, bà phạt đô
38_ Ma ma (Tự xưng tên…) Tát bà tát đỏa gia
39_ Cá gia, tỳ thuấn đề
40_ Tát bà già để, bát lý thuấn đề
41_ Tát bà đát tha yết đa
42_ Tam ma, thấp phộc sa, át địa sắt xỉ đê
43_ Bột đà, bột đà
44_ Bồ đà gia, bồ đà gia
45_ Tam mạn đa, mạt la, đạt ma đà đô
46_ Tát bà đát tha yết đa
47_ Aùt địa sắt xá na, át địa sắt xỉ đê
48_ Sa bà ha
_Hết_
10/09/1997
Mật Tạng Bộ 2_ No.971 (Tr.382)
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
Hán dịch: Đời Đường_ Tam Tạng Sa Môn NGHĨA TỊNH phụng chế dịch
Việt dịch : HUYỀN THANH
Nam mô bạc già phạt đế
Điệt lị lô chỉ dã
Bát lạt để vĩ thất sắt tra dã
Bột đà dã, bạc già phạt đế
Đát điệt tha: Aùn
Vĩ thâu đà dã
Táp ma, tam mạn đa
A bà bà sa , táp phát la noa
Yết để lô yết ná
Tỏa bà bà , tỳ thú đệ
A tỳ tru giả đô mạn
Tô yết đa, bạt la, bạt đổ na
A mật lật đa, tỳ sư kế
A hạt la, a hạt la
A du, xuyến đà lạt nễ
Thâu đà dã, thâu đà dã
Già già na, tỳ thú đệ
Ô sắt nị sa, tỳ thệ dã, thú đệ
Tô ha tát la hạt , lạt thấp nhĩ
Xuyến thù địa đế
Tát bà đát tha yết đa
A địa sắt xá na, s địa sắt xỉ đá
Một điệt lệ
Bạt chiết la ca dã, tăng hạt đán na, thú đệ
Tát bà a phạt sắc noa, tỳ thú đệ
Bát lạt để nễ, bạt đới dã
A dụ, thú đệ
Tam ma gia, a địa sắt xỉ đế
Mạt nễ, mạt nễ, ma hạ mạt nễ
Đán đạt đa, bộ đa, trảo chí, bát lị thú đệ
Tỵ đột bố tra, bột địa , thú đệ
Thệ dã, thệ dã
Tỳ thệ dã, tỳ thệ dã
Tam ma la, tam ma la
Tát bà bột đà, a địa sắt xỉ đa, thú đệ
Bạt chiết lệ, bạt chiết la yết tỳ
Bạt chiết lam, bà bạt đổ
Ma ma, a mục yết tả ( Tự xưng tên…)
Tát bà tát đỏa nan giả, ca dã, tỳ thú đệ
Tát bà yết để, bát lị thú đệ
Tát bà đát tha yết đá
Tam ma, thú hòa sa, a địa sắt xỉ đế
Bột đà, bột đà
Bồ đà dã, bồ đà dã
Tam mạn đá, bát lị thú đệ
Tát bà đát tha yết đá
A địa sắt xá ná, a địa sắt xỉ đế
Sa ha
_ Hết_
17/09/1997
Mật Tạng Bộ 2_ No.972 ( Tr.367)
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí
BẤT KHÔNG
Việt dịch: HUYỀN THANH
1_ Nam mô bà nga phộc đế
2_ Đát-lạt lộ chỉ-dã
3_ Bát-la để vĩ thủy sắt-tra dã
4_ Bột đà gia
5_ Bà nga phộc đế
6_ Đát nễ-dã tha
7_ Aùn
8_ Vĩ thú dã dã
9_ Tam ma, tam mã đa, phộc bà sa
10_ Tát-phả la noa
11_ Nghiệt để, nga ha nẵng
12_ Tát-la bà phộc , truật đệ
13_ A tỵ tru tả hàm
14_ Tố nga đa
15_ Phộc la, phộc tả nẵng
16_ Mật-lật đa, tỷ sái kế
17_ A hạ la, a hạ la
18_ A dục, tán đà la ni
19_ Thú đà dã, thú đà dã
20_ Nga nga nẵng, vĩ thú đề
21_ Ô sắt-ni sa
22_ Vĩ nhạ dã, vĩ thú đề
23_ Sa hạ sa-la
24_ La thấp-nhĩ , tán tổ nĩ đế
25_ Tát phộc đát tha yết đa
26_ Địa sắt-xá nẵng, địa sắt-xỉ đa
27_ Mẫu nại-lệ
28_ Phộc nhật-la, ca gia
29_ Tăng hạ đát na, truật đệ
30_ Tát phộc phộc la noa, vĩ truật đệ
31_ Bát-la để nễ, mạt đa dã
32_ A dục, truật đệ
33_ Tam ma gia, địa sắt-xỉ đế
34_ Ma ni, ma ni
35_ Đát đạt đa, bộ đa, câu chỉ
36_ Bả lị truật đệ
37_ Vĩ sa-bố tra
38_ Bột địa, truật đệ
39_ Nhạ dã, nhạ dã
40_ Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã
41_ Sa-ma la, sa-ma la
42_ Tát phộc bột đà, địa sắt-xỉ đa, truật đệ
43_ Phộc nhật-lệ, phộc nhật-la nghiệt tỳ
44_ Phộc nhật lam, bà phộc đổ
45_ Ma ma ( Tôi, họ tên….)
46_ Tát phộc tát đát phộc
47_ Nan tả , ca dã, vĩ truật đệ
48_ Tát phộc nghiệt để
49_ Bả lị truật đệ
50_ Tát phộc đát tha nghiệt đa
51_ Tam ma, thấp-phộc sa, địa sắt-xỉ đế
52_ Bột đình, bột đình
53_ Mạo đà dã, mạo đà dã
54_ Tam mãn đa, bả lị truật đệ
55_ Tát phộc đát tha nghiệt đa
56_ Địa sắt-xá nẵng
57_ Địa sắt-xỉ đa
58_ Ma hạ mẫu nại lê
59_ Sa-phộc hạ
_ Hết_
18/09/1997
Mật Tạng Bộ 2_ No.973 (Tr.372_ Tr.373)
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG CHÂN NGÔN
Phạn Hán văn: Tam Tạng THIỆN VÔ ÚY
Việt dịch: HUYỀN THANH
1_ NAMO BHAGAVATE
Nam mô bạc già bà đế
2_ TRAILOKYA
Đát-lê lộ ca gia
3_ PRATIVI’SISÏTÏAYA
Bát-la để vĩ thủy sắt-tra gia
4_ BUDDHÀYA
Bột đà gia
5_ BHAGAVATI
Bạc già bà đê
6_ TADYATHÀ
Đát điệt tha
7_ OMÏ
Án
8_ VI’SUDDHAYA VI’SUDDHAYA
Vi thú đà gia, vi thú đà gia
9_ SAMA SAMA SAMANTA
Sa ma, sa ma, tam mãn đa
10_ VABHÀSA
Phộc bá sa
11_ SPHARANÏA GATI GAHÀNA
Tát-phả la na, nghiệt để, già ha na
12_ SVABHAVA VI’SUDDHE
Tát phộc bà phộc, vĩ truật đề
13_ ABHISÏIMÏCA TVAMAMÏ
A tỳ tru giả đổ ma-ám
14_ SUGATA VARA VACANA
Tô nghiệt đa, phộc la, phộc giả na
15_ AMRÏTA ABHISÏAIKAI
A mệ-lật đa, tỵ sái kế
16_ ÀHARA ÀHARA
A ha la, a ha la
17_ ÀYU SANDHÀRANÏI
a dụ, tán đà la ni
18_ ‘SODHAYA ‘SODHAYA
Du đà gia, du đà gia
19_ GAGANA VI’SUDDHE
già già na, vĩ truật đề
20_ USÏNÏÌSÏA VIJAYA VI’SUDDHA
Ô sắt-ni sa, vĩ xã gia, vĩ truật đề
21_ SAHASRA RA’SMI SAMÏSUDITE
Sa ha sa-la, la thấp-di , tán chú địa đế
22_ SARVA TATHÀGATÀVARUKANI
Tát bà đát tha nghiệt đa, phộc lô yết nễ
23_ SADPARAMITA PARIPÙRANÏI
Sa tra-ba la mật đa, ba lị bố la ni
24_ SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt-lị đà gia
25_ ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITA
Địa sắt-tra na, địa sắt-xỉ đa
26_ MAHÀ MUDRE
Ma ha mẫu điệt-lê
27_ VAJRA KÀYA
Phộc chiết-la, ca gia
28_ SAMÏHÀTANA VI’SUDDHE
Tămg ha đát na, vi truật đệ
29_ SARVÀVARANÏA BHAYA DURGATI PARI’SUDDHE
Tát bà phộc la noa, bà gia, đột lật-yết để, ba lị truật đề
30_ PRATINI VARTTAYA
Bát-la để nễ, phộc lị-đa gia
31_ AYUHÏ ‘SUDDHE
A dụ, truật đề
32_ SAMAYA ADHISÏTÏITE
Tam ma gia, địa sắt-xỉ đế
33_ MANÏI MANÏI MAHÀ MANÏI
Ma nễ, ma nễ, ma ha ma nễ
34_ TATHÀTA BHÙTA
Đát đạt đa, bộ đa
35_ KOTÏI PARI’SUDDHE VISPHOTÏA BODHI ‘SUDDHE
Cú tri, bả lị truật đệ, vi tát-phổ tra, bột địa. Truật đề
36_ JAYA JAYA
Nhạ gia, nhạ gia
37_ VIJAYA VIJAYA
Vi nhạ gia, vi nhạ gia
38_ SMARA SMARA
Tát-ma la, tát-ma la
39_ SARVA BUDDHA
Tát bà bột đà
40_ ADHISÏTÏITA ‘SUDDHE
Địa sắt-xỉ đa, truật đề
41_ VAJRÌ VAJRAGARBHE
Phộc chiết-lê, phộc chiết-la nghiệt tỳ
42_ VAJRAMÏ BHAVATU MAMA
Phộc chiết lam, bà phộc đổ, ma ma ( Tự xưng tên mình. Nếu vì người khác thì xưng tên họ của người ấy, nghĩa là tùy tương ứng trong bốn việc mà làm)
43_ SYA
Tả
44_ ‘SARIRAMÏ SARVA SATVANÀMÏCA
Xả lị lam, tát phộc tát đỏa nẫm giả
45_ KÀYA PARIVI’SUDDHE
Ca gia, ba lợi tỳ truật đề
46_ SARVA GATI PARI’SUDDHE
Tát bà nghiệt để, ba lị truật đề
47_ SARVA TATHÀGATA’SCA ME SAMA ‘SVASA YAMÏTU _ SARVA TATHÀGATA
Tát bà đát tha nghiệt đa thất-giả, mê tam ma, thấp-phộc sa, diễm đổ. Tát phộc đát tha nghiệt đa
48_ SAMA ‘SVASA ADHISÏTÏITE
Tam ma, thấp-phộc sa, địa sắt-xỉ đế
49_ BUDDHYA BUDDHYA
Bột điệt gia, bột điệt gia
50_ VIBUDDHYA VIBUDDHYA
Vi bộ đà gia, vi bộ đà gia
51_ SAMANTA PARI’SUDDHE
Tam mạn đa, ba lị truật đề
52_ SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt-lị đà gia
53_ ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITA
Địa sắt-tra na, địa sắt-xỉ đa
54_ MAHÀ MUDRE
Ma ha mẫu điệt-lê
55_ SVÀHÀ
Sa-phộc ha
Bản Đà La Ni này do Tam Tạng Thiện Vô Úy (‘Subhakara) ở nước Trung Thiên Trúc đem truyền cho cõi này. Phàm đất Hán đã có Ngài Phật đà Ba Lị đi đến lưu truyền các bản nhưng còn bị thiếu sót. Chính vì thế cho nên mới có bản dịch đầy đủ này lưu hành.
Trong No.973, trang 377 còn ghi nhận bản Phạn Văn của chùa Linh Vân. So với bản trên thì có vài sự sai khác nên tôi xin dịch âm để cùng nhau tham khảo
NAMO BHAGAVATE TRAILOKYA PRATIVI’SISÏTÏAYA BUDDHÀYA BHAGAVATE
TADYATHÀ : OMÏ
VI’SUDDHAYA VI’SUDDHAYA
SAMA SAMA SAMANTA VAHÀSA
SPHARANÏA GATI GAHANA
ABHISÏIMÏCA TUMAMÏ
SUGATA VARA VACANA
AMRÏTA ABHISÏAIKAI MAHÀ VANTRA PADAI
AHARA AHARA
ÀYU SANDHÀRANÏI
‘SADDHAYA ‘SADDHAYA
GAGANA VI’SUDDHE
USÏNÏÌSÏA VIJAYA VI’SUDDHE
SAHASRA RA’SMI SAMÏSUDITE
SARVA TATHÀGATÀVARUKANI
SÏANPARAMI PARIPÙRANÏI
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA
ADHISÏTÏINA ADHISÏTÏITA
MAHÀ MUNÏDRA
VAJRAKÀYA SAMÏHÀTANA VI’SUDDHE
SARVA AVARANÏA BHAYA DRARGATI PARIVI’SUDDHE
PRATINI VARTTAYA
AYUHÏ ‘SUDDHE
SAMÀYA ADHISÏTÏITE
MANÏI MANÏI MAHÀ MANÏI
TATHÀTA BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE
VISPHOTÏA BODHI ‘SUDDHE
JAYA JAYA_ VIJAYA VIJAYA
SMARA SMARA
SARVA BUDDHA ADHISÏTÏITA ‘SUDDHE
VAJRÌ BHAVATU MAMA
‘SARARAMÏ SARVA SATVÀNÀMÏCA KÀYA PARIVI’SUDDHE
SARVA GATI PARIVI’SUDDHE
SARVA TATHÀGATA ‘SCA ME SAMÀ ‘SAVASA YAMÏTU
SARVA TATHÀGATA SAMÀ ‘SVASA ADHISÏTÏITE
BUDDHYA BUDDHYA _ VIBUDDHYA VIBUDDHYA
BODHAYA BODHAYA _ VIBODHAYA VIBODHAYA
SAMANTA PARA’SUDDHE
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA
ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITA
MAHÀ MUNÏDRA
SVÀHÀ
19/09/1997
Mật Tạng Bộ 2_ No.974A ( Tr.383_ Tr.384 )
TÔN THẮNG PHẬT ĐỈNH ĐÀ LA NI
Hán dịch : Đời Tống_ Tây Thiên Trung Aán Độ_ Nước Ma Già Đà, chùa Na Lan Đà _ Tam Tạng Sa Môn PHÁP THIÊN phụng chiếu dịch
Việt dịch : HUYỀN THANH
1 ) Nẵng mô bà nga phộc đế
2 ) Tát phộc đát-lạt lộ chỉ-dã
3 ) Bát la để vĩ thủy sắt-tra dã
4 ) Một đà dã
5 ) Đát nễ-dã tha
6 ) Aùn_ Một long, một long, một long
7 ) Thú đà dã, thú đà dã
8 ) Vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã
9 ) A sa ma, sa ma
10 ) Tam mãn đá phộc bà sa
11 ) Sa-phả la na nga để, nga nga nẵng
12 ) sa-phộc bà phộc, vĩ thuật đệ
13 ) Tị tru tả đổ hàm
14 ) Tát phộc đát tha nga đa
15 ) Tô nga đa
16 ) Phộc la, phộc tả nẵng
17 ) Mật-lật đa tị sái kế
18 ) La-mật hạ mẫu nại la, mãn đát-la bát nãi
19 ) Án_ A hạ la, a hạ la
20 ) A dữu tán đà la ni
21 ) Thú đà dã, thú đà dã
22 ) Nga nga nẵng, sa-phộc bà phộc, vĩ truật đệ
23 ) Ô sắt-nị sái vĩ nhạ dã, bả lị truật đệ
24 ) Sa ha sa-la thấp-minh tán tổ nễ đế
25 ) Tát phộc đát tha nga đa
26 ) Phộc lộ kế nãnh
27 ) Tát phộc đát tha nga đá mạt đế
28 ) Sắt tra-bá la nhĩ đá
29 ) Bả lị bố la ni
30 ) Ná xả bộ nhĩ , bát-la để sắt-xỉ đế
31 ) Tát phộc đát tha nga đa hột-lị nãi dã
32 ) Địa sắt-xá đá
33 ) Địa sắt-xỉ đế
34 ) Aùn_ Mẫu nại lê, mẫu nại lê
35 ) Ma hạ mẫu nại lê
36 ) Phộc nhật la ca dã
37 ) Tăng hạ đát nễ , bả lị truật đệ
38 ) Tát phộc yết ma phộc la noa, vĩ truật đệ
39 ) Bát-la để nĩnh phộc đá dạ dục, vĩ truật đệ
40 ) Aùn_ Mẫu nĩnh, mẫu nĩnh, ma hạ mẫu nĩnh
41 ) A mẫu nĩnh, a mẫu nĩnh
42 ) Vĩ mẫu nĩnh, vĩ mẫu nĩnh, ma hạ vĩ mẫu nĩnh
43 ) Mạt để, mạt để, ma hạ mạt để
44 ) Đá tha bộ đá
45 ) Cú trí, bả lị truật đệ
46 ) Vĩ sa-bố tra, vĩ truật đệ
47 ) Aùn_ Hê hê
48 ) Nhạ dã, nhạ dã, ma hạ nhạ dã
49 ) Sa-ma la, sa-ma la
50 ) Sa-phả la, Sa-phả la
51 ) Tát phộc một đà
52 ) Địa sắt-xá nẵng
53 ) Địa sắt-xỉ đế
54 ) Truật đệ, truật đệ
55 ) Phộc nhật lê, phộc nhật lê, ma hạ phộc nhật lê
56 ) A phộc nhật lê, phộc nhật la nghiệt tỳ
57 ) Nhạ dã nghiệt tỳ
58 ) Vĩ nhạ dã nghiệt tỳ
59 ) Phộc nhật-la, nhập-phộc la nghiệt tỳ
60 ) Phộc nhật lộ na-nga đế
61 ) Phộc nhật lộ nạp-bà phệ
62 ) Phộc-nhật la tam bà phệ
63 ) Phộc-nhật lê, phộc-nhật lê noa
64 ) Phộc-nhật lãm bà phộc đổ, ma ma ( Xưng tên, cầu điều cần làm )
65 ) Tát lị lam, tát phộc tát đát-phộc
66 ) Nan tả, ca dã, bả lị truật đệ
67 ) Tát phộc nga để, bả lị truật đệ thất giả
68 ) Tát phộc đát tha nga đá
69 ) Tam ma sa phộc sa
70 ) Địa sắt-xỉ đế
71 ) Tát phộc đát tha nga đá thất-giả hàm
72 ) Tát ma sa-phộc tát diễm đổ
73 ) án_ Tất-địa dã, tất-địa dã
74 ) một đình, một đình
75 ) Vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã
76 ) Vĩ mạo đà dã, vĩ mạo đà dã
77 ) Mộ tả, mộ tả
78 ) Vĩ mộ tả dã, vĩ mộ tả dã
79 ) Thú đà dã, thú đà dã, vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã
80 ) Tam mãn đá đát bả lị mô tả dã
81 ) Tam mãn đá la thấp-minh, bả lị truật đệ
82 ) Tát phộc đát tha nga đa tam ma dã
83 ) Địa sắt-xá nẵng
84 ) Địa sắt-xỉ đế
85 ) Aùn_ Mẫu nại-lê, ma hạ mẫu nại-la
86 ) Mẫu đát-la bát ná
87 ) Địa sắt-xỉ đế
88 ) Sa-phộc hạ
20/09/1997
Mật Tạng Bộ 2_ No.974B ( Tr.384_ Tr.385 )
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
Phạn văn : HOẰNG PHÁP Đại Sư
Hán dịch : Tam Tạng KIM CƯƠNG TRÍ
Việt dịch : HUYỀN THANH
NAMO BHAGAVATE
Nẵng mồ bà nga phộc đế ( Quy mệnh Thế Tôn )
TRAILOKYA
Đát-lạt lộ-chỉ dã ( Ba đời hoặc ba cõi )
PRATIVI’SISÏTÏAYA
Bát-la để vĩ thủy sắt-tra dã ( Tối thù thắng )
BUDDHÀYA
Một đà dã ( Đại Giác )
BHAGAVATE
Bà nga phộc đế ( Thế Tôn )
*) Phần trên là : Đệ Nhất Quy Kính Đức Môn
TADYATHÀ
Đát nễ-dã tha ( Aáy là, hoặc liền nói )
OMÏ
Aùn ( Ba Thân, Vô Kiến Đỉnh Tướng )
* ) Phần trên là Đệ nhị chương biểu ( Biểu thị sáng tỏ ) Pháp Thân Môn
VI’SODHAYA VI’SODHAYA
Vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã ( Thanh tịnh )
SAMA SAMA SAMANTÀVABHASA
Sa ma, sa ma, sa mãn đá phộc bà ( Chiếu diệu khắp cả )
SPHARANÏA
Sa-phả la noa ( Duỗi tràn khắp nơi )
GATI GAHÀNA
Nga để, nga hạ nẵng ( Rừng 6 nẻo đông đúc )
SVÀBHÀVA VI’SUDDHE
Sa-phộc bà phộc, vĩ truật đệ ( Tự nhiên thanh tĩnh )
*) Phần trên là Đệ tam Tĩnh trừ ác thú môn
ABHISÏIMÏCA TUMÀMÏ
A tị tru tả đổ hàm ( Quán đỉnh cho tôi )
SUGATA
Tố nga đá ( Thiện Thệ )
VARA VACANA
Phộc la, phộc tả nẵng ( Lời giảng dạy thù thắng )
AMRÏTA ABHISÏAIKAI MAHÀ MANTRA PADAI
A mật-lị đa tị sái kế, ma ha mạn đát-la bả nãi ( Cam Lộ, cũng nói là Câu Quán Đỉnh Bất Tử )
AHARA AHARA
A hạ la, a hạ la ( Nguyện xin nhiếp thọ, nhiếp thọ, nhiếp thọ. Lại do dùng 3 lần để nhiếp thắng các khổ não )
ÀYUHÏ SANDHARANÏI
A dữu tán đà la ni ( Trụ vững chắc giữ gìn Thọ Mệnh )
* ) Phần trên là : Đệ tứ Thiện Minh Quán Đỉnh môn
‘SODHAYA ‘SODHAYA GAGANA VI’SUDDHE
Thú đà dã, thú đà dã, nga nga nẵng, vĩ truật đệ ( Như Hư Không thanh tĩnh)
USÏNÏÌSÏA
Ô sắt-ni sái ( Phật Đỉnh )
VIJAYA VI’SUDDHE
Vĩ nhạ dã, vĩ truật đệ ( Tôn Thắng thanh tĩnh )
SAMÏCODITE
Tán tổ nễ đế ( Cảnh giác )
SARVA TATHÀGATÀVALOKANI SÏADPÀRAMITÀ PARIPURANÏI _ SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITA
Tát phộc đát tha nga đa phộc lộ già nãnh, sa tra-bá la nhĩ đá , ba lị bố la ni. Tát phộc đát tha nga đa hột-la ná dã địa sắt-xá nẵng, địa sắt-xỉ đá ( Nơi gia trì Thần Lực của tất cả Như Lai )
MAHÀ MUDRI
Ma hạ mẫu nại-lê ( Aán Khế )
VAJRAKÀYA SAMÏHÀTA VI’SUDDHE
Phộc nhật-la ca dã, tăng hạ đá nẵng, vĩ truật đệ ( Kim Cương câu tỏa thân thanh tịnh )
SARVAVARANÏI PAYA DRARGATI PARIVI’SUDDHE
Tát phộc phộc la noa, bá dã, nạp lị-nghiệt để, bả lị vĩ truật đệ ( Tất cả chướng thanh tĩnh. Aáy là : Nghiệp chướng, Báo chương, Phiền Não chướng đều thanh tịnh )
* ) Phần trên là : Đệ ngũ Thần Lực gia trì môn
PRATINI VARTTAYA ÀYUHÏ ‘SUDDHE
Bát-la để nãnh, miệt la-đa dã, a dục truật đệ ( Thọ mệnh tăng trưởng đều được thanh tịnh )
SAMAYA ADHISÏTÏITE
Tam ma dã địa sắt-xỉ đế ( Thệ nguyện gia trì )
MANÏI MANÏI MAHÀ MANÏI
MA ni, ma ni, ma ha ma ni ( Báu của Thế Gian cũng nói là Pháp Bảo, ấy là tư lương của 2 loại Phược Tuệ )
* ) Phần trên là : Đệ lục Thọ mệnh tăng trưởng môn
TATHÀTÀ BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE
Đát đạt đá, bộ đa cú trí, bả lị truật đệ ( Chân Như thật tế tràn đầy thanh tịnh )
VISPHUTÏA BUDDHI ‘SUDDHE
Vĩ sa-phổ tra, một đà, truật đệ ( Hiển hiện Trí Tuệ thanh tịnh )
JAYA JAYA _ VIJAYA VIJAYA
Nhạ dã, nhạ dã. Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã ( Tối thắng, tối thắng. Tức là Chân Tục Nhị Đế Pháp Môn )
SMARA SMARA
Sa-ma la, sa-ma la ( Niệm trì Định Tuệ tương ứng )
* ) Phần trên là : Đệ thất Định Tuệ tương ứng môn
SARVA BUDDHÀ
Tát phộc một đà ( Tất cả chư Phật )
NAMO VIPA’SYANE TATHÀGATÀYA
Nẵng mô Tỳ Bà Thi Ninh đát tha nghiệ đa dã ( Kính lễ Tỳ Bà Thi Như Lai)
NAMO ‘SIKHINE TATHÀGATÀYA
Nẵng mô Thi Khí nẵng đát tha nghiệt đa dã ( Kính lễ Thi Khí Như Lai )
NAMO VI’SABHÙ TATHÀGATÀYA
Nẵng mô Tỳ xá phù-phệ đát tha nghiệt đa dã ( Kính lễ Tỳ Xá Phù Như Lai)
NAMO KRAKANASAMÏDHAYA TATHÀGATÀYA
Nẵng mô Ca-la câu tôn đà dã đát tha nghiệt đa dã ( Kính lễ Câu Lưu Tôn Như Lai )
NAMO KANAKAMANÏIYE TATHÀGATÀYA
Nẵng mô ca nẵng ca mâu ni nẵng duệ đát tha nghiệt đa dã ( Kính lễ Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai )
NAMO KA’SYAPAYA TATHÀGATÀYA
Nẵng mô Ca diệp bà dã đát tha nghiệt đa dã ( Kính lễ Ca Diệp Như Lai )
NAMO ‘SAKYAMUNÏIYE TATHÀGATÀYA
Nẵng mô Thích Ca Mâu Ni nẵng duệ đát tha nghiệt đa dã ( Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai )
NAMO ÀRYA AVALOKITE’SVARAYA BODHISATVA
Nẵng mô a lợi-gia phộc lộ chỉ đế thấp-phộc la dã, mạo địa tát đa-phộc (Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát )
ADHISÏTÏITA ‘SUDDHE
Địa sắt-xỉ đa, truật đệ ( Gia trì thanh tĩnh )
VAJRÌ VAJRAGARBHE
Phộc nhật-lị, phộc nhật-la nghiệt tỳ ( Kim Cương Tạng )
VAJRÀ BHÀVATU
Phộc nhật-la, bà phù đổ ( Nguyện thành Kim Cương )
MAMA
Ma ma ( Tôi, tự xưng tên họ…Nếu vì người khác thì xưng tên họ của người ấy )
* ) Phần trên là : Đệ bát Kim Cương cúng dường môn
‘SARIRAMÏ SARVA SATVANAMÏCA KAYA PARIVI’SUDDHE
Thiết lị lam, tát phộc tát đát-phộc nan tả, ca dã, bả lị vĩ truật đệ ( Tất cả Thân Hữu Tình được thanh tịnh )
SARVA GATI PARI’SUDDHE
Tát phộc nga để, bả lị truật đệ ( Tất cả các nẻo đều thanh tịnh )
SARVA TATHÀGATA’SCA ME SAMA ‘SVASA YAMÏTU _ SADDHA TATHÀGATA SAMÀ ‘SVASA ADHISÏTÏATE
Tát phộc đát tha nghiệt đa thất giả, minh tam ma , thấp phộc sa diễm đổ. Tát phộc đát tha nghiệt đa tam ma thấp-phộc sa, địa sắt-xỉ đế ( Tất cả Như Lai an ủi khiến được gia trì )
BUDDHYA BUDDHYA _ VIBUDDHYA VIBUDDHYA
Một địa-dã, một địa-dã. Vĩ một địa-dã, vĩ một địa-dã ( Sỡ Giác, sở giác )
BODHAYA BODHAYA_ VIBODHAYA VIBODHAYA
Mạo đà dã, mạo đà dã. Vĩ mạo đà dã, vĩ mạo đà dã ( Hay khiến cho Giác Ngộ. Hay khiến cho có sự tinh tốc được Giác Ngộ )
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏATE
Tát phộc đát tha nghiệt đa hột-lị ná dã, địa sắt-xá nẵng, địa sắt-xỉ đa ( Nơi gia trì Thần Lực của tất cả Như Lai )
MAHÀ MUDRI
Ma ha mẫu nại-lị ( Đại Aán, ấy là Như Lai Đại Aán )
* ) Phần trên là : Đệ cửu Phổ chứng thanh tĩnh môn
SVÀHÀ
Sa-phộc hạ ( Cát tường, thành tựu )
SAMAPTA ( Kết thúc, chấm hết )
* ) Phần trên là : Đệ thập thành tựu niết Bàn môn
Thầy dạy rằng : Đà La Ni này có 9 bản là các Bản dịch của Đỗ Hành Khải, Nguyệt Chiếu Tam Tạng, Nghĩa Tịnh Tam Tạng,Phật Đà Ba Lị , Thiện Vô Úy Tam Tạng , Kim Cương Trí Tam Tạng, Bất Không Tam Tạng, Bản chú thích của Pháp Sùng, Phạn Bản sở truyền của Hoằng Pháp Đại Sư.
Nay dùng Bản Phạn của Hoằng Pháp Đại Sư và bản dịch của Tam Tạng Kim Cương Trí thêm chữ cho đầy đủ thành bản Hán Phạn song đối. Hoằng Pháp Đại Sư ở Nhật Bản được ngài Huệ Quả A Xà Lê trao cho bản Phạn bằng lá cây Đa La , trong đó có ghi Phạn Hiệu của 7 vị Phật và Quán Aâm nên khác với bản Phạn khác, mong người đời sau biết cho
Luật Cửu năm thứ hai_ Tân
21/09/1997
Mật Tạng Bộ 2 _ No.974C (Tr.387)
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI GIA TỰ CỤ TÚC BẢN
Hán dịch: Triều Tán Đại Phu kiêm Tự Ngự Sử VŨ TRIỆT thuật
Việt dịch : HUYỀN THANH
Nẵng mô bà nga phộc đế
Đát-lại chỉ dã
Bát-la để vĩ thủy sắt-tra dã
Một đà dã
Bà nga phộc đế
Đát nễ-dã tha: Aùn
Vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã
Sa ma, sa ma
Tam mãn đá , phộc bà sa
Sa-phả la noa, nga để, nga hạ nẵng
Sa-phộc bà phộc, vĩ truật đệ
A tỵ tru tả đổ hàm
Tố nga đá, phộc la, phộc tả nẵng
A mật-lật đá, tỵ sái kế
Ma hạ mạn đát-la , bả nãi
A hạ la, a hạ la
A dữu, tán đà la ni
Thú đà dã, thú đà dã
Nga nga nẵng, vĩ truật đệ
Ô sắt-ni sái, vĩ nhạ dã, vĩ truật đệ
Sa hạ sa-la, la thấp-minh, tán tổ nễ đế
Tát la-phộc đát tha nga đá, phộc lộ ca nãnh
Sa tra-bá la nhĩ đá, bả lị bố la ni
Tát la-phộc đát tha nga đá, hột-lị ná dã
Địa sắt-xá nẵng, địa sắt-xỉ đá
Ma hạ mẫu nại-lị
Phộc nhật-la ca dã, tăng hạ đá nẵng, vĩ truật đệ
Tát la-phộc phộc la noa, bá dã nạp nghiệt để, bả lị truật đệ
Bát-la để nãnh, miệt la-đá dã
A dục, truật đệ
Tam ma dã, địa sắt-xỉ đế
Ma ni, ma ni, ma ha ma ni
Đát đạt đá, bộ đa, cú trí. Bả lị truật đệ
Vĩ sa-phổ tra, một địa , truật đệ
Nhạ dã, nhạ dã
Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã
Sa-ma la, sa-ma la
Tát la-phộc một đà, địa sắt-xỉ đa, truật đệ
Phộc nhật-lị, phộc nhật-la nghiệt tỳ
Phộc nhật lam, bà phộc đổ
Ma ma ( Xưng tên….)
Thiết lị ổn, tát la-phộc tát đát-phộc nan tả, ca dã, bả lị vĩ thú đệ
Tát la-phộc nga để, bả lị truật đệ
Tát la-phộc đát tha nghiệt đa thất-giả, minh tam ma, thấp-phộc sa diễm đổ
Tát la-phộc đát tha nghiệt đa tam ma, thấp-phộc sa, địa sắt-xỉ đế
Một địa-dã, một địa-dã
Vĩ một địa-dã, vĩ một địa-dã
Mạo đà dã, mạo đà dã
Vĩ mạo đà dã, vĩ mạo đà dã
Tam mãn đá, bả lị truật đệ
Tát la-phộc đát tha nghiệt đá, hột-lị ná dã
Địa sắt-xá nẵng, địa sắt-xỉ đa
Ma hạ mẫu nại-lị
Sa-phộc ha
_ Hết_
22/09/1997
Mật Tạng Bộ 2 _ No.974D ( Tr.388 )
GHI CHÚ NGHĨA CỦA PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
Hán dịch : Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí
BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch : HUYỀN THANH
Nẵng mô bà nga phộc đế ( Quy mệnh Thế Tôn )
Đát-lạt lộ chỉ-dã ( 3 đời, 3 cõi )
Bát-la để vĩ thủy sắt-tra dã ( Tối thù thắng )
Một đà dã ( Đấng Đại Giác )
Bà nga phộc đế ( Thế Tôn )
Đát nễ-dã tha ( Aáy là, liền nói Chú )
Aùn ( Tất cả Pháp vốn chẳng sinh, cũng nói là 3 Tạng, Như Lai Vô Kiến Đỉnh Tướng )
Vĩ thú đà dã ( Tĩnh trừ ), vĩ thú đà dã
Sa ma, sa ma, tam mãn đa phộc bà sa ( Chiếu diệu khắp mọi nơi )
Sa-phả la noa ( Giang duỗi vòng khắp )
Nghiệt để, nga ha nẵng ( Rừng đông đúc của 6 nẻo )
Sa-phộc bà phộc, vĩ thuấn đệ ( Tự Tính thanh tĩnh )
A tỳ tru giả đổ hàm ( Quán Đỉnh cho tôi )
Tố nghiệt đa ( Thiện Thệ )
Phộc la, phộc giả nẵng ( Lời dạy bảo Thù Thắng )
A mật-lị đa tỳ sái kế ( Cam Lộ Quán Đỉnh, cũng nói là Bất Tử Cú Quán Đỉnh. Cam Lộ là Pháp Thân Giải Thoát )
A ha la, a ha la ( Nguyện xin nhiếp thọ. Nguyện rũ lòng thương nhiếp thọ. Cũng nói là Hoại khắp cả , thoát các khổ não )
A dục, tán đà la ni ( Nhận giữ gìn Thọ mệnh )
Thú đà dã, thú đà dã ( Thanh tĩnh )
Nga nga nẵng, vĩ thú đệ ( Như hư không thanh tĩnh )
Ô sắt-nị sa vĩ nhạ dã, vĩ thuấn đệ ( Phật Đỉnh Tôn Thắng thanh tĩnh )
Sa ha sa-la la thấp-nhĩ ( 1000 ánh sáng )
Tán tổ nễ đế ( Cảnh Giác )
Tát phộc đát tha nghiệt đa, địa sắt-tra nẵng, địa sắt-xỉ đa ( Nơi gia trì Thần Lực của tất cả Như Lai )
Ma ha mẫu nại-lị ( Aán Khế. Nếu giải rộng là Thân Aán, Ngữ Aán, Tâm Aán, Kim Cương Aán như Lý Thú Bát Nhã có ghi )
Phộc nhật-la ca dã , tăng ha đa nẵng, vĩ thuấn đệ ( Thanh tịnh câu tỏa Thân Kim Cương )
Tát phộc phộc la noa, bá dã nạp nghiệt để, bả lị vĩ thuấn đệ ( Tất cả chướng thanh tịnh. Tất cả chướng là Nghiệp chướng, Báo chướng, Phiền Não chướng đều thanh tịnh )
Bát-la để nễ mạt đa dã, a dục thuấn đệ ( Thọ mệnh tăng trưởng đều được thanh tịnh )
Tam ma gia địa sắt-xỉ đế ( Thệ nguyện gia trì )
Ma ni, ma ni, ma ha ma ni ( Báu của Thế Gian , cũng nói là Pháp Bảo tức là Phước Đức Trí Tuệ )
Đát tha đa , bộ đa cú trí, bả lị thuấn đệ ( Chân Như Thật tế tràn đầy thanh tịnh )
Vĩ tát-phổ tra , một địa, thuấn đệ ( Hiển hiện Trí thanh tịnh )
Nhạ dã, nhạ dã ( Tối thắng, tối thắng là 2 Đế Chân Tục )
Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã ( Thù thắng, thù thắng là 2 Môn Bi Trí )
Sa-ma la, sa-ma la ( Niệm trì Định Tuệ tương ứng )
Tát phộc một đà địa sắt-xỉ đa, thuấn đệ ( Tất cả Phật gia trì thanh tịnh )
Phộc nhật-lệ ( Tâm Bồ Đề kiên cố như Kim Cương )
Phộc nhật-la nghiệt bệ ( Chứng Kim Cương Tạng )
Phộc nhật-lam bà phộc đổ ( Nguyện thành Kim Cương )
Ma ma ( Tôi, họ tên… Nếu vì người khác niệm tụng thì xưng tên của người đó )
Thiết lị ổn, tát phộc tát đát-phộc nan tả, ca dã, vĩ thuấn đệ ( Tất cả thân Hữu Tình đều thanh tịnh )
Tát phộc nghiệt để, bả lị thuấn đệ ( Tất cả các nẻo đều thanh tịnh )
Tát phộc đát tha nghiệt đa, tam ma thấp-phộc sa, địa sắt-xỉ đế ( Tất cả Như Lai an ủi khiến được gia trì )
Một-dạ, một-dạ, mạo đà dã ( Khiến ngộ Năng Giác, khiến ngộ Năng Giác)
Thuấn đệ ( Thanh tịnh khắp cả )
Tát phộc đát tha nghiệt đa, địa sắt-tra nẵng, địa sắt-xỉ đa ( Nơi gia trì Thần Lực của tất cả Như Lai )
Ma ha mẫu đát la ( Núi Đại Ấn, nhập vào Tỳ Lô Giá Na Man Trà La thọ Quán Đỉnh, sau đó Quán Đỉnh Sư nhận được Bản Tôn Du Già Tam Ma Địa, quán Trí nhất niệm tĩnh tâm. Du Già tương ứng Hành Giả, Biệt Tôn Tâm đẳng đồng với Tỳ Lô Giá Na và các Bồ Tát. Hay hiện nhập tướng thành tựu, mau chứng Trí Tát Bà Nhã )
Sa-phộc ha ( Niết Bàn. Có 4 loại Niết Bàn là : Tự Tính Thanh Tịnh Niết Bàn, Hữu Dư Y Niết Bàn, Vô Dư Y Niết Bàn, Vô Trụ Xứ Niết Bàn )
Như trên đã chú thích, dùng Đường ( Chữ Hán, Phạm ( Chữ Phạn ) song đối mà hiển rõ yếu lĩnh của câu cú
Bảo Vĩnh, năm thứ hai, mùa Đông tháng 12, ngày 03. Dùng Như Lai Tạng Bản ghi chép xong.
Cốc Đâu Suất, Viện Kê Đầu. Xà Lê NGHIÊM GIÁC
Vĩnh Bảo , năm thứ ba, Mậu Tuất, tháng 9 khiến được nhẫn tả, giảo chính xong. TỪ NGUYÊN
Văn Chính, năm thứ sáu, Quý Mùi, tháng 6. Dùng Bản của Viện Chân Ngôn trên núi Đông Dung, nhờ người khác ghi chép rồi tự xem xét xong.
LONG CAN
23/09/1997
Mật Tạng Đồ Tượng 10 ( Tr.666 )
TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
Phạn Văn : BẢO TƯ DUY
Hán Văn chú giải : PHÁP SÙNG
Việt dịch : HUYỀN THANH
NAMO BHAGAVATE ( Quy mệnh Thế Tôn )
TRAILOKYA ( Ba đời, cũng gọi là 3 cõi )
PRATIVI’SISÏTÏAYA ( Tối thù thắng )
BUDDHÀYA ( Đại Giác )
BHAGAVATE ( Thế Tôn )
* ) Phần trên là Đệ nhất Quy Kính Tôn Đức Môn
TADYATHÀ ( Aáy là, liền nói )
OMÏ ( Ba thân, cũng có nghĩa là Tướng )
* ) Phần trên là Đệ nhị chương biểu ( Biểu thị rõ ràng ) Pháp Thân Pháp Môn
VI’SODHAYA VI’SODHAYA ( Thanh tĩnh )
ASAMA SAMA SAMANTA VABHASA ( Chiếu diệu rộng khắp )
SPHARANÏA ( Giang duỗi khắp cả )
GATI GAHANA ( Rừng 6 nẻo đông đúc )
SVABHÀVA VI’SUDDHE ( Tự nhiên thanh tĩnh )
* ) Phần trên là Đệ tam Tĩnh Trừ Aùc Thú Môn
ABHISÏIMÏCA TUMÀMÏ ( Quán đỉnh cho tôi )
SUGATA ( Thiện Thệ )
VARA VACANA ( Ngôn Giáo thù thắng )
AMRÏTA ABHISÏAIKAI MAHÀ MANTRÀ PADAI ( Cam Lộ, lại nói là câu Quán Đỉnh Bất Tử )
ÀHARA ÀHARA ( Chỉ có tôi nhiếp thọ, chỉ có tôi nhiếp thọ. Lại nói là Xả thoát các khổ não )
ÀYUHÏ SANDHÀRANÏA ( Kiên trụ giữ gìn thọ mệnh )
Phần trên là Đệ tứ Thiện Minh Quán Đỉnh Môn
‘SODHAYA ‘SODHAYA GAGANA VI’SUDDHE ( Như hư không thanh tĩnh )
USÏNÏÌSÏA VIJAYA VI’SUDDHE ( Tối Thắng thanh tĩnh )
SAHASRA RA‘SMI ( 1000 ánh sáng )
SAMÏCODITE ( Cảnh giác )
SARVA TATHÀGATÀVALOKANI SÏATPÀRAMITA PARIPÙRANÏI _ SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE ( Nơi gia trì Thần Lực của tất cả Như Lai )
MAHÀ MUDRE ( Ấn Khế )
VAJRAKÀYA SAMÏHATANA VA‘SUDDHE ( Sự thanh tĩnh của Thân Kim Cương câu tỏa )
SARVA VARANÏI PAYA DURGATI PARIVI’SUDDHE ( Tất cả chướng thanh tĩnh. Đó là : Nghiệp chướng, Báo chướng, Phiền Não chướng được thanh tĩnh)
* ) Phần trên là Đệ ngũ Thần Lực Gia Trì Môn
PRATINI VARTAYA AYUHÏ ‘SUDDHE ( Thọ mệnh tăng trưởng đều được thanh tĩnh )
SAMÀYA ADHISÏTÏITE ( Thệ nguyện gia trì )
MANÏI MANÏI MAHÀ MANÏI ( Thế Tôn. Cũng gọi là Pháp Bảo, ấy là tư lương của 2 loại Phước Tuệ )
* ) Phần trên là Đệ lục Thọ mệnh tăng trưởng Môn
TATHÀTÀ BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE ( Sự thanh tĩnh tràn khắp Chân Như thật tế )
VISPHUTÏA BUDHI ‘SUDDHE ( Hiển hiện Trí Tuệ thanh tĩnh )
JAYA JAYA_ VIJAYA VIJAYA ( Tối thắng, tối thắng. Tức là Chân Tục Nhị Đế Pháp Môn )
SMARA SMARA ( Niệm trì Định Tuệ tương ứng )
* ) Phần trên là Đệ thất Định Tuệ Tương Ứng Môn
SARVA BUDDHÀ ( Tất cả chư Phật )
NAMO ARYA AVALOKITE’SVARÀYA ( Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát )
NAMAHÏ ‘SAKYAMUNAYE TATHÀGATÀYA ( Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai )
NAMAHÏ KÀ’SYAPÀYA TATHÀGATÀYA ( Kính lễ Ca Diếp Như Lai )
NAMAHÏ KÀNAKAMUNAYE TATHÀGATÀYA ( Kính lễ Câu Na Hàm Như Lai )
NAMAHÏ VI’SVABHU TATHÀGATÀYA ( Kính lễ Tỳ Xá Phù Như Lai )
NAMAHÏ ‘SIKHINA TATHÀGATÀYA ( Kính lễ Thi Khí Như Lai )
NAMAHÏ VIVA’SINE TATHÀGATÀYA ( Kính lễ Tỳ Bà Thi Như Lai )
ADHISÏTÏITA ‘SUDDHE ( Gia trì thanh tĩnh )
VAJRI VAJRAGARBHA ( Kim Cương Tạng )
VAJRAMBHAVATU ( Thành nguyện Kim Cương )
MAMA ( Tôi, tự xưng tên họ. Nếu vì người khác liền xưng tên họ của người đó )
* ) Phần trên là Đệ bát kim Cương Cúng Dường Môn
CARIRAMÏ SARVA SATVANÀMÏCA KAYA ( Tất cả thân Hữu Tình được thanh tĩnh )
SARVA GATI PARI’SUDDHE ( Tất cả các nẻo đều được thanh tĩnh )
SARVA TATHÀGATÀ ‘SCA ME SAMA ‘SVASA YAMÏTU _ SARVA TATHÀGATÀ SAMA ‘SVASA ADHISÏTÏATE ( Tất cả Như Lai an ủi khiến được thanh tĩnh )
BODHAYA BODHAYA VIBODHAYA ( Hay khiến cho giác ngộ, hay khiến cho Hữu Tình mau được giác ngộ )
SAMANTA PARI’SUDDHE ( Thanh tĩnh khắp cả )
SARVA TATHÀGATÀ HRÌDAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE ( Nơi gia trì Thần Lực của tất cả Như Lai )
MAHÀ MUDRE ( Đại Ấn. Đây là Đại Ấn của Như Lai )
* ) Phần trên là Đệ cửu Phổ Chứng Thanh Tĩnh Môn
SVÀHÀ ( Câu tốt lành, nghĩa là thành tựu )
* ) Phần trên là Đệ thập Thành Tựu Niết Bàn Môn
Nội Chứng ghi là : Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh ( Cũng gọi là Trừ Chướng Phật Đỉnh. Phạn Hiệu của 7 vị Phật và Quán Aâm trong Gia Tự Cụ Túc Bản là dị bản vậy )
Đại Đường, niên hiệu Đại Lịch, năm thứ 11. tháng 02, ngày 28
Thượng Đô, chùa Thiên Phúc_ Sa Môn PHÁP SÙNG chú giải bản của Ngài BẢO TƯ DUY
19/08/1995
Đồ Tượng 3 (tr.119)
TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
Dịch âm Phạn: HUYỀN THANH
NAMO BHAGAVATE TRAILOKYA PRATIVI’SISÏTÏAYA BUDDHÀYA BHAGAVATE
TADYATHÀ : OMÏ
VI’SODHAYA VI’SODHAYA
SAMA SAMA
SAMANTA BHAVASA
SPHARADÏA GATI
GAHANA SVÀBHAVA VI’SUDDHE
ABHISÏINÏCA TOMAMÏ
SUGATA VARA VACANÀ
AMRÏTA BHISÏAIKAI
MAHÀ VANTRA PADA
AHARA AHARA
AYU SANDHÀRANÏI
‘SUDHAYA ‘SUDHAYA
GAGANA VI’SUDDHE
USÏNÏÌSÏA VIJAYA VI’SUDDHE
SAHASRA RA’SMI
SAMÏSUDITE SARVA TATHÀGATA
AVARUGHANE SÏATÏA PARAMITÀ PARIPULANÏI
SARVA TATHÀGATÀ HRINÏAYA DHISÏTÏANA DHISÏTÏITA
MAHÀ MUDRE
VAJRA KAYA SAMÏHÀTANA VI’SUDDHE
SARVA VARANÏA BHAYA DURGATI PARIVI’SUDDHE
PRATINI VARTTAYA AYUHÏ ‘SUDDHE
SAMAYA DHISÏTÏITE
MANÏI MANÏI MAHÀMANÏI
TATHÀTÀ BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE
VISPHATÏA BUDDHI ‘SUDDHE
JAYA JAYA
VIJAYA VIJAYA
SMARA SMARA
SARVA BUDDHÀDHISÏTÏITA ‘SUDDHÀ
VAJRI VAJRAGARBHE
VAJRAMBHAVATU
MAMA
CARIRAMÏ SARVA SADVÀNÀMÏCA KÀYA PARI’SUDDHE
SARVA GATI PARI’SUDDHE
SARVA TATHÀGATÀ’SVA VE SAMA ‘SVÀSA YAMÏTO
SARVA TATHÀGATA SAMA ‘SVÀSA DHISÏTÏIDDHE
BUDDHYA BUDDHYA
VIBUDDHYA VIBUDDHYA
BODHAYA BODHAYA
VIBODHAYA VIBODHAYA
SAMANTA PARI’SUDDHE
SARVA TATHÀGATÀ HRIDAYA DHISÏTÏANA DHISÏTÏITA
MAHÀ BUDRE
SVÀHÀ
_ Hết_
15/05/2005
Đồ Tượng 3 ( Tr.119)
TÔN THẮNG ĐÀ LA NI GIA CÚ BẢN
Dịch âm Phạn: HUYỀN THANH
NAMO BHAGAVATE TRAILOKYA PRATIVI’SISÏTÏAYA BUDDHÀYA BHAGAVATE
TADYATHÀ : OMÏ
VI’SODHAYA VI’SODHAYA
SÀMA SÀMA
SAMANTA BHAVASA
SPHARANÏA GATI
GAHANA SVABHÀVA VI’SUDDHE
ABHISÏINÏCA TUMAMÏ
SUGATA VARA VACANÀ
AMRÏTÀBHISÏAIKE
MAHÀ MANTRA PADAI
ÀHARA ÀHARA
ÀYUHÏ SANDHÀRANÏI
‘SODHAYA ‘SODHAYA
GAGANA VI’SUDDHE
USÏNÏÌSÏA VIJAYA VI’SUDDHE
SAHASRA RA’SMI
SAMÏCODITE SARVA TATHÀGATA
AVALOKINI SÏATÏPARAMITA PARIPURANÏI
SARVA TATHÀGATÀ HRÏDAYA DHISÏTÏANÀDHISÏTÏITE
MAHÀ MUDRE
VAJRA KAYA SAMÏHATANA VI’SUDDHE
SARVA VARANÏA PAYA DURGATI PARIVI’SUDDHE
PRATINI VARTTAYA AYUHÏ ‘SUDDHE
SAMAYA DHISÏTÏITE
MANÏI MANÏI MAHÀMANÏI
TATHÀTÀ BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE
VISPHUTÏA BUDDHI ‘SUDDHE
JAYA JAYA
VIJAYA VIJAYA
SMARA SMARA
SARVA BUDDHÀDHISÏTÏITA ‘SUDDHE
VAJRO VAJRAGARBHE
VAJRAMÏ BHAVATU
MAMA
CIRIRAMÏ SARVA SATVÀNÀMÏCA KÀYA PARI’SUDDHE
SARVA GATI PARI’SUDDHE
SARVA TATHÀGATÀ’SCA ME SAMA ‘SVASA YAMÏTU
SARVA TATHÀGATA SAMA ‘SVASA DHISÏTÏITE
BUDDHYA BUDDHYA
BODHAYA BODHAYA
VIBODHAYA VIBODHAYA
SAMANTA PARI’SUDDHE
SARVA TATHÀGATÀ HRÏDAYA DHISÏTÏANA DHISÏTÏITA
MAHÀ MUDRE
SVÀHÀ
_ Hết_
15/05/2005
Đà La Ni Tập ( Tr.728_ Tr.729)
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
1_ NAMO
2_ BHAGAVATE
3_ TRAILOKYA
4_ PRATIVI’SISÏTÏÀYA
5_ BUDDHÀYA
6_ BHAGAVATE
7_ TADYATHÀ
8_ OMÏ
9_ VI’SODHAYA VI’SODHAYA
10_ SAMÀSAMA SAMANTÀVABHÀSA
11_ SPHARANÏA
12_ GATI- GAHANA
13_ SVÀBHÀVA- VI’SUDDHE
14_ ABHISÏINÕCATU MÀMÏ
15_ SUGATA
16_ VARA- VACANA
17_ AMRÏTÀBHISÏEKAIR
18_ MAHÀ -MANTRA PADAIR
19_ ÀHARA ÀHARA
20_ ÀYHÏ- SAMÏDHÀRANÏI
21_ ‘SODHAYA ‘SODHAYA
22_ GAGANA - VI’SUDDHE
23_ USÏNÏÌSÏA
24_ VIJAYA - VI’SUDDHE
25_ SAHASRA – RA’SMI
26_ SAMÏCODITE
27_ SARVA TATHÀGATA
28_ AVALOKANI
29_ SÏATÏ- PÀRAMITÀ
30_ PARIPÙRANÏI
31_ SARVA TATHÀGATA
32_ HRÏDAYA
33_ ADHISÏTÏHANA ADHISÏTÏITE
34_ MAHÀ - MUDRE
35_ VAJRA - KÀYA
36_ SAMÏHÀTANA - VI’SUDDHE
37_ SARVA AVÀRANÏA - BHAYA - DURGATI - PARIVI’SUDDHE
38_ PRATINIVARTAYA ÀYUHÏ- ‘SUDDHE
39_ SAMAYA ADHISÏTÏHITE
40_ MANÏI MANÏI
41_ MAHÀ MANÏI
42_ TATHÀTÀ – BHÙTA – KOTÏI – PARI’SUDDHE
43_ VISPHUTÏA- BUDDHI- ‘SUDDHE
44_ JAYA JAYA
45_ VIJAYA VIJAYA
46_ SMARA SMARA
47_ SARVA BUDDHA ADHISÏTÏHITA- ‘SUDDHE
48_ VAJRI
49_ VAJRA- GARBHE
50_ VAJRAMÏ BHAVATU
51_ MAMA ‘SARÌRAMÏ
52_ SARVA SATTVÀNÀMÏ’SCA KÀYA- PARI’SUDDHE
53_ SARVA GATI PARI’SUDDHE
54_ SARVA TATHÀGATÀ’SCA ME
55_ SAMÀ’SVÀSAYANTU
56_ SARVA TATHÀGATA
57_ SAMÀ’SVÀSA ADHISÏTHÏITE
58_ BUDHYA BUDHYA VIBUDHYA VIBUDHYA
59_ BODHAYA BODHAYA VIBODHAYA VIBODHAYA
60_ SAMANTA
61_ PARI’SUDDHE
62_ SARVA TATHÀGATA
63_ HRÏDAYA ADHISÏTÏHANA ADHISÏTÏHITE
64_ MAHÀ- MUDRE
65_ SVÀHÀ
_ Hết_
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
( Dựa theo Bản đầy đủ của Tam Tạng THIỆN VÔ ÚY )
Phục hồi và chú thích Phạn Văn : HUYỀN THANH
NAMO BHAGAVATE
Namo : Quy mệnh, Quy Y, kính lễ
Bhagavate : Đức Thế Tôn
TRAILOKYA
Trailokya : Ba cõi, ba đời
PRATIVI’SISÏTÏÀYA
Prativi’sisïtïa : Tốt hơn, đặc biệt, kỳ dị, rất thù thắng
Aya : Nhóm, đẳng, hàng
BUDDHÀYA
Buddha : Bậc giác ngộ
BHAGAVATE
Phần trên có nghĩa là : Quy mệnh Đức Thế Tôn là Đấng Thế Tôn Giác Tuệ cao cả của ba cõi
TADYATHÀ
Tadyathà : Như vậy, liền nói Thần Chú là
OMÏ
Omï: Ba Thân, Quy Mệnh, Cúng dường, Cảnh giác, nhiếp phục
VI’SODHAYA VI’SODHAYA
Vi’sodhaya : Các nhóm thanh tịnh
ASAMA SAMA
Sama : Đẳng, hàng
Asamasama : Vô đẳng đẳng , không có hàng nào có thể ngang bằng
Phần trên có nghĩa là : Như vậy : OM ! thanh tịnh, thanh tịnh không có gì sánh bằng
SAMANTA AVABHÀSA
Samanta : Khắp tất cả, phổ biến
Ava :Phía bên dưới
Bhàsa : Aùnh sáng, sáng rực, sự vinh quang, sáng sủa rực rỡ
SPHARANÏA
Spharanïa : Chu biến, vòng khắp cả, tràn đầy vòng khắp
GATI GAHÀNA
Gati : Lối đi, hướng đi, lối nẻo
Gahàna : Rừng đông đúc
SVABHÀVA VI‘SUDDHE
Svabhàva : Tự tính , tính tự nhiên vốn có
Vi’suddhe : Khiến cho thanh tịnh, làm cho thanh tịnh
Phần trên có nghĩa là : Tỏa sáng rực rỡ khắp nơi khiến cho muôn loài trong sáu nẻo luân hồi đều được thanh tịnh
ABHISÏIMÏCA TUMÀMÏ
Abhisïimïca : Quán đỉnh, rưới rót lên đỉnh đầu
Tumàmï : cho tôi
SUGATA
Sugata : Đấng Thiện Thệ, bậc khéo đến nẻo lành. Đây là một trong 10 Hiệu của Bậc Chính Đẳng Chính Giác
VARA VACANA
Vara : Ban cho thuận theo khuôn khổ , y theo giới hạn, Vùng kiểm soát, khoảng không gian, vòng rào bao bọc, căn phòng
Vacana : Lời nói, người diễn nói, hùng biện, phát biểu bày tỏ, nói có ý nghĩa, ngôn từ
AMRÏTA ABHISÏEKAI
Amrïta : Bất tử, không bao giờ bị chết. Thường dịch là Cam Lộ
Abhisïekai còn viết là Abhisïaikai:Quán đỉnh, rưới rót lên đỉnh đầu
MAHÀ MANTRA PADA
Mahà : Đại, to lớn
Mantra : Thần Chú
Pada hay padai : Câu cú
Phần trên có nghĩa là : Hỡi Đấng Thiện Thệ ! Hãy ban cho tôi lời nói là câu Đại Thần Chú Quán Đỉnh Bất Tử
ÀHARA ÀHARA
Àhara :Nhiếp thọ
ÀYUHÏ SANDHÀRANÏÌ
Aøyuhï : Thọ mệnh
Dhàranïì : Tổng trì, gìn giữ tổng quát
Sandhàranïì : Giữ gìn bền chắc
Phần trên có nghĩa là : Hãy nhiếp thọ ! Nhiếp thọ cho tôi giữ gìn vững chắc thọ mệnh
‘SODHAYA ‘SODHAYA _ GAGANA VI’SUDDHE
Gagana : Hư Không
Phần trên có nghĩa là : Thanh tịnh, thanh tịnh. Khiến cho thanh tịnh như hư không
USÏNÏÌSÏA VIJAYA VI’SUDDHE
Usïnïìsïa : Đỉnh kế, khối thịt u lên trên đỉnh đầu. Đây chỉ cho Phật Đỉnh
Vijaya : Tôn Thắng , Tối Thắng
SAHASRA RA’SMI
Sahasra : một ngàn ( 1000 )
Ra’smi : Dây băng, chuỗi, dây cương, tín hiệu, tia sáng, chiếu rọi rạng rỡ
SAMÏSUDÌTI SARVA TATHÀGATA
Sudìti : Sáng sủa, rạng rỡ, lanh lợi, chói lọi, ngọn lửa, sáng chói, chiếu sáng
Samïsudìti : Tỏa ánh sáng nhắc nhở, cảnh giác
Sarva : tất cả
Tathàgata : Đức Như Lai, bậc đã đạt được Chân Như
Phần trên có nghĩa là : Phật Đỉnh Tôn Thắng khiến cho thanh tịnh, tỏa ngàn ánh sáng cảnh giác tất cả Như Lai
AVALOKANA SADPÀRAMITÀ PARIPÙRANÏI
Avalokana : Nhìn, quan sát, xem xét, nhận xét, chú ý
Pàramità : Bờ bên kia, thường dịch là Ba La Mật ( Độ ) là Pháp tu của hàng Bồ Tát
Sadpàramità : Ba La Mật màu nhiệm
Paripùranïi : Đều đầy đủ
Phần trên có nghĩa là : Quán chiếu Diệu Ba La Mật đều được đầy đủ
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA
Hrïdaya : Trái tim
ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE MAHÀ MUDRÌ
Adhisïtïana : Thần Lực
Adhisïtïite : Gia trì
Mudra : Ấn
Mahà mudrì : Có tính như Đại Ấn
Phần trên có nghĩa là : Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm
VAJRA KÀYA
Vajra : Kim Cương
Kàya : Thân thể
SAMÏHATANA VI’SUDDHE
Samïhatana : Hòa hợp với nhau, kết hợp với nhau, mến chuộng nhau, kề cận nhau
Phần trên có nghĩa là :Hòa hợp với Thân Kim Cương khiến cho thanh tịnh
SARVA AVARANÏA PAYA DURGATI PARI’SUDDHE
Avaranïa : Sự chướng ngại
Paya : Lối đi, đường đi
Durgati : Lối nẻo xấu ác
Sarva avaranïa paya durgati : Tất cả lối đi đầy chướng ngại , tất cả lối nẻo xấu ác. Trong Phật Giáo thường gọi lối đi đầy chướng ngại xấu ác này là Nghiệp chướng, Báo chướng, phiền Não chướng
Phần trên có nghĩa là : Khiến cho Nghiệp chướng, Báo Chướng, Phiền Não Chướng đều được thanh tịnh
PRATINI VARTTÀYA ÀYUHÏ ‘SUDDHE
Pratini :Tăng trưởng
Varttàya : Xoay chuyển, vận chuyện
Phần trên có nghĩa là : Thọ mệnh tăng trưởng được thanh tịnh
SAMAYA ADHISÏTÏITE
Samaya : Bình đẳng, Bản thệ ( Lời thề của mình )
MANÏI MANÏI MAHÀ MANÏI
Manïi : Viên ngọc Như Ý
Manïi manïi mahà manïi : chỉ 3 loại ngọc báu Như Ý là Báu của Thế Gian, Báu của Hiền Thánh , báu của chư Phật và thường gọi chung là Pháp Bảo
Phần trên có nghĩa là : Thệ nguyện gia trì Pháp Bảo
TATHÀTÀ BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE
Tathàtà : Chân Như Tính
Bhùta kotïi : Chân thật tế cực, tức chỉ đoạn lìa hư vọng là Niết Bàn chân chứng. Hay thường gọi là thật tế
Phần trên có nghĩa là : Tính Chân Như Thật Tế đều thanh tịnh
VISPHUTÏA BUDDHI ‘SUDDHE
Visphutïa : Hiển hiện
Buddhi : Tuệ Giác
Phần trên có nghĩa là : Hiển hiện Tuệ Giác Thanh Tịnh
JAYA JAYA
Jaya : Thù thắng, thắng
Jaya jaya : biểu thị cho Chân Đế và Tục Đế
VIJAYA VIJAYA
Vijaya : Tôn Thắng, tối thắng
Vijaya vijaya : biểu thị cho Bi Môn và Trí Môn
SMARA SMARA
Smara : Ghi nhớ, niệm trì
Smara smara : biểu thị cho Định Tuệ tương ứng
SARVA BUDDHA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE
Buddha :Phật Đà, bậc giác ngộ
VAJRÌ VAJRAGARBHE VAJRAMÏ BHAVATU MAMA ‘SARIRAMÏ
Vajrì : Có Tính như Kim Cương
Vajragarbhe : Kim Cương Tạng
Vajramï Bhavatu : Được thành Kim Cương
Mama : Tôi ( Xưng tên họ… )
‘Sariramï : Toàn thân
Phần trên có nghĩa là : Thù thắng , thù thắng. Tôn thắng, tối thắng . Niệm trì, niệm trì. Tất cả chư Phật dùng Thần lực gia trì khiến cho thân của tôi có được tính như Kim Cương, chứng Kim Cương Tạng và được thành Kim Cương
SARVA SATVÀNÀMÏCA KÀYA PARI’SUDDHE
Satva : Hữu Tình
Kàya : Thân xác
SARVA GATI PARI’SUDDHE
Phần trên có nghĩa là : Tất cả thân của chúng Hữu Tình đều được thanh tịnh. Tất cả các nẻo đều được thanh tịnh
SARVA TATHÀGATA’SCA ME SAMA ‘SVASA YAMÏTU
Tathàgata’sca : Như Lai Đẳng
Me sama : Ngã Đẳng, nhóm chúng tôi
‘Svasa : An ủi
Yamïtu : Đi đến
Phần trên có nghĩa là : Tất cả Như Lai đi đến an ủi chúng tôi
SARVA TATHÀGATA SAMA ‘SVASA ADHISÏTÏITE BUDDHYA BUDDHYA VIBUDDHYA VIBUDDHYA
Buddhya : Giác ngộ, tỉnh ngộ
Vibuddhya : Khiến cho giác ngộ, khiến cho tỉnh ngộ
Phần trên có nghĩa là : Tất cả Như Lai an ủi gia trì khiến cho tôi và tất cả được tỉnh ngộ, được giác ngộ
BODHAYA BODHAYA
Bodhaya : Tuệ Giác, Trí Giác
VIBODHAYA VIBODHAYA
Vibodhaya : Khiến cho có Tuệ Giác, khiến cho có Trí Giác
SAMANTA PARI’SUDDHE
Khắp cả đều được thanh tịnh
Phần trên có nghĩa là : Tuệ Giác ,Trí Giác. Khiến cho tất cả đều có Tuệ Giác, khiến cho tất cả đều có Trí Giác. Khắp nơi đều được thanh tịnh
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE MAHÀ MUDRÌ SVÀHÀ
Svàhà : Quyết định thành tựu, thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết bàn
Phần trên có nghĩa là : Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm khiến cho tôi thành tựu được tự tính an lạc của Đại Niết Bàn
* ) Phiên dịch toàn bài Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni là :
Nam mô Đấng Thế Tôn !
Đấng Thế Tôn Đại Giác cao cả của Tam Giới
Như vậy : OM !
Thanh tịnh, thanh tịnh không có gì sánh bằng
Tỏa sáng rực rỡ khắp nơi khiến cho muôn loài trong sáu nẻo luân hồi đều được thanh tịnh.
Hãy quán đỉnh cho con !
Hỡi Đấng Thiện Thệ tối cao !
Hãy ban cho con lời thù thắng là câu Đại Thần Chú Quán Đỉnh Bất Tử
Hãy nhiếp thọ ! Nhiếp thọ cho con giữ gìn vững chắc thọ mệnh
Thanh tịnh, thanh tịnh. Khiến cho thanh tịnh như hư không
Phật Đỉnh Tôn Thắng khiến cho thanh tịnh, tỏa ngàn ánh sáng cảnh giác tất cả Như Lai
Quán chiếu Ba La Mật màu nhiệm đều được đầy đủ
Thần Lực Gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm hòa hợp với thân Kim Cương khiến cho thanh tịnh.
Khiến cho tất cả Nghiệp Chướng, Báo Chướng, Phiền Não Chướng đều được thanh tịnh.
Thọ mệnh tăng trưởng đều được thanh tịnh
Thệ nguyện gia trì Pháp Bảo
Tính Chân Như Thật tế tràn đầy muôn ngàn thanh tịnh
Hiển hiện Tuệ Giác thanh tịnh
Thù thắng , thù thắng
Tôn Thắng, Tối Thắng
Niệm trì, niệm trì
Tất cả chư Phật dùng Thần lực gia trì khiến cho thân của con ( Họ tên… ) có tính như Kim Cương, chứng Kim Cương Tạng và được thành Kim Cương.
Tất cả thân Hữu Tình đều được thanh tịnh
Tất cả các nẻo đều được thanh tịnh
Tất cả Như Lai đi đến an ủi chúng con
Tất cả Như Lai an ủi gia trì khiến cho con được giác ngộ, được tỉnh ngộ. Khiến cho tất cả được giác ngộ, được tỉnh ngộ.
Khiến cho con được Tuệ Giác, được Trí Giác
Khiến cho tất cả đều được Tuệ Giác, được Trí Giác
Khắp nơi đều được thanh tịnh
Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm khiến cho con thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.
10/05/2003
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
( Dựa theo Bản của Đại Sư HOẰNG PHÁP )
Phục hồi và chú thích Phạn Văn : HUYỀN THANH
NAMO BHAGAVATE
Namo : Quy mệnh, Quy Y, kính lễ
Bhagavate : Đức Thế Tôn
TRAILOKYA
Trailokya : Ba cõi, ba đời
PRATIVI’SISÏTÏÀYA
Prativi’sisïtïa : Tốt hơn, đặc biệt, kỳ dị, rất thù thắng
Aya : Nhóm, đẳng, hàng
BUDDHÀYA
Buddha : Bậc giác ngộ
BHAGAVATE
Phần trên có nghĩa là : Quy mệnh Đức Thế Tôn là Đấng Thế Tôn Giác Tuệ cao cả của ba cõi
TADYATHÀ
Tadyathà : Như vậy, liền nói Thần Chú là
OMÏ
Omï: Ba Thân, Quy Mệnh, Cúng dường, Cảnh giác, nhiếp phục
VI’SODHAYA VI’SODHAYA
Vi’sodhaya : Các nhóm thanh tịnh
ASAMA SAMA
Sama : Đẳng, hàng
Asamasama : Vô đẳng đẳng , không có hàng nào có thể ngang bằng
Phần trên có nghĩa là : Như vậy : OM ! thanh tịnh, thanh tịnh không có gì sánh bằng
SAMANTA AVABHÀSA
Samanta : Khắp tất cả, phổ biến
Ava :Phía bên dưới
Bhàsa : Aùnh sáng, sáng rực, sự vinh quang, sáng sủa rực rỡ
SPHARANÏA
Spharanïa : Chu biến, vòng khắp cả, tràn đầy vòng khắp
GATI GAHÀNA
Gati : Lối đi, hướng đi, lối nẻo
Gahàna : Rừng đông đúc
SVABHÀVA VI‘SUDDHE
Svabhàva : Tự tính , tính tự nhiên vốn có
Vi’suddhe : Khiến cho thanh tịnh, làm cho thanh tịnh
Phần trên có nghĩa là : Tỏa sáng rực rỡ khắp nơi khiến cho muôn loài trong sáu nẻo luân hồi đều được thanh tịnh
ABHISÏIMÏCA TUMÀMÏ
Abhisïimïca : Quán đỉnh, rưới rót lên đỉnh đầu
Tumàmï : cho tôi
SUGATA
Sugata : Đấng Thiện Thệ, bậc khéo đến nẻo lành. Đây là một trong 10 Hiệu của Bậc Chính Đẳng Chính Giác
VARA VACANA
Vara : Ban cho thuận theo khuôn khổ , y theo giới hạn, Vùng kiểm soát, khoảng không gian, vòng rào bao bọc, căn phòng
Vacana : Lời nói, người diễn nói, hùng biện, phát biểu bày tỏ, nói có ý nghĩa, ngôn từ
AMRÏTA ABHISÏEKAI
Amrïta : Bất tử, không bao giờ bị chết. Thường dịch là Cam Lộ
Abhisïekai còn viết là Abhisïaikai:Quán đỉnh, rưới rót lên đỉnh đầu
MAHÀ MANTRA PADA
Mahà : Đại, to lớn
Mantra : Thần Chú
Pada hay padai : Câu cú
Phần trên có nghĩa là : Hỡi Đấng Thiện Thệ ! Hãy ban cho tôi lời nói là câu Đại Thần Chú Quán Đỉnh Bất Tử
ÀHARA ÀHARA
Àhara :Nhiếp thọ
ÀYUHÏ SANDHÀRANÏÌ
Aøyuhï : Thọ mệnh
Dhàranïì : Tổng trì, gìn giữ tổng quát
Sandhàranïì : Giữ gìn bền chắc
Phần trên có nghĩa là : Hãy nhiếp thọ ! Nhiếp thọ cho tôi giữ gìn vững chắc thọ mệnh
‘SODHAYA ‘SODHAYA _ GAGANA VI’SUDDHE
Gagana : Hư Không
Phần trên có nghĩa là : Thanh tịnh, thanh tịnh. Khiến cho thanh tịnh như hư không
USÏNÏÌSÏA VIJAYA VI’SUDDHE
Usïnïìsïa : Đỉnh kế, khối thịt u lên trên đỉnh đầu. Đây chỉ cho Phật Đỉnh
Vijaya : Tôn Thắng , Tối Thắng
SAHASRA RA’SMI
Sahasra : một ngàn ( 1000 )
Ra’smi : Dây băng, chuỗi, dây cương, tín hiệu, tia sáng, chiếu rọi rạng rỡ
SAMÏSUDÌTI SARVA TATHÀGATA
Sudìti : Sáng sủa, rạng rỡ, lanh lợi, chói lọi, ngọn lửa, sáng chói, chiếu sáng
Samïsudìti : Tỏa ánh sáng nhắc nhở, cảnh giác
Sarva : tất cả
Tathàgata : Đức Như Lai, bậc đã đạt được Chân Như
Phần trên có nghĩa là : Phật Đỉnh Tôn Thắng khiến cho thanh tịnh, tỏa ngàn ánh sáng cảnh giác tất cả Như Lai
AVALOKANA SADPÀRAMITÀ PARIPÙRANÏI
Avalokana : Nhìn, quan sát, xem xét, nhận xét, chú ý
Pàramità : Bờ bên kia, thường dịch là Ba La Mật ( Độ ) là Pháp tu của hàng Bồ Tát
Sadpàramità : Ba La Mật màu nhiệm
Paripùranïi : Đều đầy đủ
Phần trên có nghĩa là : Quán chiếu Diệu Ba La Mật đều được đầy đủ
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA
Hrïdaya : Trái tim
ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE MAHÀ MUDRÌ
Adhisïtïana : Thần Lực
Adhisïtïite : Gia trì
Mudra : Ấn
Mahà mudrì : Có tính như Đại Ấn
Phần trên có nghĩa là : Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm
VAJRA KÀYA
Vajra : Kim Cương
Kàya : Thân thể
SAMÏHATANA VI’SUDDHE
Samïhatana : Hòa hợp với nhau, kết hợp với nhau, mến chuộng nhau, kề cận nhau
Phần trên có nghĩa là :Hòa hợp với Thân Kim Cương khiến cho thanh tịnh
SARVA AVARANÏA PAYA DURGATI PARI’SUDDHE
Avaranïa : Sự chướng ngại
Paya : Lối đi, đường đi
Durgati : Lối nẻo xấu ác
Sarva avaranïa paya durgati : Tất cả lối đi đầy chướng ngại , tất cả lối nẻo xấu ác. Trong Phật Giáo thường gọi lối đi đầy chướng ngại xấu ác này là Nghiệp chướng, Báo chướng, phiền Não chướng
Phần trên có nghĩa là : Khiến cho Nghiệp chướng, Báo Chướng, Phiền Não Chướng đều được thanh tịnh
PRATINI VARTTÀYA ÀYUHÏ ‘SUDDHE
Pratini :Tăng trưởng
Varttàya : Xoay chuyển, vận chuyện
Phần trên có nghĩa là : Thọ mệnh tăng trưởng được thanh tịnh
SAMAYA ADHISÏTÏITE
Samaya : Bình đẳng, Bản thệ ( Lời thề của mình )
MANÏI MANÏI MAHÀ MANÏI
Manïi : Viên ngọc Như Ý
Manïi manïi mahà manïi : chỉ 3 loại ngọc báu Như Ý là Báu của Thế Gian, Báu của Hiền Thánh , báu của chư Phật và thường gọi chung là Pháp Bảo
Phần trên có nghĩa là : Thệ nguyện gia trì Pháp Bảo
TATHÀTÀ BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE
Tathàtà : Chân Như Tính
Bhùta kotïi : Chân thật tế cực, tức chỉ đoạn lìa hư vọng là Niết Bàn chân chứng. Hay thường gọi là thật tế
Phần trên có nghĩa là : Tính Chân Như Thật Tế đều thanh tịnh
VISPHUTÏA BUDDHI ‘SUDDHE
Visphutïa : Hiển hiện
Buddhi : Tuệ Giác
Phần trên có nghĩa là : Hiển hiện Tuệ Giác Thanh Tịnh
JAYA JAYA
Jaya : Thù thắng, thắng
Jaya jaya : biểu thị cho Chân Đế và Tục Đế
VIJAYA VIJAYA
Vijaya : Tôn Thắng, tối thắng
Vijaya vijaya : biểu thị cho Bi Môn và Trí Môn
SMARA SMARA
Smara : Ghi nhớ, niệm trì
Smara smara : biểu thị cho Định Tuệ tương ứng
SARVA BUDDHA
Tất cả chư Phật
NAMO VIPA’SYIN TATHÀGATÀYA
Kính lễ Tỳ Bà Thi Như Lai
NAMO ‘SIKHI TATHÀGATÀYA
Kính lễ Thi Khí Như Lai
NAMO VI’SVABHÙ TATHÀGATÀYA
Kính lễ Tỳ Xá Phù Như Lai
NAMO KRAKUCCHANDA TATHÀGATÀYA
Kính lễ Câu Lưu Tôn Như Lai
NAMO KANAKAMUNÏÀYE TATHÀGATÀYA
Kính lễ Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai
NAMO KÀ’SYAPA TATHÀGATÀYA
Kính lễ Ca Diếp Như Lai
NAMO ‘SÀKYAMUNÏÀYE TATHÀGATÀYA
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai
NAMO ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA
Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát
ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE
Thần lực gia trì
VAJRÌ VAJRAGARBHE VAJRAMÏ BHAVATU MAMA ‘SARIRAMÏ
Vajrì : Có Tính như Kim Cương
Vajragarbhe : Kim Cương Tạng
Vajramï Bhavatu : Được thành Kim Cương
Mama : Tôi ( Xưng tên họ… )
‘Sariramï : Toàn thân
Phần trên có nghĩa là : Thù thắng , thù thắng. Tôn thắng, tối thắng . Niệm trì, niệm trì.
Tất cả chư Phật
Kính lễ Tỳ Bà Thi Như Lai
Kính lễ Thi Khí Như Lai
Kính lễ Tỳ Xá Phù Như Lai
Kính lễ Câu Lưu Tôn Như Lai
Kính lễ Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai
Kính lễ Ca Diếp Như Lai
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai
Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát
Hãy dùng Thần lực gia trì khiến cho thân của tôi có được tính như Kim Cương, chứng Kim Cương Tạng và được thành Kim Cương
SARVA SATVÀNÀMÏCA KÀYA PARI’SUDDHE
Satva : Hữu Tình
Kàya : Thân xác
SARVA GATI PARI’SUDDHE
Phần trên có nghĩa là : Tất cả thân của chúng Hữu Tình đều được thanh tịnh. Tất cả các nẻo đều được thanh tịnh
SARVA TATHÀGATA’SCA ME SAMA ‘SVASA YAMÏTU
Tathàgata’sca : Như Lai Đẳng
Me sama : Ngã Đẳng, nhóm chúng tôi
‘Svasa : An ủi
Yamïtu : Đi đến
Phần trên có nghĩa là : Tất cả Như Lai đi đến an ủi chúng tôi
SARVA TATHÀGATA SAMA ‘SVASA ADHISÏTÏITE BUDDHYA BUDDHYA VIBUDDHYA VIBUDDHYA
Buddhya : Giác ngộ, tỉnh ngộ
Vibuddhya : Khiến cho giác ngộ, khiến cho tỉnh ngộ
Phần trên có nghĩa là : Tất cả Như Lai gia trì khiến cho tôi và tất cả được tỉnh ngộ, được giác ngộ
BODHAYA BODHAYA
Bodhaya : Tuệ Giác, Trí Giác
VIBODHAYA VIBODHAYA
Vibodhaya : Khiến cho có Tuệ Giác, khiến cho có Trí Giác
SAMANTA PARI’SUDDHE
Khắp cả đều được thanh tịnh
Phần trên có nghĩa là : Tuệ Giác ,Trí Giác. Khiến cho tất cả đều có Tuệ Giác, khiến cho tất cả đều có Trí Giác. Khắp nơi đều được thanh tịnh
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE MAHÀ MUDRÌ SVÀHÀ
Svàhà : Quyết định thành tựu, thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết bàn
Phần trên có nghĩa là : Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm khiến cho tôi thành tựu được tự tính an lạc của Đại Niết Bàn
* ) Phiên dịch toàn bài Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni là :
Nam mô Đấng Thế Tôn !
Đấng Thế Tôn Đại Giác cao cả của Tam Giới
Như vậy : OM !
Thanh tịnh, thanh tịnh không có gì sánh bằng
Tỏa sáng rực rỡ khắp nơi khiến cho muôn loài trong sáu nẻo luân hồi đều được thanh tịnh.
Hãy quán đỉnh cho con !
Hỡi Đấng Thiện Thệ tối cao !
Hãy ban cho con lời thù thắng là câu Đại Thần Chú Quán Đỉnh Bất Tử
Hãy nhiếp thọ ! Nhiếp thọ cho con giữ gìn vững chắc thọ mệnh
Thanh tịnh, thanh tịnh. Khiến cho thanh tịnh như hư không
Phật Đỉnh Tôn Thắng khiến cho thanh tịnh, tỏa ngàn ánh sáng cảnh giác tất cả Như Lai
Quán chiếu Ba La Mật màu nhiệm đều được đầy đủ
Thần Lực Gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm hòa hợp với thân Kim Cương khiến cho thanh tịnh.
Khiến cho tất cả Nghiệp Chướng, Báo Chướng, Phiền Não Chướng đều được thanh tịnh.
Thọ mệnh tăng trưởng đều được thanh tịnh
Thệ nguyện gia trì Pháp Bảo
Tính Chân Như Thật tế tràn đầy muôn ngàn thanh tịnh
Hiển hiện Tuệ Giác thanh tịnh
Thù thắng , thù thắng
Tôn Thắng, Tối Thắng
Niệm trì, niệm trì
Tất cả chư Phật
Kính lễ Tỳ Bà Thi như Lai
Kính lễ Thi Khí Như Lai
Kính lễ Tỳ Xá Phù Như Lai
Kính lễ Câu Lưu Tôn Như Lai
Kính lễ Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai
Kính lễ Ca Diếp Như Lai
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai
Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát
Hãy dùng Thần lực gia trì khiến cho thân của con ( Họ tên… ) có tính như Kim Cương, chứng Kim Cương Tạng và được thành Kim Cương.
Tất cả thân Hữu Tình đều được thanh tịnh
Tất cả các nẻo đều được thanh tịnh
Tất cả Như Lai đi đến an ủi chúng con
Tất cả Như Lai an ủi gia trì khiến cho con được giác ngộ, được tỉnh ngộ. Khiến cho tất cả được giác ngộ, được tỉnh ngộ.
Khiến cho con được Tuệ Giác, được Trí Giác
Khiến cho tất cả đều được Tuệ Giác, được Trí Giác
Khắp nơi đều được thanh tịnh
Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm khiến cho con thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.
12/05/2003
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI
( Dựa theo Bản của Ngài BẢO TƯ DUY )
Phục hồi và chú thích Phạn Văn : HUYỀN THANH
NAMO BHAGAVATE
Namo : Quy mệnh, Quy Y, kính lễ
Bhagavate : Đức Thế Tôn
TRAILOKYA
Trailokya : Ba cõi, ba đời
PRATIVI’SISÏTÏÀYA
Prativi’sisïtïa : Tốt hơn, đặc biệt, kỳ dị, rất thù thắng
Aya : Nhóm, đẳng, hàng
BUDDHÀYA
Buddha : Bậc giác ngộ
BHAGAVATE
Phần trên có nghĩa là : Quy mệnh Đức Thế Tôn là Đấng Thế Tôn Giác Tuệ cao cả của ba cõi
TADYATHÀ
Tadyathà : Như vậy, liền nói Thần Chú là
OMÏ
Omï: Ba Thân, Quy Mệnh, Cúng dường, Cảnh giác, nhiếp phục
VI’SODHAYA VI’SODHAYA
Vi’sodhaya : Các nhóm thanh tịnh
ASAMA SAMA
Sama : Đẳng, hàng
Asamasama : Vô đẳng đẳng , không có hàng nào có thể ngang bằng
Phần trên có nghĩa là : Như vậy : OM ! thanh tịnh, thanh tịnh không có gì sánh bằng
SAMANTA AVABHÀSA
Samanta : Khắp tất cả, phổ biến
Ava :Phía bên dưới
Bhàsa : Aùnh sáng, sáng rực, sự vinh quang, sáng sủa rực rỡ
SPHARANÏA
Spharanïa : Chu biến, vòng khắp cả, tràn đầy vòng khắp
GATI GAHÀNA
Gati : Lối đi, hướng đi, lối nẻo
Gahàna : Rừng đông đúc
SVABHÀVA VI‘SUDDHE
Svabhàva : Tự tính , tính tự nhiên vốn có
Vi’suddhe : Khiến cho thanh tịnh, làm cho thanh tịnh
Phần trên có nghĩa là : Tỏa sáng rực rỡ khắp nơi khiến cho muôn loài trong sáu nẻo luân hồi đều được thanh tịnh
ABHISÏIMÏCA TUMÀMÏ
Abhisïimïca : Quán đỉnh, rưới rót lên đỉnh đầu
Tumàmï : cho tôi
SUGATA
Sugata : Đấng Thiện Thệ, bậc khéo đến nẻo lành. Đây là một trong 10 Hiệu của Bậc Chính Đẳng Chính Giác
VARA VACANA
Vara : Ban cho thuận theo khuôn khổ , y theo giới hạn, Vùng kiểm soát, khoảng không gian, vòng rào bao bọc, căn phòng
Vacana : Lời nói, người diễn nói, hùng biện, phát biểu bày tỏ, nói có ý nghĩa, ngôn từ
AMRÏTA ABHISÏEKAI
Amrïta : Bất tử, không bao giờ bị chết. Thường dịch là Cam Lộ
Abhisïekai còn viết là Abhisïaikai:Quán đỉnh, rưới rót lên đỉnh đầu
MAHÀ MANTRA PADA
Mahà : Đại, to lớn
Mantra : Thần Chú
Pada hay padai : Câu cú
Phần trên có nghĩa là : Hỡi Đấng Thiện Thệ ! Hãy ban cho tôi lời nói là câu Đại Thần Chú Quán Đỉnh Bất Tử
ÀHARA ÀHARA
Àhara :Nhiếp thọ
ÀYUHÏ SANDHÀRANÏÌ
Aøyuhï : Thọ mệnh
Dhàranïì : Tổng trì, gìn giữ tổng quát
Sandhàranïì : Giữ gìn bền chắc
Phần trên có nghĩa là : Hãy nhiếp thọ ! Nhiếp thọ cho tôi giữ gìn vững chắc thọ mệnh
‘SODHAYA ‘SODHAYA _ GAGANA VI’SUDDHE
Gagana : Hư Không
Phần trên có nghĩa là : Thanh tịnh, thanh tịnh. Khiến cho thanh tịnh như hư không
USÏNÏÌSÏA VIJAYA VI’SUDDHE
Usïnïìsïa : Đỉnh kế, khối thịt u lên trên đỉnh đầu. Đây chỉ cho Phật Đỉnh
Vijaya : Tôn Thắng , Tối Thắng
SAHASRA RA’SMI
Sahasra : một ngàn ( 1000 )
Ra’smi : Dây băng, chuỗi, dây cương, tín hiệu, tia sáng, chiếu rọi rạng rỡ
SAMÏSUDÌTI SARVA TATHÀGATA
Sudìti : Sáng sủa, rạng rỡ, lanh lợi, chói lọi, ngọn lửa, sáng chói, chiếu sáng
Samïsudìti : Tỏa ánh sáng nhắc nhở, cảnh giác
Sarva : tất cả
Tathàgata : Đức Như Lai, bậc đã đạt được Chân Như
Phần trên có nghĩa là : Phật Đỉnh Tôn Thắng khiến cho thanh tịnh, tỏa ngàn ánh sáng cảnh giác tất cả Như Lai
AVALOKANA SADPÀRAMITÀ PARIPÙRANÏI
Avalokana : Nhìn, quan sát, xem xét, nhận xét, chú ý
Pàramità : Bờ bên kia, thường dịch là Ba La Mật ( Độ ) là Pháp tu của hàng Bồ Tát
Sadpàramità : Ba La Mật màu nhiệm
Paripùranïi : Đều đầy đủ
Phần trên có nghĩa là : Quán chiếu Diệu Ba La Mật đều được đầy đủ
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA
Hrïdaya : Trái tim
ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE MAHÀ MUDRÌ
Adhisïtïana : Thần Lực
Adhisïtïite : Gia trì
Mudra : Ấn
Mahà mudrì : Có tính như Đại Ấn
Phần trên có nghĩa là : Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm
VAJRA KÀYA
Vajra : Kim Cương
Kàya : Thân thể
SAMÏHATANA VI’SUDDHE
Samïhatana : Hòa hợp với nhau, kết hợp với nhau, mến chuộng nhau, kề cận nhau
Phần trên có nghĩa là :Hòa hợp với Thân Kim Cương khiến cho thanh tịnh
SARVA AVARANÏA PAYA DURGATI PARI’SUDDHE
Avaranïa : Sự chướng ngại
Paya : Lối đi, đường đi
Durgati : Lối nẻo xấu ác
Sarva avaranïa paya durgati : Tất cả lối đi đầy chướng ngại , tất cả lối nẻo xấu ác. Trong Phật Giáo thường gọi lối đi đầy chướng ngại xấu ác này là Nghiệp chướng, Báo chướng, phiền Não chướng
Phần trên có nghĩa là : Khiến cho Nghiệp chướng, Báo Chướng, Phiền Não Chướng đều được thanh tịnh
PRATINI VARTTÀYA ÀYUHÏ ‘SUDDHE
Pratini :Tăng trưởng
Varttàya : Xoay chuyển, vận chuyện
Phần trên có nghĩa là : Thọ mệnh tăng trưởng được thanh tịnh
SAMAYA ADHISÏTÏITE
Samaya : Bình đẳng, Bản thệ ( Lời thề của mình )
MANÏI MANÏI MAHÀ MANÏI
Manïi : Viên ngọc Như Ý
Manïi manïi mahà manïi : chỉ 3 loại ngọc báu Như Ý là Báu của Thế Gian, Báu của Hiền Thánh , báu của chư Phật và thường gọi chung là Pháp Bảo
Phần trên có nghĩa là : Thệ nguyện gia trì Pháp Bảo
TATHÀTÀ BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE
Tathàtà : Chân Như Tính
Bhùta kotïi : Chân thật tế cực, tức chỉ đoạn lìa hư vọng là Niết Bàn chân chứng. Hay thường gọi là thật tế
Phần trên có nghĩa là : Tính Chân Như Thật Tế đều thanh tịnh
VISPHUTÏA BUDDHI ‘SUDDHE
Visphutïa : Hiển hiện
Buddhi : Tuệ Giác
Phần trên có nghĩa là : Hiển hiện Tuệ Giác Thanh Tịnh
JAYA JAYA
Jaya : Thù thắng, thắng
Jaya jaya : biểu thị cho Chân Đế và Tục Đế
VIJAYA VIJAYA
Vijaya : Tôn Thắng, tối thắng
Vijaya vijaya : biểu thị cho Bi Môn và Trí Môn
SMARA SMARA
Smara : Ghi nhớ, niệm trì
Smara smara : biểu thị cho Định Tuệ tương ứng
SARVA BUDDHÀ
Tất cả chư Phật
NAMO ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA
Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát
NAMO ‘SÀKYAMUNÏÀYE TATHÀGATÀYA
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai
NAMO KÀ’SYAPA TATHÀGATÀYA
Kính lễ Ca Diếp Như Lai
NAMO KANAKAMUNÏAYE TATHÀGATÀYA
Kính lễ Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai
NAMO KRAKUCCHANDA TATHÀGATÀYA
Kính lễ Câu Lưu Tôn Như Lai
NAMO VI’SVABHÙ TATHÀGATÀYA
Kính lễ Tỳ Xá Phù Như Lai
NAMO ‘SIKHI TATHÀGATÀYA
Kính lễ Thi Khí Như Lai
NAMO VIPA’SYIN TATHÀGATÀYA
Kính lễ Tỳ Bà Thi Như Lai
ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE
Thần Lực gia trì
VAJRÌ VAJRAGARBHE VAJRAMÏ BHAVATU MAMA ‘SARIRAMÏ
Vajrì : Có Tính như Kim Cương
Vajragarbhe : Kim Cương Tạng
Vajramï Bhavatu : Được thành Kim Cương
Mama : Tôi ( Xưng tên họ… )
‘Sariramï : Toàn thân
Phần trên có nghĩa là : Thù thắng , thù thắng. Tôn thắng, tối thắng . Niệm trì, niệm trì.
Tất cả chư Phật
Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai
Kính lễ Ca Diếp Như Lai
Kính lễ Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai
Kính lễ Câu Lưu Tôn Như Lai
Kính lễ Tỳ Xá Phù Như Lai
Kính lễ Thi Khí Như Lai
Kính lễ Tỳ Bà Thi Như Lai
Hãy dùng Thần lực gia trì khiến cho thân của tôi có được tính như Kim Cương, chứng Kim Cương Tạng và được thành Kim Cương
SARVA SATVÀNÀMÏCA KÀYA PARI’SUDDHE
Satva : Hữu Tình
Kàya : Thân xác
SARVA GATI PARI’SUDDHE
Phần trên có nghĩa là : Tất cả thân của chúng Hữu Tình đều được thanh tịnh. Tất cả các nẻo đều được thanh tịnh
SARVA TATHÀGATA’SCA ME SAMA ‘SVASA YAMÏTU
Tathàgata’sca : Như Lai Đẳng
Me sama : Ngã Đẳng, nhóm chúng tôi
‘Svasa : An ủi
Yamïtu : Đi đến
Phần trên có nghĩa là : Tất cả Như Lai đi đến an ủi chúng tôi
SARVA TATHÀGATA SAMA ‘SVASA ADHISÏTÏITE BUDDHYA BUDDHYA VIBUDDHYA VIBUDDHYA
Buddhya : Giác ngộ, tỉnh ngộ
Vibuddhya : Khiến cho giác ngộ, khiến cho tỉnh ngộ
Phần trên có nghĩa là : Tất cả Như Lai gia trì khiến cho tôi và tất cả được tỉnh ngộ, được giác ngộ
BODHAYA BODHAYA
Bodhaya : Tuệ Giác, Trí Giác
VIBODHAYA VIBODHAYA
Vibodhaya : Khiến cho có Tuệ Giác, khiến cho có Trí Giác
SAMANTA PARI’SUDDHE
Khắp cả đều được thanh tịnh
Phần trên có nghĩa là : Tuệ Giác ,Trí Giác. Khiến cho tất cả đều có Tuệ Giác, khiến cho tất cả đều có Trí Giác. Khắp nơi đều được thanh tịnh
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE MAHÀ MUDRÌ SVÀHÀ
Svàhà : Quyết định thành tựu, thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết bàn
Phần trên có nghĩa là : Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm khiến cho tôi thành tựu được tự tính an lạc của Đại Niết Bàn
* ) Phiên dịch toàn bài Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni là :
Nam mô Đấng Thế Tôn !
Đấng Thế Tôn Đại Giác cao cả của Tam Giới
Như vậy : OM !
Thanh tịnh, thanh tịnh không có gì sánh bằng
Tỏa sáng rực rỡ khắp nơi khiến cho muôn loài trong sáu nẻo luân hồi đều được thanh tịnh.
Hãy quán đỉnh cho con !
Hỡi Đấng Thiện Thệ tối cao !
Hãy ban cho con lời thù thắng là câu Đại Thần Chú Quán Đỉnh Bất Tử
Hãy nhiếp thọ ! Nhiếp thọ cho con giữ gìn vững chắc thọ mệnh
Thanh tịnh, thanh tịnh. Khiến cho thanh tịnh như hư không
Phật Đỉnh Tôn Thắng khiến cho thanh tịnh, tỏa ngàn ánh sáng cảnh giác tất cả Như Lai
Quán chiếu Ba La Mật màu nhiệm đều được đầy đủ
Thần Lực Gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm hòa hợp với thân Kim Cương khiến cho thanh tịnh.
Khiến cho tất cả Nghiệp Chướng, Báo Chướng, Phiền Não Chướng đều được thanh tịnh.
Thọ mệnh tăng trưởng đều được thanh tịnh
Thệ nguyện gia trì Pháp Bảo
Tính Chân Như Thật tế tràn đầy muôn ngàn thanh tịnh
Hiển hiện Tuệ Giác thanh tịnh
Thù thắng , thù thắng
Tôn Thắng, Tối Thắng
Niệm trì, niệm trì
Tất cả chư Phật
Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai
Kính lễ Ca Diếp Như Lai
Kính lễ Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai
Kính lễ Câu Lưu Tôn Như Lai
Kính lễ Tỳ Xá Phù Như Lai
Kính lễ Thi Khí Như Lai
Kính lễ Tỳ Bà Thi Như Lai
Hãy dùng Thần lực gia trì khiến cho thân của con ( Họ tên… ) có tính như Kim Cương, chứng Kim Cương Tạng và được thành Kim Cương.
Tất cả thân Hữu Tình đều được thanh tịnh
Tất cả các nẻo đều được thanh tịnh
Tất cả Như Lai đi đến an ủi chúng con
Tất cả Như Lai an ủi gia trì khiến cho con được giác ngộ, được tỉnh ngộ. Khiến cho tất cả được giác ngộ, được tỉnh ngộ.
Khiến cho con được Tuệ Giác, được Trí Giác
Khiến cho tất cả đều được Tuệ Giác, được Trí Giác
Khắp nơi đều được thanh tịnh
Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm khiến cho con thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.
14/05/2003
PHẬT ĐỈNH TƠN THẮNG GIA CÚ LINH NGHIỆM ĐÀ LA NI
Hán văn : Bản ghi trên cột đá 8 mặt do Đinh Liễn dựng vào năm 973 ( Bia số 5)
Việt dịch : HUYỀN THANH
PHẬT ĐỈNH TƠN THẮNG GIA CÚ LINH NGHIỆM ĐÀ LA NI là :
Nẵng mơ bà nga phộc đế
Đát lạt lộ chỉ dã
Bát la để vĩ sắt thủy tra dã
Một đà dã
Bà nga phộc đế
Đát nễ dã tha
Án
Vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã
Sa ma, sa ma
Tam mãn đa phộc bà sa
Sa phả la noa
Nga để nga hạ nẵng
Sa phộc bà phộc, vĩ truật đệ
A tị tru tá đổ hàm
Tố nga đa
Phộc la, phộc tả nẵng
A mật lật đa, tị sái kế
A hạ la, a hạ la
A dữu tán đà la ni
Thú đà dã, thú đà dã
Nga nga nẵng, vĩ truật đệ
Ơ sắt ni sái, vĩ nhạ dã, vĩ truật đệ
Sa hạ sa la, la thấp mính, tán tổ nễ đế
Tát phộc đát tha nghiệt đa, phộc lơ yết ni
Sa tra ba la mật đa,ba lị bố la ni
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt lị đà dã
Địa sắt tra nẵng, địa sắt xỉ đa
Ma hạ mẫu nại lê
Phộc nhật la ca gia, tăng hạ đa nẵng, vĩ truật đệ
Tát phộc phộc la noa, ba gia, đột lật yết đế, bạt lị truật đệ
Ba la để ni, vạt lị đà dã, a dục, truật đệ
Tam ma gia, địa sắt xỉ đế
Mâu nĩnh, mâu nĩnh
Vĩ mâu nĩnh, vĩ mâu nĩnh
Ma nĩnh, ma nĩnh, ma hạ ma nĩnh
Đát đạt đa, bộ đa, câu chi, bạt lị truật đệ
Vĩ sa phổ tra, một địa, truật đệ
Nhạ dã, nhạ dã
Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã
Sa ma la, sa ma la
Tát phộc một đà, địa sắt xỉ đa, truật đệ
Phộc nhật lê
Phộc nhật la tát bệ
Phộc nhật lãm, bà phộc đổ
Ma ma
Đệ Tử tả tạo (viết chép tạo dựng), xá lị lam
Tát phộc tát đỏa nẫm giả, ca gia, bạt lị truật đệ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, thất giả minh, tam ma, thấp phộc sa, diễn đổ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, tam ma, thấp phộc sa, địa sắt xỉ đế
Một đà dã, một đà dã
Vĩ mạo đà dã, vĩ mạo đà dã
Tam mãn đa , bạt lị truật đệ
Tát phộc nga để, bạt lị truật đệ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt lị đà dã
Địa sắt tra nẵng, địa sắt xỉ đa
Ma hạ mẫu nại lê
Sa phộc hạ
Buồn thương cho tất cả, hoặc Hồn chịu ân nương theo nhân tốt mà siêu sinh , thốt khỏi cõi dưới
Thời , năm Quý Dậu, Đệ Tử là Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ Nam Việt Vương ĐINH KHUƠNG LIỄN kính tạo Bảo Tràng gồm 100 tịa ? ? Tiến ? ? ? Hoặc thương ? ? ? ? ?
02/04/2005
PHẬT ĐỈNH TƠN THẮNG GIA CÚ LINH NGHIỆM ĐÀ LA NI
Hán văn : Bản ghi trên cột đá 8 mặt do Đinh Liễn dựng vào năm 979 ( Bia số 6)
Việt dịch : HUYỀN THANH
PHẬT ĐỈNH TƠN THẮNG GIA CÚ LINH NGHIỆM ĐÀ LA NI là :
Nẵng mơ bà nga phộc đế
Đát lạt lộ chỉ dã
Bát la để vĩ sắt thủy tra dã
Một đà dã
Bà nga phộc đế
Đát nễ dã tha
Án
Vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã
Sa ma, sa ma
Tam mãn đa phộc bà sa
Sa phả la noa
Nga để nga hạ nẵng
Sa phộc bà phộc, vĩ truật đệ
A tị tru tá đổ hàm
Tố nga đa
Phộc la, phộc tả nẵng
A mật lật đa, tị sái kế
A hạ la, a hạ la
A dữu tán đà la ni
Thú đà dã, thú đà dã
Nga nga nẵng, vĩ truật đệ
Ơ sắt ni sái, vĩ nhạ dã, vĩ truật đệ
Sa hạ sa la, la thấp minh, tán tổ nễ đế
Tát phộc đát tha nga đa, phộc lơ yết ni
Sa tra ba la mật đa, bạt lị bố la ni
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt lị đà dã
Địa sắt tra nẵng, địa sắt xỉ đa
Ma hạ mẫu nại lê
Phộc nhật la ca gia, tăng hạ đa nẵng, vĩ truật đệ
Tát phộc phộc la noa, ba gia, đột lật yết để, bạt lị truật đệ
Ba la để nĩnh, vạt lị đa dã, a dục, truật đệ
Tam ma gia, địa sắt xỉ đế
Mâu nĩnh, mâu nĩnh
Vĩ mâu nĩnh, vĩ mâu nĩnh
Ma nĩnh, ma hạ ma nĩnh
Đát đạt đa, bộ đa, câu chi, bạt lị truật đệ
Vĩ sa âm tra, một địa, truật đệ
Nhạ dã, nhạ dã
Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã
Sa ma la, sa ma la
Tát phộc một đà, địa sắt xỉ đa, truật đệ
Phộc nhật lê
Phộc nhật la tát bệ
Phộc nhật lãm, bà phộc đổ
Ma ma
Đệ Tử tả tạo ( vhiết chép tạo dựng) , xá lam
Tát phộc tát đỏa nẫm giả, ca gia, bạt lị truật đệ
Tát phộc nga để, bạt lị truật đệ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, thất giả minh, tam ma, thấp phộc sa, diễn đổ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, tam ma, thấp sa, địa sắt xỉ đế
Một đà dã, một đà dã
Vĩ mạo đà dã, vĩ mạo đà dã
Tam mãn đa , bạt lị truật đệ
Tát phộc nga để, bạt lị truật đệ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt lị đà dã
Địa sắt tra nẵng, địa sắt xỉ đa
Ma hạ mẫu nại lê
Sa phộc hạ
Đệ Tử là Thơi Thành Thuận Hĩa Cơng Thần Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ Đặc Tiến Kiểm Giảo Thái Sư , Thực Ấp một vạn Hộ, Nam Việt Vương ĐINH KHUƠNG LIỄN vì Em trai đã mất (Vong đệ) là Đại Đức ĐỈNH THẢNG TĂNG THẢNG chẳng theo trung hiếu phụng sự bề trên là cha với anh cả,lại hành tâm ác trái ngược với sự nhã ái khoan dung. Do Anh muốn xây dựng thứ bậc nên mới gây tổn hoại đến tính mạng của Đại Đức ĐỈNH THẢNG TĂNG THẢNG, chủ yếu hình thành nhà nước (Gia quốc) ,vĩnh viễn thống giữ nếp nhà (Mơn Phong) .
Người xưa cĩ nĩi:” Tranh quan chẳng nhượng địa vị, xuống tay trước là tốt nhất” Nay nguyện tạo dựng 100 tịa Bảo Tràng nhằm tiến bạt Vong đệ với Tiên Vong (Vong linh Tổ Tiên) hậu một ( Người sau này mới chết) một thời giải thốt , miễn việc xét xử .
Trước hết xin chúc cho Đại Thắng Minh Hồng Đế vĩnh viễn thống lãnh trời Nam, luơn an ngự nơi địa vị quý báu.
02/04/2005
PHẬT ĐỈNH TƠN THẮNG GIA CÚ LINH NGHIỆM ĐÀ LA NI
Hán văn : Bản ghi trên cột đá 8 mặt do Đinh Liễn dựng vào năm 979 ( Bia số 7)
Việt dịch : HUYỀN THANH
Nẵng mơ bà nga phộc đế
Đát lạt lộ chỉ dã
Bát la để vĩ sắt thủy tra dã
Một đà dã
Bà nga phộc đế
Đát nễ dã tha
Án
Vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã
Sa ma, sa ma
Tam mãn đa phộc bà sa
Sa phả la noa
Nga để nga hạ nẵng
Sa phộc bà phộc, vĩ truật đệ
A tị tru tả đổ hàm
Tố nga đa
Phộc la, phộc tả nẵng
A mật lật đa, tị sái kế
A hạ la, a hạ la
A dữu tán đà la ni
Thú đà dã, thú đà dã
Nga nga nẵng, vĩ truật đệ
Ơ sắt ni sái, vĩ nhạ dã, vĩ truật đệ
Sa ha sa la, la thấp mính, tán tổ nễ đế
Tát phộc đát tha nghiệt đa, lơ yết ni
Sa tra ba la mật đa
Bạt lị bố la ni
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt lị đà dã
Địa sắt tra nẵng, địa sắt xỉ đa
Ma hạ mẫu nại lê
Phộc nhật la ca gia, tăng hạ đa nẵng, vĩ truật đệ
Tát phộc phộc la noa, ba gia, đột lật yết để bạt lị truật đệ
Ba la để ni, vạt lị đa dã, a dục, truật đệ
Tam ma gia, địa sắt xỉ đế
Mâu nĩnh, mâu nĩnh
Vĩ mâu nĩnh, vĩ mâu nĩnh
Ma nĩnh, ma nĩnh, ma hạ ma nĩnh
Đát đạt đa, bộ đa, câu chi, bạt lị truật đệ
Vĩ sa phổ tra, một địa, truật đệ
Nhạ dã, nhạ dã
Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã
Sa ma la, sa ma la
Tát phộc một đà, địa sắt xỉ đa, truật đệ
Phộc nhật la lệ
Phộc nhật la tát bệ
Phộc nhật lãm, bà phộc đổ
Ma ma
Đệ Tử tả tạo, xá lam
Tát phộc tát đỏa nẫm giả, ca gia, bạt lị truật đệ
Tát phộc nga để , bạt lị truật đệ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, thất giả minh, tam ma, thấp phộc bà , diễn đổ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, tam ma, thấp phộc bà , địa sắt xỉ đế
Một đà dã, một đà dã
Vĩ mạo đà dã, vĩ mạo đà dã
Tam mãn đa , bạt lị truật đệ
Tát phộc nga để, bạt lị truật đệ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt lị đà dã
Địa sắt tra nẵng, địa sắt xỉ đa
Ma hạ mẫu nại lê
Sa phộc hạ
Đệ Tử Tiết Độ Sứ Đặc Tiến Kiểm Giảo Thái Sư , Thực Ấp một vạn Hộ, Nam Việt Vương ĐINH KHUƠNG LIỄN vì Em trai đã mất (Vong đệ) là Đại Đức ĐỈNH THẢNG TĂNG THẢNG chẳng theo trung hiếu phụng sự bề trên là cha với anh cả,lại hành tâm ác trái ngược với sự nhã ái khoan dung. Do Anh muốn xây dựng thứ bậc nên mới gây tổn hoại đến tính mạng của Đại Đức ĐỈNH THẢNG TĂNG THẢNG, chủ yếu hình thành nhà nước (Gia quốc) ,vĩnh viễn thống giữ nếp nhà (Mơn Phong) .
Người xưa cĩ nĩi:” Tranh quan chẳng nhượng địa vị, xuống tay trước là tốt nhất” Nay nguyện tạo dựng 100 tịa Bảo Tràng nhằm tiến bạt Vong đệ với Tiên Vong (Vong linh Tổ Tiên) hậu một ( Người sau này mới chết) một thời giải thốt , miễn việc xét xử .
Trước hết xin chúc cho Đại Thắng Minh Hồng Đế vĩnh viễn thống lãnh trời Nam, tiếp tục khuơng phị Đế đồ ( Cơ nghiệp đế vương) .
02/04/2005
PHẬT ĐỈNH TƠN THẮNG GIA CÚ LINH NGHIỆM ĐÀ LA NI
Hán văn : Bản ghi trên cột đá 8 mặt do Đinh Liễn dựng vào năm 979 ( Bia số 8)
Việt dịch : HUYỀN THANH
Nẵng mơ bà nga phộc đế
Đát lạt lộ chỉ dã
Bát la để vĩ sắt thủy tra dã
Một đà dã
Bà nga phộc đế
Đát nễ dã tha
Án
Vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã
Sa ma, sa ma
Tam mãn đa phộc bà sa
Sa phả la noa
Nga để nga hạ nẵng
Sa phộc bà phộc, vĩ truật đệ
A tị tru tả đổ hàm
Tố nga đa
Phộc la, phộc tả nẵng
A mật lật đa, tị sái
A hạ la, a hạ la
A dữu tán đà la ni
Thú đà dã, thú đà dã
Nga nga nẵng, vĩ truật đệ
Ơ sắt ni sái, vĩ nhạ dã, vĩ truật đệ
Sa ha sa la, la thấp mính, tán tổ nễ đế
Tát phộc đát tha nghiệt đa, phộc lơ yết ni
Sa tra ba la mật đa, ba lị bố la ni
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt lị đà dã
Địa sắt tra nẵng, địa sắt xỉ đa
Ma ha mẫu nại lê
Phộc nhật la ca gia, tăng hạ đa nẵng, vĩ truật đệ
Tát phộc phộc la noa, ba gia, đột lật yết đế, bạt lị truật đệ
Ba la để ni, vạt lị đà dã, a dục, truật đệ
Tam ma gia, địa sắt xỉ đế
Mâu nĩnh, mâu nĩnh
Vĩ mâu nĩnh, vĩ mâu nĩnh
Ma nĩnh, ma nĩnh, ma hạ ma nĩnh
Đạt đa, bộ đa, câu chi, bạt lị truật đệ
Vĩ sa phổ tra, một địa, truật đệ
Nhạ dã, nhạ dã
Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã
Sa ma la, sa ma la
Tát phộc một đà, địa sắt xỉ đa, truật đệ
Phộc nhật lê
Phộc nhật la tát bệ
Phộc nhật lãm, bà phộc đổ
Ma ma
Đệ Tử tả tạo, xá lị lam
Tát phộc tát đỏa nam giả, ca gia, bạt lị truật đệ
Tát phộc nga để, bạt lị truật đệ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, thất giả minh, tam ma, phộc bà , diễn đổ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, tam ma, thấp phộc sa, địa sắt xỉ đế
Một đà dã, một đà dã
Vĩ mạo đà dã, vĩ mạo đà dã
Tam mãn đa , bạt lị truật đệ
Tát phộc nga để, bạt lị truật đệ
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt lị đà dã
Địa sắt tra nẵng, địa sắt xỉ đa
Ma hạ mẫu nại lê
Sa phộc hạ
Đệ Tử Tiết Độ Sứ Đặc Tiến Kiểm Giảo Thái Sư , Thực Ấp một vạn Hộ, Nam Việt Vương ĐINH KHUƠNG LIỄN vì Em trai đã mất (Vong đệ) là Đại Đức ĐỈNH THẢNG TĂNG THẢNG chẳng chịu phụng sự bề trên là cha với anh cả,lại hành tâm ác trái ngược với sự nhã ái khoan dung. Do Anh muốn xây dựng thứ bậc nên mới gây tổn hoại đến tính mạng của Đại Đức ĐỈNH THẢNG TĂNG THẢNG, chủ yếu hình thành nhà nước (Gia quốc) ,vĩnh viễn thống giữ nếp nhà (Mơn Phong) .
Người xưa cĩ nĩi:” Tranh quan chẳng nhượng địa vị, xuống tay trước là tốt nhất” Nay nguyện tạo dựng 100 tịa Bảo Tràng nhằm tiến bạt Vong đệ với Tiên Vong (Vong linh Tổ Tiên) hậu một ( Người sau này mới chết) một thời giải thốt , miễn việc xét xử .
Trước hết xin chúc cho Đại Thắng Minh Hồng Đế vĩnh viễn thống lãnh trời Nam, tiếp làm cho Khuơng Liễn luơn bền vững địa vị quý báu.
03/04/2005
PHẬT ĐỈNH TƠN THẮNG GIA CÚ LINH NGHIỆM ĐÀ LA NI
Hán văn : Bản ghi trên cột đá 8 mặt do Thái Tử Đinh Liễn dựng vào Thế kỷ X ( Bia số 9)
Việt dịch : HUYỀN THANH
Cúi lạy bàn hoa sen ngàn cánh
Tơn Thắng Vương trên Tịa Kim Cương
Tướng lưỡi rộng dài che tam thiên (3 ngàn Đại Thiên Thế Giới)
Hằng sa Cơng Đức đều viên mãn
Phật Đỉnh Văn Trì Đại Chương Cú
Chín mươi chín ức Như Lai truyền
Kiều Thi Ca (Đế Thích) vì Thiện Trụ Thiên
Hay diệt thất phản (7 lần trở lại) nẻo Bàng Sinh
Giáo bí mật Tổng Trì hiếm cĩ
Hay phát Tâm rộng lớn trịn sáng
Nay con đầy đủ là Phàm Phu
Khen ngợi Tổng Trì Tát Bà Nhã (Sarva jnà _Nhất Thiết Trí)
Hết thảy Phước Lợi cứu quần sinh
Các Như Lai ở khắp mười phương
Chư Bồ Tát nơi Thế Giới khác
Tám Bộ Trời Rồng các quyến thuộc
Tán Chỉ Đại Tướng với Dược Xoa
Minh Ty Địa Chủ, Diêm Ma La
Thiện Ác Bộ Quan: hai Đồng Tử
Thánh Hiền, các Chúng Đẳng như trên
Nguyện nghe khải thỉnh đều giáng lâm
Ủng hộ Phật Pháp khiến trường tồn
Mỗi mỗi siêng hành Thế Tơn Giáo
Hết thảy người nghe đến chốn này
Nghe qua Phật Đỉnh Tơn Thắng Vương
Hàm Linh nhung nhúc đều thành Phật
Nay con phúng tụng Chân Ngơn này
Nguyện xin Như Lai thường cứu hộ
PHẬT ĐỈNH TƠN THẮNG GIA CÚ LINH NGHIỆM ĐÀ LA NI là :
Nẵng mơ bà nga phộc đế
Đát lạt lộ chỉ dã
Bát la để vĩ sắt thủy tra dã
Một đà dã
Bà nga phộc đế
Đát nễ dã tha
Án
Vĩ thú đà dã, vĩ thú đà dã
Sa ma, sa ma
Tam mãn đa phộc bà sa
Sa phả la noa
Nga để, nga hạ nẵng, sa phộc bà phộc, vĩ truật đệ
A tị tru tá đổ hàm
Tố nga đa
Phộc la, phộc tả nẵng
A mật lật đa, tị sái kế
A hạ la, a hạ la
A dữu tán đà la ni
Thú đà dã, thú đà dã
Nga nga nẵng, vĩ truật đệ
Ơ sắt ni sái, vĩ nhạ dã, vĩ truật đệ
Sa hạ sa la, la thấp mính, tán tổ nễ đế
Tát phộc đát tha nga đa, Phộc lơ yết đế
Sa tra ba la mật đa, ba lị bố la ni
Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt lị đà dã
Địa sắt tra nẵng, địa sắt xỉ đa
Ma hạ mẫu nại lê
Phộc nhật la ca gia, tăng hạ đa nẵng, vĩ truat đệ
Tát phộc phộc la noa, ba gia, đột lật yết để , bạt lị truật đệ
Ba la để ni, vạt lị đa dã, a dục, truật đệ
Tam ma dã , địa sắt xỉ đế
Mâu nĩnh, mâu nĩnh
Vĩ mâu nĩnh, vĩ mâu nĩnh
Ma nĩnh, ma nĩnh, ma hạ ma nĩnh
Đát đạt đa, bộ đa, câu chi, bạt lị truật đệ
Vĩ sa phổ tra, một địa, truật đệ
Nhạ dã, nhạ dã
Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã
………………..
………………..
04/04/2005
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG GIA CÚ
LINH NGHIỆM ĐÀ LA NI
( Dựa theo bản ghi trên cột đá do Đinh Liễn tạo dựng ở Việt Nam)
Phục hồi và chú thích Phạn Văn : HUYỀN THANH
NAMO BHAGAVATE
Namo : Quy mệnh, Quy Y, kính lễ
Bhagavate : Đức Thế Tôn
TRAILOKYA
Trailokya : Ba cõi, ba đời
PRATIVI’SISÏTÏÀYA
Prativi’sisïtïa : Tốt hơn, đặc biệt, kỳ dị, rất thù thắng
Aya : Nhóm, đẳng, hàng
BUDDHÀYA
Buddha : Bậc giác ngộ
BHAGAVATE
Phần trên có nghĩa là : Quy mệnh Đức Thế Tôn là Đấng Thế Tôn Giác Tuệ cao cả của ba cõi
TADYATHÀ
Tadyathà : Như vậy, liền nói Thần Chú là
OMÏ
Omï: Ba Thân, Quy Mệnh, Cúng dường, Cảnh giác, nhiếp phục
VI’SODHAYA VI’SODHAYA
Vi’sodhaya : Các nhóm thanh tịnh
ASAMA SAMA
Sama : Đẳng, hàng
Asamasama : Vô đẳng đẳng , không có hàng nào có thể ngang bằng
Phần trên có nghĩa là : Như vậy : OM ! thanh tịnh, thanh tịnh không có gì sánh bằng
SAMANTA AVABHÀSA
Samanta : Khắp tất cả, phổ biến
Ava :Phía bên dưới
Bhàsa : Aùnh sáng, sáng rực, sự vinh quang, sáng sủa rực rỡ
SPHARANÏA
Spharanïa : Chu biến, vòng khắp cả, tràn đầy vòng khắp
GATI GAHÀNA
Gati : Lối đi, hướng đi, lối nẻo
Gahàna : Rừng đông đúc
SVABHÀVA VI‘SUDDHE
Svabhàva : Tự tính , tính tự nhiên vốn có
Vi’suddhe : Khiến cho thanh tịnh, làm cho thanh tịnh
Phần trên có nghĩa là : Tỏa sáng rực rỡ khắp nơi khiến cho muôn loài trong sáu nẻo luân hồi đều được thanh tịnh
ABHISÏIMÏCA TUMÀMÏ
Abhisïimïca : Quán đỉnh, rưới rót lên đỉnh đầu
Tumàmï : cho tôi
SUGATA
Sugata : Đấng Thiện Thệ, bậc khéo đến nẻo lành. Đây là một trong 10 Hiệu của Bậc Chính Đẳng Chính Giác
VARA VACANA
Vara : Ban cho thuận theo khuôn khổ , y theo giới hạn, Vùng kiểm soát, khoảng không gian, vòng rào bao bọc, căn phòng
Vacana : Lời nói, người diễn nói, hùng biện, phát biểu bày tỏ, nói có ý nghĩa, ngôn từ
AMRÏTA ABHISÏEKAI
Amrïta : Bất tử, không bao giờ bị chết. Thường dịch là Cam Lộ
Abhisïekai còn viết là Abhisïaikai:Quán đỉnh, rưới rót lên đỉnh đầu
MAHÀ MANTRA PADA
Mahà : Đại, to lớn
Mantra : Thần Chú
Pada hay padai : Câu cú
Phần trên có nghĩa là : Hỡi Đấng Thiện Thệ ! Hãy ban cho tôi lời nói là câu Đại Thần Chú Quán Đỉnh Bất Tử
ÀHARA ÀHARA
Àhara :Nhiếp thọ
ÀYUHÏ SANDHÀRANÏÌ
Aøyuhï : Thọ mệnh
Dhàranïì : Tổng trì, gìn giữ tổng quát
Sandhàranïì : Giữ gìn bền chắc
Phần trên có nghĩa là : Hãy nhiếp thọ ! Nhiếp thọ cho tôi giữ gìn vững chắc thọ mệnh
‘SODHAYA ‘SODHAYA _ GAGANA VI’SUDDHE
Gagana : Hư Không
Phần trên có nghĩa là : Thanh tịnh, thanh tịnh. Khiến cho thanh tịnh như hư không
USÏNÏÌSÏA VIJAYA VI’SUDDHE
Usïnïìsïa : Đỉnh kế, khối thịt u lên trên đỉnh đầu. Đây chỉ cho Phật Đỉnh
Vijaya : Tôn Thắng , Tối Thắng
SAHASRA RA’SMI
Sahasra : một ngàn ( 1000 )
Ra’smi : Dây băng, chuỗi, dây cương, tín hiệu, tia sáng, chiếu rọi rạng rỡ
SAMÏSUDÌTI SARVA TATHÀGATA
Sudìti : Sáng sủa, rạng rỡ, lanh lợi, chói lọi, ngọn lửa, sáng chói, chiếu sáng
Samïsudìti : Tỏa ánh sáng nhắc nhở, cảnh giác
Sarva : tất cả
Tathàgata : Đức Như Lai, bậc đã đạt được Chân Như
Phần trên có nghĩa là : Phật Đỉnh Tôn Thắng khiến cho thanh tịnh, tỏa ngàn ánh sáng cảnh giác tất cả Như Lai
AVALOKANA SÏATÏPÀRAMITÀ PARIPÙRANÏI
Avalokana : Nhìn, quan sát, xem xét, nhận xét, chú ý
Pàramità : Bờ bên kia, thường dịch là Ba La Mật ( Độ ) là Pháp tu của hàng Bồ Tát
Sïatïpàramità : Sáu Ba La Mật
Paripùranïi : Đều đầy đủ
Phần trên có nghĩa là : Quán chiếu sáu Ba La Mật đều được đầy đủ
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA
Hrïdaya : Trái tim
ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE MAHÀ MUDRÌ
Adhisïtïana : Thần Lực
Adhisïtïite : Gia trì
Mudra : Ấn
Mahà mudrì : Có tính như Đại Ấn
Phần trên có nghĩa là : Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm
VAJRA KÀYA
Vajra : Kim Cương
Kàya : Thân thể
SAMÏHATANA VI’SUDDHE
Samïhatana : Hòa hợp với nhau, kết hợp với nhau, mến chuộng nhau, kề cận nhau
Phần trên có nghĩa là :Hòa hợp với Thân Kim Cương khiến cho thanh tịnh
SARVA AVARANÏA PAYA DURGATI PARI’SUDDHE
Avaranïa : Sự chướng ngại
Paya : Lối đi, đường đi
Durgati : Lối nẻo xấu ác
Sarva avaranïa paya durgati : Tất cả lối đi đầy chướng ngại , tất cả lối nẻo xấu ác. Trong Phật Giáo thường gọi lối đi đầy chướng ngại xấu ác này là Nghiệp chướng, Báo chướng, phiền Não chướng
Phần trên có nghĩa là : Khiến cho Nghiệp chướng, Báo Chướng, Phiền Não Chướng đều được thanh tịnh
PRATINI VARTTÀYA ÀYUHÏ ‘SUDDHE
Pratini :Tăng trưởng
Varttàya : Xoay chuyển, vận chuyện
Phần trên có nghĩa là : Thọ mệnh tăng trưởng được thanh tịnh
SAMAYA ADHISÏTÏITE
Samaya : Bình đẳng, Bản thệ ( Lời thề của mình )
MUNÏI MUNÏI MAHÀ MUNÏI
Munïi:Tịch mặc
Mahà munïi : Đại tịch mặc
Phần trên có nghĩa là: Tịch mặc, tịch mặc, đại tịch mặc. Biểu thị cho trạng thái tu tập Thiền Định của ba Thừa.
VIMUNÏI VIMUNÏI MAHÀ VIMUNÏI
Vimunïi: Khiến cho đạt được sự tịch mặc
Phần trên có nghĩa là: Khiến cho tất cả đạt được sự tịch mặc của Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Phật Thừa
MANÏI MANÏI MAHÀ MANÏI
Manïi : Viên ngọc Như Ý biểu thị cho giá trị vô thượng, nhờ nó mà mọi ước nguyện được thỏa mãn. Tuy nhiên ngay từ hình thức ban đầu, Phật Giáo đã xác nhận giá trị vô thượng là sự giác ngộ viên mãn. Nhờ vào ánh sáng tỏa rạng từ sự giác ngộ mà mọi tâm thức mê mờ của tâm thức không còn khả năng trói buộc con người chìm đắm trong dòng sinh tử khổ đau nữa. Chính vì thế cho nên người nào tìm thấy trong tâm có viên ngọc Như Ý thì nó sẽ tỏa rạng Trí Tuệ giác ngộ. Dựa trên ý nghĩa này mà Manïi còn biểu thị cho Trí Tuệ giải thoát. Cũng do ý nghĩa này nên trong bài Chú do Ngài PHÁP THIÊN lưu truyền đã thay chữ Manïi bằng chữ Mati ( Tuệ)
Phần trên có nghĩa là: Chứng đắc được Trí Tuệ Giải Thoát của ba Thừa.
TATHÀTÀ BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE
Tathàtà : Chân Như Tính
Bhùta kotïi : Chân thật tế cực, tức chỉ đoạn lìa hư vọng là Niết Bàn chân chứng. Hay thường gọi là thật tế
Phần trên có nghĩa là : Tính Chân Như Thật Tế đều thanh tịnh
VISPHUTÏA BUDDHI ‘SUDDHE
Visphutïa : Hiển hiện
Buddhi : Tuệ Giác
Phần trên có nghĩa là : Hiển hiện Tuệ Giác Thanh Tịnh
JAYA JAYA
Jaya : Thù thắng, thắng
Jaya jaya : biểu thị cho Chân Đế và Tục Đế
VIJAYA VIJAYA
Vijaya : Tôn Thắng, tối thắng
Vijaya vijaya : biểu thị cho Bi Môn và Trí Môn
SMARA SMARA
Smara : Ghi nhớ, niệm trì
Smara smara : biểu thị cho Định Tuệ tương ứng
SARVA BUDDHA ADHISÏTÏITA ‘SUDDHE
Tất cả chư Phật gia trì thanh tịnh
VAJRÌ VAJRAGARBHE VAJRAMÏ BHAVATU MAMA ‘SARIRAMÏ
Vajrì : Có Tính như Kim Cương
Vajragarbhe : Kim Cương Tạng
Vajramï Bhavatu : Được thành Kim Cương
Mama : Tôi ( Xưng tên họ… )
‘Sariramï : Toàn thân
Phần trên có nghĩa là : Thù thắng , thù thắng. Tôn thắng, tối thắng . Niệm trì, niệm trì
Tất cả chư Phật gia trì thanh tịnh khiến cho thân của tôi có được tính như Kim Cương, chứng Kim Cương Tạng và được thành Kim Cương
SARVA SATVÀNÀMÏCA KÀYA PARI’SUDDHE
Satva : Hữu Tình
Kàya : Thân xác
SARVA GATI PARI’SUDDHE
Phần trên có nghĩa là : Tất cả thân của chúng Hữu Tình đều được thanh tịnh. Tất cả các nẻo đều được thanh tịnh
SARVA TATHÀGATA’SCA ME SAMA ‘SVASA YAMÏTU
Tathàgata’sca : Như Lai Đẳng
Me sama : Ngã Đẳng, nhóm chúng tôi
‘Svasa : An ủi
Yamïtu : Đi đến
Phần trên có nghĩa là : Tất cả Như Lai đi đến an ủi chúng tôi
SARVA TATHÀGATA SAMA ‘SVASA ADHISÏTÏITE BUDDHYA BUDDHYA VIBUDDHYA VIBUDDHYA
Buddhya : Giác ngộ, tỉnh ngộ
Vibuddhya : Khiến cho giác ngộ, khiến cho tỉnh ngộ
Phần trên có nghĩa là : Tất cả Như Lai gia trì khiến cho con tỉnh ngộ giác ngộ, khiến cho tất cả được tỉnh ngộ, được giác ngộ
BODHAYA BODHAYA
Bodhaya : Tuệ Giác, Trí Giác
VIBODHAYA VIBODHAYA
Vibodhaya : Khiến cho có Tuệ Giác, khiến cho có Trí Giác
SAMANTA PARI’SUDDHE
Khắp cả đều được thanh tịnh
SARVA GATI PARI’SUDDHE
Tất cả lối nẻo đều được thanh tịnh
Phần trên có nghĩa là : Tuệ Giác ,Trí Giác. Khiến cho tất cả đều có Tuệ Giác, khiến cho tất cả đều có Trí Giác. Khắp nơi đều được thanh tịnh, tất cả lối nẻo đều được thanh tịnh.
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE MAHÀ MUDRÌ SVÀHÀ
Svàhà : Quyết định thành tựu, thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết bàn
Phần trên có nghĩa là : Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm khiến cho tôi thành tựu được tự tính an lạc của Đại Niết Bàn
* ) Phiên dịch toàn bài Phật Đỉnh Tôn Thắng Gia Cú Linh Nghiệm Đà La Ni là :
Nam mô Đấng Thế Tôn !
Đấng Thế Tôn Đại Giác cao cả của Tam Giới !
Như vậy : OM !
Thanh tịnh, thanh tịnh không có gì sánh bằng
Tỏa sáng rực rỡ khắp nơi khiến cho muôn loài trong sáu nẻo luân hồi đều được thanh tịnh.
Hãy quán đỉnh cho con !
Hỡi Đấng Thiện Thệ tối cao !
Hãy ban cho con lời thù thắng là câu Đại Thần Chú Quán Đỉnh Bất Tử
Hãy nhiếp thọ ! Nhiếp thọ cho con giữ gìn vững chắc thọ mệnh
Thanh tịnh, thanh tịnh. Khiến cho thanh tịnh như hư không
Phật Đỉnh Tôn Thắng khiến cho thanh tịnh, tỏa ngàn ánh sáng cảnh giác tất cả Như Lai
Quán chiếu sáu Ba La Mật đều được đầy đủ
Thần Lực Gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm hòa hợp với thân Kim Cương khiến cho thanh tịnh.
Khiến cho tất cả Nghiệp Chướng, Báo Chướng, Phiền Não Chướng đều được thanh tịnh.
Thọ mệnh tăng trưởng đều được thanh tịnh
Thệ nguyện gia trì sự tịch mặc của ba Thừa, thâm nhập vào sự tịch mặc của ba Thừa, chứng đắc Pháp Bảo của ba Thừa.
Tính Chân Như Thật tế tràn đầy muôn ngàn thanh tịnh
Hiển hiện Tuệ Giác thanh tịnh
Thù thắng , thù thắng
Tôn Thắng, Tối Thắng
Niệm trì, niệm trì
Tất cả chư Phật gia trì thanh tịnh khiến cho thân của con ( Họ tên… ) có tính như Kim Cương, chứng Kim Cương Tạng và được thành Kim Cương.
Tất cả thân Hữu Tình đều được thanh tịnh
Tất cả các nẻo đều được thanh tịnh
Tất cả Như Lai đi đến an ủi chúng con
Tất cả Như Lai an ủi gia trì khiến cho con được giác ngộ, được tỉnh ngộ. Khiến cho tất cả được giác ngộ, được tỉnh ngộ.
Khiến cho con được Tuệ Giác, được Trí Giác
Khiến cho tất cả đều được Tuệ Giác, được Trí Giác
Khắp nơi đều được thanh tịnh
Tất cả các nẻo đều được thanh tịnh
Thần Lực gia trì có tính như Đại Ấn của tất cả Như Lai Tâm khiến cho con thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.
04/05/2005
Mật Tạng Bộ 2 _ No.978 ( Tr.407_ Tr.409 )
PHẬT THUYẾT NHẤT THIẾT NHƯ LAI Ô SẮT NỊ SA TỐI THẮNG TỔNG TRÌ KINH
Hán dịch : Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_ Triều Tán Đại Phu Thí Hồng Lô Khanh_ Truyền Pháp Đại Sư PHÁP THIÊN Phụng chiếu dịch
Việt dịch : HUYỀN THANH
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngồi an lành trong Pháp Đường Đại Thiện ở cõi Cực Lạc của Phật . Bấy giờ , Đức Vô Lượng Thọ Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác bảo Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát rằng :” Này Thiện Nam Tử ! Vì lợi ích cho hết thảy mọi chúng sinh bị bệnh tật , khổ não, đoản thọ nên đã có Pháp Môn Tổng Trì Nhất Thiết Như Lai Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng . Nếu có người thọ trì đọc tụng sẽ mau được sống lâu, không bệnh, an vui”.
Lúc đó, Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát từ chỗ ngồi đứng dậy , chắp tay cung kính bạch Phật rằng :” Nay con vui muốn nghe về Pháp Môn Tổng Trì Nhất Thiết Như Lai Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng này. Nguyện xin Đấng Thiện Thệ hãy khéo nói”
Khi ấy, Đức Thế Tôn quán sát chúng Trời Người trong Đại Hội xong, liền nhập vào Phổ Chiếu Cát Tường Tam Ma Địa . Khi ra khỏi Định liền nói Pháp Môn Nhất Nhiết Như Lai Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng này là :
Aùn_ Nẵng mô bà nga phộc đế
Tát lị-phộc đát-lạt lộ chỉ-dã, bát-la để vĩ thủy sắt-tra dã. Một đà dã đế nẵng mộ
Đát nễ-dã tha : Aùn_ Bộ-long, bộ-long, bộ-long
Du đạt dã, du đạt dã
Vĩ du đạt dã, vĩ du đạt dã
A tam ma, tam mãn đa , phộc bà sa, tát-phả la noa, nga để
Nga nga nẵng, sa bà phộc, vĩ thú đề, a tỳ tru tả đỗ hàm
Tát lị-phộc đát tha nga đa, tô nga la, phộc la, phộc tả nẵng
Một-lị đa tỳ thí khế, ma hạ mẫu nại-la , mãn đát-la , ba nại
A hạ la, a hạ la
A dục, tán đà la ni
Du đạt dã, du đạt dã
Nga nga nẵng , sa bà phộc, vĩ thú đề
Ô sắt-nị sa vĩ nhạ dã , ba lị thú đề
Sa hạ tát-la thấp-di , tán tổ nễ đế
Tát lị-phộc đát tha nga đa, phộc lộ cát nễ, sa tra bà la di đa, ba lị bố la ni
Tát lị-phộc đát tha nga đa ma đế , nại xá bộ di, bát-la để sắt-trí đế
Tát lị-phộc đát tha nga đa, ngật-lị na dã
Địa sắt-tra nẵng, địa sắt-trí đế
Mẫu nại-lị, mẫu nại-li, ma ha mẫu nại-lị
Phộc nhật-la ca dã, tăng hạ đa nẵng, bà lị thú đề
Tát lị-phộc ca lị-ma phộc la noa, vĩ thú đề
Bát-la để nễ, phộc lị-đa dã dục , vĩ thú đề
Tát lị-phộc đát tha nga đa tam ma dã
Địa sắt-tra nẵng, địa sắt-trí đế
Aùn_ Mâu nễ, mâu nễ, ma hạ mâu nễ
Vĩ mẫu nễ, vĩ mẫu nễ, ma hạ vĩ mẫu nễ
Ma để, ma để, ma hạ ma để
Đát tha đa, bộ đa câu trí, ba lị thú đề
Vĩ sa-phổ tra , một đề, thú đề
Tứ tứ
Nhạ dã, nhạ dã
Vĩ nhạ dã, vĩ nhạ dã
Sa-ma la, sa-ma la
Sa-phả la, sa-phả la
Tát lị-phộc một đà, địa sắt-tra nẵng, địa sắt-trí đế
Thú đề, thú đề
Một đà
Phộc nhật-lị, phộc nhật-lị, ma hạ phộc nhật-lị
Tô phộc nhật-lị
Phộc nhật-la, nga lị-tỳ
Nhạ dã, nga lị-tỳ
Vĩ nhạ dã, nga lị-tỳ
Phộc nhật-la, nhập-phộc la, nga lị-tỳ
Phộc nhật lỗ nại-bà phệ
Phộc nhật-la, tam bà phệ
Phộc nhật-lị , phộc nễ ni
Phộc nhật-lãm, bà phộc đổ
Ma ma ( Xưng tên… )
Xá lị lãm, tát lị-phộc tát đỏa nan tả, ca dã, ba lị thú đề
Lị-bà phộc đổ, di, tát na
Tát lị-phộc nga để, ba lị thú đề, thất tả
Tát lị-phộc đát tha nga đa , thất tả, hàm
Tam ma thấp-phộc sa, diễn đổ
Một đình, một đình
Tất đình
Mạo đạt dã, mạo đạt dã
Vĩ mạo đạt dã, vĩ mạo đạt dã
Mô tả dã, mô tả dã
Vĩ mô tả dã, vĩ mô tả dã
Du đạt dã, du đạt dã
Vĩ du đạt dã, vĩ du đạt dã
Tam mãn đa lị-mộ tả dã
Tam mãn đa , la thấp-di, ba lị thú đề
Tát lị-phộc đát tha nga đa, ngật-lị na dã, địa sắt-tra nẵng, địa sắt-trí đế
Mẫu nại-lị, mẫu nại-lị, ma hạ mẫu nại-lị
Mãn đát-la , ba nễ, sa-phộc hạ
Này Thiện Nam Tử ! Pháp Môn Tổng Trì Nhất Thiết Như Lai Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng này hay làm tăng tuổi thọ, tiêu trừ tội nghiệp, mau được thanh tịnh.
Nếu dùng lụa trắng hoặc vỏ cây hoa viết chép Pháp Môn Tổng Trì này rồi đặt bên trong cái Tháp, tác cúng dường rộng lớn.Cúng dường xong, nhiễu quanh bên phải 1000 vòng cung kính lễ bái, tùy theo khả năng tác cúng dường sẽ được tăng Trí Tuệ. Nếu tác đủ 7 ngày thì tuổi thọ tăng thêm 7 năm. Nếu tác đủ 7 năm thì tuổi thọ tăng thêm 70 năm. Đã được sống lâu như vậy sẽ an vui không có bệnh tật, được Túv Mệnh thông minh, ghi nhớ chẳng quên. Nếu đội trên đỉnh đầu sẽ được tiêu trừ tội chướng thuở trước.
Lại nữa, nếu trên lụa sạch hay vỏ cây hoa dùng Ngưu Hoàng viết Tổng Trì này với tên họ của mình rồi lấy Chiên Đàn làm cái Tháp chứa Tổng Trì này và đặt bên trong cái phòng. Xong rồi, liền phụng hiến cúng dường rộng lớn, nhiễu quanh Tháp 1000 vòng, tụng Tổng Trì này 800 biến sẽ tiêu trừ mọi bệnh, sống lâu trăm tuổi.
Lại nữa, nếu không có Chiên Đàn thì dùng bùn sạch mà làm cái Tháp. Bên trong Tháp vẽ cái chày Yết Ma , bên ngoài vẽ 4 vị Thủ Hộ 4 cửa của Kim Cương Giới, chính giữa viết tên của mình và đặt Tổng Trì này sẽ được Công Đức như trước không khác.
Hoặc dùng Ngưu Hoàng viết Tổng Trì này đặt ở trong vật khí sạch sẽ, bên trong lại lấy vật sạch che đậy rồi đặt trong căn phòng, tác cúng dường rộng lớn sẽ được vệ hộ không có tai nạn.
Lại nữa, nên dùng Cù Ma Di không bị dính đất cát làm 4 Man Noa La (Manïdïala_ Đàn ) hình vuông, đem hoa màu trắng rải bên trên, đốt bơ trong 4 cái chén để thắp đèn và đặt 4 cái chén đèn ở 4 góc Đàn. Đốt Trầm Hương, Nhũ Hương và lấy cái bát chứa đầy nước Ứ Già . Lại lấy hoa trắng kết thành tràng hoa, đem Tổng Trì này để trong cái Tháp hoặc bên trong bức tượng Công Đức rồi đặt trên Đàn. Người Trì Tụng dùng tay trái đè Đàn, tay phải cầm tràng hạt, một ngày 3 thời tụng Tổng Trì này 21 biến gia trì vào 3 hớp nước rồi tự uống vào sẽ hay trừ các bệnh, sống lâu trăm tuổi, giải các oán kết, được âm thanh màu nhiệm, được biện tài vô ngại, đời đời được Túc Mệnh Thần Thông.
Nếu đem nước sạch đã gia trì lúc trước rưới vảy ở cung vua hoặc nhà cửa của mình cho đến bò ngựa… thuộc nơi cư trú sẽ mau chóng trừ khử được nạn La Sát, Rồng, Rắn… Thường được vệ hộ, xa lìa các sự sợ hãi.
Nếu có bệnh khổ, lấy nước rưới trên đỉnh đầu sẽ vĩnh viễn tiêu trừ được tất cả bệnh nặng.
Như vậy khen ngợi Đại Tổng Trì vô lượng. Nếu làm y như vậy ắt được thành tựu.
Lại lấy cành Dương Liễu, dùng Tổng Trì này gia trì 21 biến rồi đem xỉa răng sẽ được không bệnh, thông minh, sống lâu.
Lại đem vật khí sạch chứa đầy nước, gia trì 21 biến. Một ngày 3 thời uống 3 hớp nước, một lần uống một lần gia trì một biến, sẽ trừ tất cả bệnh , an vui, sống lâu”
Bấy giờ, Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát nhiễu quanh Đức Phật Vô Lượng Thọ ba vòng rồi chắp tay cung kính bạch Phật rằng :” Thế Tôn ! Làm thế nào mà kẻ trai lành, người nữ thiện tạo được hình tượng Phật, Tháp Miếu, và tác Hộ Ma thành tựu ? Nguyện xin Đức Thế Tôn hãy dạy bảo”
Đức Phật bảo Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát rằng:’ Lành thay ! Lành thay ! Này Vô Úy ! Oâng hãy một lòng lắng nghe ! Như ông đã hỏi, Ta sẽ vì ông mà nói”
Khi ấy, Đức Vô Lượng Thọ Như Lai cũng nhập vào Phổ Chiếu Cát Tường Tam Ma Địa . Từ Định xuất ra, liền nói Pháp Môn Tổng Trì Nhất Thiết Như Lai Vô Lượng Thọ là :
“ Aùn_ A mật-lị đế, a mật-lị đế, a mật-lị đổ nại-bà phệ, a mật-lị đa vĩ ngật-lan đế, a mật-lị đa dụ lị-na nễ, nga nga nẵng kế lị-đế yết lị, Tát lị-phộc cát-lê xá, xao diễn yết lị duệ, sa-phộc hạ”
OMÏ _ AMRÏTE AMRÏTE _ AMRÏTA UDBHAVE _ AMRÏTA VIKRANTE _ AMRÏTA AYURJNÕÀNA _ GAGANA KIRTTI KARI_ SARVA KLE’SA KSÏAYAMÏ KARIYE _ SVÀHÀ
Lúc Đức Vô Lượng Thọ Như Lai nói Pháp Môn này xong, liền bảo Bồ Tát rằng:” Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện nào đem Pháp Môn này gia trì vào đất sạch hòa chung với nước làm bùn. Lại liền gia trì rồi đem bùn ấy làm cái Tháp cho đến Tướng Luân. Theo thứ tự gia trì và phụng hiến cúng dường sẽ hay được ích lợi thù thắng rộng lớn.
Lại có Pháp về Tháp Miếu tối thượng. Hoặc dùng vàng bạc làm Tháp, Lưu Ly làm Tháp, Bát Nạp Ma La Nga Bảo làm Tháp, cho đến dùng mọi loại châu báu làm Tháp. Y như Pháp trang nghiêm cao 12 ngón tay, đặt ở tòa sen. 4 mặt Tháp bày 4 vị Thiên Vương Hộ Thế có tay cầm phướng. Ở trước mặt Tháp đặt Đế Thích Thiên Chủ có tay cầm cây cung. Lại đặt Tĩnh Cư Thiên Tử có tay cầm hương hoa với hương xoa…Ở mặt bên trái Tháp đặt Quán Tự Tại Bồ Tát , bên phải đặt Kim Cương Thủ Bồ Tát đều cầm cây phất trần trắng. Như vậy là nghi thức về Tháp.
Lại nữa, vẽ riêng một hoa sen, chung quanh viết Tổng Trì Nhất Thiết Như Lai Ô Sắt Nị Sa này đặt bên trong Tháp, dùng nước thơm rưới vảy cho sạch sẽ, phụng hiến hương hoa vi diệu, làm 1000 loại cúng dường.
Nếu muốn vì lợi ích cho tất cả chúng sinh được tăng thọ mệnh, tăng thêm Trí Tuệ thì vào ngày mồng 8 của kỳ Bạch Nguyệt, ngày đêm khiết tĩnh , giữ gìn Trai Giới. Sau đó ở trước mặt Tháp báu tụng Tổng Trì này 1000 biến , mỗi ngày như vậy, mãn 6 tháng sẽ được sống lâu 1000 tuổi. Hoặc chí thành tinh tiến ngày đêm trì tụng sẽ được sống lâu thọ đủ một Lạc Xoa tuổi. Hoặc ngày ngày trì tụng sẽ tăng thọ vô lượng, có thế lực lớn không khác với Thiên Nhân, A Tu La… bay trên hư không tự tại, đạt được mọi Công Đức như vậy.
Lại có Nghi Quỹ. Ở nơi vắng lặng thanh tịnh, lấy đất sạch hòa với nước thơm làm bùn rồi tạo thành cái Tháp. Hoặc 1,2,3,4,5… cho đến đủ 100, 1000 cái Tháp. Viết Tổng Trì lúc trước đặt bên trong Tháp, làm trăm ngàn loại cúng dường rộng lớn, tụng Tổng Trì này 700 biến sẽ tăng Trí Tuệ, sống lâu vô lượng.
Hoặc vì tất cả chúng sinh bị gông cùm, xiềng xích, cột trói… tụng Tổng Trì này thì họ liền được giải thoát.
Lại nữa, nếu có chúng sinh ở trước Tháp Tổng Trì cúng dướng gấp bội, ngày ngày tụng đủ 800 biến, phát Tâm bình đẳng, lợi mình lợi người. Như vậy y theo Pháp sẽ tiêu trừ 8 nạn, thường được an vui, sống lâu trăm tuổi, mọi người yêu thích, chẳng bao lâu sẽ được Túc Mệnh Thần Thông. Sau khi chết, người đó chẳng bị sinh vào các nẻo ác: Địa Ngục, Súc Sinh, Diêm Ma La Giới giống như con rắn lột da liền được sinh về cõi Phật Cực Lạc, được quả báo lớn , thọ thắng diệu lạc… chẳng thể nói hết được.Người đó chẳng hề nghe đến tiếng Địa Ngục huống chi bị sinh vào cõi đó”.
Bấy giờ, Đức Vô Lượng Thọ Như Lai liền nói về Pháp Thành Tựu Tranh Tượng khiến cho các chúng sinh được sống lâu vô lượng, xa lìa Luân Hồi, giải thoát mọi khổ. Trước tiên, nhờ một đồng nữ khiết tịnh se chỉ dệt thành mảnh lụa có thước tấc y theo Pháp, dùng màu sắc thật tốt vẽ hình tượng Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng Tổng Trì Công Đức ấy kèm với chữ vi diệu. Đem Tượng đặt trong Tháp, thân tượng có ngàn ánh sáng ngồi ở tòa sen trong vành trăng, tất cả đều trang nghiêm. Tượng có khuôn mặt như trăng tròn đầy. Tượng có 3 mặt, 3 mắt, 3 cánh tay. Mặt bên phải có tướng hiền lành màu vàng ròng. Mặt bên trái có tướng phẫn nộ, lộ răng nanh bén nhọn, có màu hoa sen xanh. Mặt chính giữa tròn đầy có màu trắng. Bên phải: tay thứ nhất cầm chày Yết Ma, tay thứ hai cầm hoa sen xanh bên trên có Đức Phật Vô Lượng Thọ, tay thứ ba cầm mũi tên,tay thứ tư tác Ấn Thí Nguyện.Bên trái: Tay thứ nhất tác Kim Cương Quyền cầm sợi dây và dựng thẳng ngón trỏ, tay thứ hai cầm cây cung, tay thứ ba tác Ấn Vô Úy , tay thứ tư cầm cái bình và đỉnh bình đội cái Tháp. Trên cổ Tượng đặt chữ Aùn ( _Omï ) , trên trái tim đặt chữ A ( _ A ) , trên trán đặt chữ Đát-lam ( _ Tràmï ) , trên bàn chân đặt chữ Ngật-lị ( _ Hrìhï) ác ( _ Ahï) a ( _ A ) la xoa ( _ Raksïa ) sa-phộc hạ ( _ Svàhà ) làm ủng hộ. Ở bên dưới Chân Ngôn viết họ tên của mình. Hai bên Tượng, vẽ Quán Tự Tại Bồ Tát và Kim Cương Thủ Bồ Tát đều cầm cây phất trần trắng. Ở mặt trên của Tượng, vẽ Tĩnh Cư Thiên Nhân tuôn giáng mưa Cam Lộ. Ở 4 mặt tranh, vẽ Phẫn Nộ Kim Cương Bất Động Tôn Minh Vương, Tra Chỉ Minh Vương, Nễ La Nan Noa Minh Vương, Đại Lực Minh Vương đều cầm kiếm, móc câu, chày Kim Cương, Gậy Kim Cương khiến giáng Aùc Ma. Như vậy chí Tâm vẽ Tượng.
Lúc Hành Nhân tác Pháp này, trước tiên chí Tâm ở trước Tháp Xá Lợi trải qua một ngày đêm tinh trì Trai Giới. Liền ở trước Tượng hiến 1000 loại cúng dường. Từ ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt thì bắt đầu tụng Tổng Trì này một Lạc Xoa ( 100000 biến ) đến ngày 15 lại hiến 1000 loại cúng dường. Vào lúc sáng sớm thì Thánh Tượng Tổng Trì sẽ hóa hiện trước mặt người đó, ắt tất cả sự mong cầu đều được thành tựu.
Lại nữa, đem tranh tượng Tổng Trì này đặt ở nơi tịch tĩnh, dùng nước thơm rưới vảy sạch sẽ, hiến dâng cúng dường. Một ngày tụng Tổng Trì này 800 biến. Lại mỗi tháng , một ngày hiến 1000 loại cúng dường, tụng Tổng Trì 1000 biến sẽ được sống lâu vô lượng, có uy thế , tự tại bay trên hư không, một ngày ghi nhớ 1000 lời Kệ, chẳng bị điên đảo, hay khử tất cả tội nặng của Hữu Tình.
Nếu có người chẳng thể tác Pháp như trên, chỉ có thể làm trong phòng xá của mình thì vào ngày mồng 8 của kỳ Bạch Nguyệt dùng nước thơm rưới vảy tranh tượng cho sạch sẽ và tùy theo khả năng mà cúng dường. Xong chí Tâm ở trước Tượng tụng Tổng Trì này từ 700 đến 800 biến. Mỗi ngày 3 thời lại tụng 21 biến sẽ tăng trưởng Trí Tuệ, không có bệnh, an vui, sống lâu trăm tuổi, được Túc Mệnh Thần Thông.
Nếu tự mình chẳng có thể tác Pháp trì tụng thì thỉnh người khác làm cũng được sống lâu, thông minh, Trí Tuệ.
Lại có Pháp Hộ Ma vì lợi ích cho Hữu Tình. Làm một lò lửa hình tròn rộng một khuỷu , sâu 12 ngón tay, bên ngoài dùng chày Kim Cương làm giới hạn. Dùng hương Bạch Đàn, đất màu trắng hòa với nhau làm bùn để tô trét. Đem hoa trắng rải bên trong lò, ở 4 bên lò đặt 4 chén đèn dầu, liền đem hương hoa cúng dường 4 mặt. Lại để cái bình Ứ Già tế diệu như Pháp, ở đỉnh cái bình dùng áo màu trắng quấn quanh rồi đem hoa quả, cành cây đặt ở miệng bình. Cây thuộc loại có nhựa trắng, lấy cành màu xanh dài 12 ngón tay, lại lấy củi khô cùng thiêu đốt. Liền Thỉnh Triệu Hỏa Thiên ( Agni Deva ). Khi Thỉnh Cầu dùng 3 muỗng bơ ném 3 lần vào trong lò, tùy theo từng muỗng tụng Hỏa Thiên Chân Ngôn gia trì, sau đó Phát Tống ( Đưa tiễn ) Hỏa Thiên. Liền quán tưởng Đức Vô Lượng Thọ Như Lai rõ ràng ở bên trong lò, lại tụng Pháp Môn Tổng Trì Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng. Lại tác Pháp như trước, lấy 3 muỗng bơ ném vào trong lò, tụng Chân Ngôn là :
“ Aùn_ A di đa du lị-nại na, sa-phộc hạ”
OMÏ_ AMITÀYURJNÕÀNA _ SVÀHÀ
( Quy mệnh Vô Lượng Thọ Trí, thành tựu cát tường )
Nên dùng ngũ cốc, dùng 3 ngón tay nhúm lấy một chút ngũ cốc rồi tẩm với bơ, xưng nguyện ước mong cầu , tụng Chân Ngôn một biến rồi ném vào trong lò, như vậy đến 800 biến. Một ngày 3 thời tác Pháp như thế. Lại tụng Tổng Trì Nhất Thiết Như Lai Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng sẽ lìa tất cả bệnh, thông minh, tăng tuổi thọ. Tùy theo điều cầu nguyện không có gì không thành tựu.
Hoặc vào ngày mồng 8, ở trước Tranh Tượng , một ngày 3 thời làm Pháp Hộ Ma, tụng Chân Ngôn này 1000 biến sẽ sống lâu 1000 tuổi. Điều cần nhớ là không được gây tổn hại cho Hữu Tình và luôn hành bố thí.
Nghi Quỹ như vậy hay giáng phục oan gia, tăng trưởng Trí Tuệ, được âm thanh vi diệu. Nếu tự mình chẳng có thể làm thì thỉnh người khác làm giùm, cũng ngưng trừ tất cả tai họa ác.
Lại có Pháp Thành Tựu. Như trước lấy ngũ cốc làm Pháp Hộ Ma, liền tụng Tổng Trì Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng một Lạc Xoa. Tác Hộ Ma xong, lại tụng một Lạc Xoa sẽ được sống lâu một Lạc Xoa tuổi cho đến một Câu Đê tuổi ( một trăm triệu tuổi ) hoặc vô lượng tuổi, tự tại bay trên hư không, giáng phục Ma Oán.
Nếu cầu phú quý cát tường thì tác Pháp Hộ Ma như trước, tụng Tổng Trì một Lạc Xoa sẽ vĩnh viễn được giàu có lớn.
Nếu cầu Quan Vị, dùng hoa sen tác Hộ Ma một Lạc Xoa sẽ được Quan Vị.
Lại có Pháp thành tựu Kiếm ( Cây Kiếm ) Đem Tranh Tượng lúc trước đặt ở trước Tháp Xá Lợi, hiến 1000 loại cúng dường, tụng Tổng Trì này một Lạc Xoa, lấy 5 loại thiếc làm cây kiếm, đặt hướng về mặt Tháp. Lại tụng Tổng Trì một Lạc Xoa gia trì vào cây Kiếm. Gia trì kiếm xong, liền đưa tay phải cầm cây kiếm sẽ được Như Ý Thông, biến hóa tự tại, có thế lực lớn, tăng thọ vô lượng, hay vì tất cả chúng sinh mà tạo tác Họa Phước.
Lại nữa, tác Pháp như trước mà dùng chày Kim Cương, Bánh Xe ( Luân ) Tam Cổ Xoa… đều được thành tựu, được vô lượng Công Đức thù thắng như trước.
Đại Tổng Trì này là Tâm của tất cả Như Lai, rất là hiếm có. Tác Pháp như trước ắt được thành tựu.
Nếu lại có người đối với Pháp Môn Tổng Trì Nhất Thiết Như Lai Ô Sắt Nị Sa Tối Thắng này, mỗi ngày 3 thời trì tụng 21 biến, hiến cúng dường xong, chí Tâm thọ trì, vì người khác giải nói khiến cho Hữu Tình đó được khoái lạc, sống lâu, không có bệnh, có đủ Đại Trí Tuệ, được Túc Mệnh Thông. Sau khi chết, người đó như con rắn lột da liền được vãng sinh về cõi Phật Cực Lạc, được quả báo lớn, tai chẳng nghe đến tiếng Địa Ngục huống chi bị sinh vào cõi ấy”
Đức Phật nói Kinh xong thời tất cả Trời, Người, A Tu La, Càn Đạt Bà… trong Thế Gian nghe lời Phật dạy đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.
PHẬT THUYẾT NHẤT THIẾT NHƯ LAI Ô SẮT NỊ SA TỐI THẮNG TỔNG TRÌ KINH ( Hết )
10/05/1998
Mật Tạng Bộ 2_ No.979 ( Tr.410 )
VU SẮT NI SA TẢ DÃ ĐÀ LA NI
Hán dịch : Tây Thiên Kế Tổ Thiền Sư NGHỆ KHÔNG
Việt dịch : HUYỀN THANH
Aùn, bộ lâu ứng, sa hạ
Na mô Bả già phộc địa
Tát phộc đát lị lộ già dã
Bát-la địa tỳ sa sắt tra dã
Phú đà dã đế na ma đa
Đát dả tha
Aùn, bộ lâu ứng, bộ lâu ứng
Tố đà dã, tố đà dã
Tỳ tố đà dã, tỳ tố đà dã
A sa ma, sa mạn đa, a phộc bả sa
A sa bả la noa ca địa
Ca ca na, sá bả phộc tỳ tố đế
A tỳ tỷ tán đỗ vọng
Tát phộc đa tha ca đa, dữu ca đà ngõa la phộc tả nẵng
A lị đá, a bỉ tế khư la
Ma ma
Ma hạ vũ đát-la mạn đát la phộc địa
A hạ la, a hạ la
Ma ma
A dụ la tăng đà la ni
Tố đà dã, tố đà dã
Ca ca na, sa bả phộc tỳ tố đệ
Vu sắt-ni sa tỳ nhạ dã
Phộc lị tấu đế
Sa ha sa-la sắt-vĩ tăng tổ địa đế
Tát phộc đa tha ca đa
A phộc lộ chỉ ni
Sa tra phộc la vĩ đá phộc lị phú la ni
Tát phộc đá tha ca đa, ma đế, đa tả tẩu vĩ
Bát-la địa sắt-xỉ đế
Tát phộc đa tha ca đa , ngật-lị đá dã
A sắt trí-tra na, a trí sắt-xỉ đế
Aùn, vũ đát-lệ, vũ đát-lệ, ma hạ vũ đát-lệ
Phộc nhật lệ, phộc nhật lệ, ma hạ phộc nhật lệ
Phộc nhật la ca dã, tăng ha đa gia phộc lị tẩu đế
Tát phộc yết ma , a ngọa la na, vĩ tẩu đế
Bát la địa na nhật đa dã
A dụ la vĩ tẩu đế
Tát phộc đa tha sa ma dã
A trí sắt tra na, a trí sắt xỉ đế
Aùn, vũ ni, vũ ni, ma hạ vũ ni
Ma địa, ma địa, ma ha ma địa
Ma ma địa, tẩu ma địa
Đát dã tha bộ đá cố tri phộc lị tẩu đế
Tỳ sa phú đa phú đà tẩu đà
Hê, án, hê hê
Nhạ dã, nhạ dã, tỳ nhạ dã, tỳ nhạ dã
Sa la, sa la
Sa-ma la, sa-ma la
A sắt bả la, a sắt bả la
A sắt bả la dã, a sắt bả la dã
Tát phộc phú đà
A sắt trí tra na, a sắt trí xỉ đa
Aùn, tẩu đế, tẩu đế
Phú đế, phú đế
Phộc nhật lê, phộc nhật la yết phệ
Nhạ dã yết phệ
Tỳ nhạ dã yết phệ
Phộc nhật la nhạ gia la yết phệ
Phộc nhật la đa bả phệ
Phộc nhật la tăng yết phệ
Phộc nhật lệ, phộc nhật la ni
Phộc nhật la lăng bả phộc đỗ
Ma ma
Sa lị lăng. Tát phộc sa đỏa nẵng tả ca dã, phộc lị tẩu si bạt phộc đỗ
Ma ma
Tát phộc đá
Tát phộc ca địa phộc lị tẩu si sa tả
Tát phộc đa tha ca đá sắt-tra vọng sa mạn sa sa dã ẩn đỗ tỷ đà dã
Phú đà dã, phú đà dã
Phổ đà dã, phú đà dã
Tỳ phổ đà dã, tỳ phổ đà dã
Mô tả dã, mô tả dã
Tỳ mô tả dã, tỳ mô tả dã
Tố đà dã, tố đà dã
Tỳ tố đà dã, tỳ tố đà dã
Sa mạn đá đa mô tả dã
Sa mạn đá phộc sắt ni phộc lị tẩu đế
Tát phộc đá tha ca đá ngật lị đa dã
A trí sắt tra na, a trí sắt xỉ đế
Aùn, vũ đát lệ, vũ đát lệ, ma ha vũ đát lệ
Ma ha vũ đát la mạn đá la phộc địa
Sa hạ
Aùn, bộ lâu ứng, sa hạ
A vĩ đá dụ đa đế, sa hạ
Duệ dã, a mật lị dụ vu sắt ni sa tỳ nhạ dã na ma đà la ni
Sa ma phộc đá
24/09/1997
Mật Tạng Bộ 4 _ No.1320 ( Tr.480_ Tr.482 )
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI THẦN CHÚ
Dịch âm Phạn : HUYỀN THANH
OMÏ BHRÙMÏ SVÀHÀ
OMÏ NAMO BHAGAVATE
SARVA TRAILOKYA PRATIVI’SISÏTÏAYA
BUDDHÀYATE NAMAHÏ
TADYATHÀ :
OMÏ BHRÙMÏ BHRÙMÏ BHRÙMÏ
‘SODHAYA ‘SODHAYA
VO’SODHAYA VI’SODHAYA
ASAM SAMANTA VABHÀSA
SPHARANÏA GATI GAHANA
SVÀBHÀVA VI’SUDDHE
ABHISÏIMÏCA TOMAMÏ
SARVA TATHÀGATA SUGATA VARA VACANA
AMRÏTA ABHISAIKAI MAHA VANTRA VANTRA PADAI
ÀHARA ÀHARA
SAMA AYU SANDHÀRANÏI
‘SODHAYA ‘SODHAYA
GAGANA SABHAVA VI’SODDHE
SAHASRA RA’SMI SAMÏSUDITE
SARVA TATHÀGATÀVARUKANA
SANPARAMITÀ PARIPURANÏI
SARVA TATHÀGATÀ MATE
TACA TUMI PRATISÏTÏITE
SARVA TATHÀGATA HRÌNÏAYA
ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITA
MATRE MATRE MAHÀ MATRE
VAJRE VAJRE MAHÀ VAJRE
VAJRAKÀYA SAMÏHÀTANA PARI’SUDDHE
SARVA KARMA VARANA VI’SUDDHE
PRATINI VARTTAYA
MAMA YRÏ VI’SUDDHE
SARVA TATHÀGATÀ SAMAYA
ADHISỌTỌANA ADHISÏTÏITE
OMÏ MANÏI MANÏI MAHA MANÏI
VIMANÏI VIMANÏI MAHA VIMANÏI
MATI MATI MAHÀ MATI
MAMATI SAMATI
TATHÀTÀ BHÙTA KODHI PARI’SUDDHE
VISPHATÏA BUDDHI ‘SUDDHE
HE HE
JAYA JAYA
VIJAYA VIJAYA
SMARA SMARA
‘SVARA ‘SVARA ‘SVARAYA ‘SVARAYA
SARVA BUDDHA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITA
‘SUTE ‘SUDDHÀ ‘SUDDHÀ
BUDDHE BUDDHE
VAJRE VAJRE MAHÀ VAJRE
SAVAJRE VAJREGARBHE
JAYAGARBI
VAJRA SALA GARBI
VAJROTVABÌ
VAJRA SAMÏBABI
VAJRÌ VAJRÀMÏ BHAVATU
MAMA CARIRAMÏ
SARVA SATVÀNÀMÏCA KÀYA PARA’SATI
PAVATA SATVÀ ME
SARVATA SARVA GATI PARI’SUDDHE ‘SCA
SARVA TATHÀGATÀTVAMAMÏ
SAMA ‘SVASA GANTA
BUDDHE BUDDHE
SIDDHE SIDDHE
BODHAYA BODHAYA
VIBODHAYA VIBODHAYA
BUDDHYA BUDDHYA
VIBUDDHYA VIBUDDHYA
‘SUDDHAYA ‘SUDDHAYA
VI’SUDDHAYA VI’SUDDHAYA
SARVATA BUDDHYA BUDDHYA
SARVATA RA’SMI PARI’SUDDHE
SARVA TATHÀGATÀ HRÌDAYA
ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE
MANTRA MANTRE MAHÀ MANTRE
MAHÀ MANTRE VANTRA PADAI
SVÀHÀ
10/05/1997
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG THẦN CHÚ
( Truyền Bản của Tây Tạng)
_ Bản Chú dài:
OMÏ NAMO BHAGAWATAY SARWA TALOKYA PARTIBISHIKTAYA
BUDDHAYATAY NAMA
TADYATHA: OMÏ DRUM DRUM DRUM SHODAYA SHODAYA BISHODAYA BISHODAYA AHSAMA SAMENTA
AWABHASA PRANAGATI GAGANA SABAWA BISHUDAY
ABIKINTSEN TUMAM
SARWA TATHAGATA SUGATA BARABATSANA AMRITA ABHIKAYKARA MAHAMUDRA MENTRA PADAY
AHARA AHARA MAMA AHYU SAMDARANI
SHODAYA SHODAYA BISHODAYA BISHODAYA GAGANA SOBAWA BISHUDAY
USHNISHA VIJAYA PARISHUDAY SAHASRA
REMI SENTSODITAY
SARWA TATHAGATA AHWALOKINI KATHA PARAMITA PARIPURANI
SARWA TATHAGATA MATAY DOSHA BUMI PARTTITAY
SARWA TATHAGATA HRIDAY AHDITANA AHDITITAY
MUDRAY MUDRAY MAHAMUDRAY BENDZA KAYA SAMATANA PARISHUDAY
SARWA KARMA AHWARANA BISHUDAY PARTINIWARTAYA MAMA AHYUR BISHUDAY
SARWA TATHAGATA SAMAYA AHDITANA AHDITITAY
OMÏ MUNI MUNI MAHAMUNI
BIMUNI BIMUNI MAHABIMUNI
MATI MATI MAHAMATI
MAMATI SUMATI TATAYA
BATAKOTI PARISHUDAY
BIPUTA BUDI SHUDAY
HAY HAY DZAYA DZAYA BIDZAYA BIDZAYA
MARA MARA PARA PARA PARAYA PARAYA SARWA BUDDHA AHDITANA AHDITITAY
SHUDAY SHUDAY BUDDAY BUDDAY BENDZAY BENDZAY MAHA BENDZAY
SUBENDZAY BENDZAGARBA DZAYAGARBAY BIDZAYAGARBAY
BENDZA DZOLA GARBAY
BENZOEBAWAY BENDZA SAMBHAWAY
BENDZA BENDZENRNI
BENDZA MABAWATU MAMA SHARIRAM
SARWA SATONENTSA KAYA PARISHUDIR BAWATU
MA SADA SARWA GATI PARISHUDI TSA
SARWA TATHAGATA TSA
MAM SAMA SHASAYENTU
BUDDHAYA BUDDHAYA SIDDHAYA SIDDHAYA BODAYA BODAYA BIBODAYA BIBODAYA
MOTSAYA MOTSAYA BIMOTSAYA BIMOTSAYA
SHODAYA SHODAYA BISHODAYA BISHODAYA
SAMENTANA MOTSAYA
MOTSAYA
SAMENTA RAMI PARISHUDAY
SARWA TATHAGATA HRIDAYA AHDITANA AHDITITAY
MUDAY MUDAY MAHAMUDAY
MAHAMUDRA MANTA PADAY SOHA !
_ Bản Chú ngắn:
OMÏ DRUM SOHA
OMÏ AMRITA AHYUR DADYA SOHA
OMÏ HUNG TAM HRI ANG AH RAKYA RAKYA MAM SARWA SATAMTSA SOHA
_ Hết_
USÏNÏÌSÏA VIJAYA DHÀRANÏÌ
( PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI )
( Dựa theo Bản của Tam Tạng Sa Môn PHÁP THIÊN )
Phục hồi và chú thích Phạn Văn : HUYỀN THANH
NAMO BHAGAVATE
Quy mệnh Đức Thế Tôn
SARVA TRAILOKYA PRATIVI’SISÏTÏÀYA BUDDHÀYA BHAGAVATE NAMAHÏ
Kính lễ Đức Thế Tôn Đại Giác cao cả của tất cả ba cõi
TADYATHÀ
Như vậy, liền nói Thần Chú
OMÏ _ BHRÙMÏ BHRÙMÏ BHRÙMÏ
Omï : Ba Thân, Quy y , Cúng dường, nhiếp phục, cảnh giác
Bhrùmï : Chủng tử biểu thị cho nơi quy thú của mọi Công Đức
‘SODHAYA ‘SODHAYA
Thanh tịnh, thanh tịnh
VI’SODHAYA VI’SODHAYA
Khiến cho tất cả thanh tịnh
ASAMASAMA
Vô đẳng đẳng, không có gì sánh bằng
SAMANTA AVABHÀSA
Tỏa sáng rực rỡ khắp nơi
SPHARANÏA GATI
Duỗi vòng khắp cả các nẻo Luân Hồi
GAGANA SVABHÀVA VI’SUDDHE
Khiến cho thanh tịnh như tự tính của Hư Không
ABHISÏIMÏCA TUMÀMÏ
Qúan đỉnh cho tôi
SARVA TATHÀGATA SUGATA
Tất cả Như Lai Thiện Thệ
VARA VACANA
Ban cho lời dạy thù thắng
AMRÏTA ABHISÏEKAI MAHÀ MUDRA MANTRA PADA
Câu Thần Chú Đại Ấn Quán Đỉnh Bất Tử
OMÏ _ ÀHARA ÀHARA
Hãy nhiếp thọ, nhiếp thọ tôi
ÀYUHÏ SANDHÀRANÏÌ
Giữ gìn vững chắc Thọ mệnh
‘SODHAYA ‘SODHAYA
Thanh tịnh, thanh tịnh
VI’SODHAYA VI’SODHAYA
Khiến cho tất cả thanh tịnh
GAGANA SVABHÀVA VI’SUDDHE
Khiến cho thanh tịnh như tự tính của Hư Không
USÏNÏÌSÏA VIJAYA PARI’SUDDHE
Phật Đỉnh Tôn Thắng tràn đầy thanh tịnh
SAHASRA RA’SMI SAMÏSUDÌTI SARVA TATHÀGATA
Tỏa ngàn tia sáng rực rỡ cảnh giác tất cả Như Lai
AVALOKANA SADPÀRAMITÀ PARIPÙRANÏI
Quán chiếu Ba La Mật màu nhiệm đều được đầy đủ
SARVA TATHÀGATA MATI
Tất cả Như Lai Tuệ
DA’SA BHÙMI PRATISÏTÏITE
Thập Địa Thắng Trụ
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE
Thần Lực gia trì của tất cả Như Lai Tâm
OMÏ
Ba Thân quy mệnh
MUDRA MUDRA MAHÀ MUDRA
Ấn , Ấn, Đại Ấn . Biểu thị cho Ấn của ba Thừa
VAJRAKÀYA SAMÏHATANA PARI’SUDDHE
Hòa hợp với Thân Kim Cương đều được thanh tịnh
PRATINI VARTTÀYA ÀYUHÏ VI’SUDDHE
Thọ mệnh tăng trưởng khiến đều thanh tịnh
SARVA TATHÀGATA SAMAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE
Tất cả Như Lai thệ nguyện dùng Thần Lực gia trì
OMÏ
Quy mệnh
MUNÏI MUNÏI MAHÀ MUNÏI
Tịch mặc, tịch mặc, Đại tịch mặc. Biểu thị cho trạng thái Thiền Định vắng lặng của Thanh Văn Thừa , Duyên Giác Thừa, Đại Thừa
AMUNÏI AMUNÏI
Theo Lê Câu Phệ Đà ( Rig_Veda ) thì MUNÏI còn có nghĩa là trạng thái hoảng hốt, lãnh thọ linh cảm. Nên AMUNÏI là không có trạng thái hoảng hốt.Do lập lại 2 lần nên biểu thị cho trạng thái Thiền Định không bị Nội Chướng và Ngoại Chướng gây rối
VIMUNÏI VIMUNÏI MAHÀ VIMUNÏI
Khiến cho đạt được sự tịch mặc của Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Đại Thừa
MATI MATI MAHÀ MATI
Tuệ, Tuệ, Đại Tuệ. Biểu thị cho Trí Tuệ của 3 Thừa
MAMATI
Ngã Tuệ biểu thị cho cái nhìn của cá nhân
SUMATI
Diệu Tuệ
TATHÀTA BHÙTA KOTÏI PARI’SUDDHE
Tính Chân Như Thật tế tràn đầy muôn ngàn thanh tịnh
VISPHUTÏA BUDDHI VI’SUDDHE
Hiển hiện Tuệ Giác khiến cho thanh tịnh
OMÏ
Ba Thân quy mệnh
HE HE
Mừng thay, mừng thay
JAYA JAYA
Thù thắng, thù thắng. Biểu thị cho Chân Đế và Tục Đế
VIJAYA VIJAYA
Tối thắng, tối thắng. Biểu thị cho Bi Môn và Trí Môn
SARA SARA
Kiên cố, kiên cố
SMARA SMARA
Ghi nhớ, niệm trì. Biểu thị cho Định Tuệ tương ứng
SVARA SVARA
Âm thanh, âm thanh
SVARÀYA SVARÀYA
Các nhóm âm thanh, âm thanh đẳng
SARVA BUDDHA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE
Thần Lực gia trì của tất cả chư Phật
‘SUDDHE ‘SUDDHE
Thanh tịnh, thanh tịnh
BUDDHI BUDDHI
Tuệ Giác, Tuệ Giác
VAJRA VAJRA MAHÀVAJRA
Kim Cương, Kim Cương, Đại Kim Cương
A VAJRÌ
Chữ A ( biểu thị cho Bản Bất Sinh ) có tính kiên cố như Kim Cương
SUVAJRA
Diệu Kim Cương, tính kiên cố màu nhiệm
VAJRAGARBHE
Kim Cương Tạng
JAYAGARBHE
Thù Thắng Tạng
VIJAYA GARBHE
Tôn Thắng Tạng
VAJRA JVALA GARBHE
Kim Cương Quang Minh Tạng
VAJRA UDGATE
Sinh ra Kim Cương
VAJRA UDBHAVE
Hiện lên Kim Cương
VAJRA SAMÏBHAVE
Phát sinh Kim Cương
VAJRÌ
Có tính kiên cố như Kim Cương
VAJRINÏI
Trí Tuệ sắc bén như Kim Cương
VAJRAMÏ BHAVATU
Được thành Kim Cương
MAMA ‘SARIRAMÏ
Thân thể của tôi
SARVA SATVÀNÀMÏCA KÀYA VI’SUDDHE
Tất cả Thân Hữu Tình khiến cho thanh tịnh
SARVA GATI PARI’SUDDHE
Tất cả các nẻo đều được thanh tịnh
SARVA TATHÀGATA’SCA MAMÏSAMA ‘SVASA YAMÏTU
Tất cả Như Lai Đẳng đi đến an ủi chúng tôi
SARVA TATHÀGATA SAMA ‘SVASA ADHISÏTÏITE
Tất cả Như Lai đẳng an ủi gia trì
OMÏ
Ba thân quy mệnh
SIDDHYA SIDDHYA
Thành tựu, thành tựu
BUDDHYA BUDHYA
Tỉnh ngộ, giác ngộ
VIBUDDHYA VIBUDDHYA
Khiến cho tỉnh ngộ, khiến cho giác ngộ
BODHAYA BODHYA
Tuệ Giác, Trí Giác
VIBODHAYA VIBODHAYA
Khiến cho được Tuệ Giác, khiến cho được Trí Giác
MOCAYA MOCAYA
Gỉai thoát, giải thoát
VIMOCAYA VIMOCAYA
Khiến cho tất cả được giải thoát
‘SODHAYA ‘SODHAYA
Thanh tịnh, thanh tịnh
VI’SODHAYA VI’SODHAYA
Khiến cho tất cả thanh tịnh
SAMANTA PARIMOCAYA
Khắp cả đều được giải thoát
SAMANTA RA’SMI PARI’SUDDHE
Khắp cả tia sáng đều thanh tịnh
SARVA TATHÀGATA HRÏDAYA ADHISÏTÏANA ADHISÏTÏITE
Thần Lực gia trì của tất cả Như Lai Tâm
OMÏ
Ba thân quy mệnh
MADRA MUDRA MAHÀ MUDRA ADHISÏTÏITE
Ấn, Ấn, Đại Ấn Gia trì
SVÀHÀ
Quyết định thành tựu
15/05/2003
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG CHÂN NGÔN ẤN
Phật Đỉnh Tôn Thắng còn được gọi là Trừ Chướng Phật Đỉnh Luân Vương . Tôn này chính là Trừ Chướng Phật Đỉnh hay Xả Trừ Phật Đỉnh (Vikìranïa usïnïìsïa) biểu thị cho sức Thần Thông không có chỗ sợ của Như Lai, có năng lực dứt sạch các ô nhiễm của nghiệp khiến cho tất cả chúng sinh đều được an vui.
Tôn này có chủng tử là HRÙMÏ ( ) Tam Muội Gia Hình là đài sen bên trên có móc câu Kim Cương dựng đứng , Mật Hiệu là Trừ Ma Kim Cương .
Theo Tam Tạng Thiện Vô Úy thì Phật Đỉnh Tôn Thắng ngồi Kiết Già trên đài hoa sen, thân màu thịt trắng với anh lạc nghiêm thân, , đội mão Ngũ Trí, hai tay để dưới rốn như nhập vào thiền định, trong lòng bàn tay nâng hoa sen bên trên có móc câu Kim Cương.
Theo hình vẽ trong Đồ Tượng 1 thì Tôn này ngồi bán già trên tòa sen, mão tóc kết búi, hai tay co khuỷu tay để ngang ngực, tay phải kết Ấn Cát Tường, tay trái cầm cành hoa sen bên trên hoa có móc câu Kim Cương, thân và đầu tỏa hào quang rực lửa sáng.
Các Ấn Chân Ngôn thông dụng của Tôn này là:
_ Bản Tôn Ấn :
Chắp hai tay lại, co 2 ngón trỏ sao cho móng tay dính nhau, đem 2 ngón cái đè lên 2 ngón trỏ như thế búng ngón tay , đặt ngay trái tim, tụng Đại Chú 7 lần rồi bung Ấn trên đỉnh đầu
_ Căn Bản Ấn (hay Trừ Nghiệp Phật Đỉnh Ấn):
Cài chéo 10 ngón tay bên trong lòng bàn tay rồi nắm lại thành quyền ( Nội Phộc) co ngón trỏ phải như móc câu. Tụng Chân Ngôn là:
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ _ HRÙMÏ VIKÌRANÏA PAMÏCA USÏNÏÌSÏA SVÀHÀ
Khi tu trì Ấn Chân Ngôn này, người ta thường dùng kèm với Tự Luân Quán
_ Tôn Thắng Phật Đỉnh Căn Bản Ấn:
Theo vị tăng tên Hỷ Vô Úy ở nước Trung Thiên Trúc được Tam Tạng Thiện Vô Úy truyền miệng về Trừ Chướng Phật Đỉnh Luân Vương Ấn (Tôn Thắng Phật Đỉnh Căn Bản Ấn) là:đem 2 ngón út, 2 ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, dựng thẳng cứng 2 ngón giữa sao cho đầu ngón dính nhau, duỗi 2 ngón cái song song đè bên cạnh lóng giữa của 2 ngón vô danh, đặt 2 ngón trỏ trên vạch giữa bên cạnh 2 ngón giữa rồi co dính nhau. Tụng Chân Ngôn sau 7 biến rồi tụng Tôn Thắng Căn Bản Chân Ngôn
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ _ OMÏ JVALA JVALA IMAYA IME GADHU USÏNÏÌSÏA DHUDHU TITI DADA HÙMÏ
Ngoài ra còn có các bài Chân Ngôn sau:
1_ Phật Đỉnh Tôn Thắng Đại Tâm Chân Ngôn:
OMÏ _ AMRÏTA PRABHE VIPÙLAGARBHE PRABODHI SAME SIDDHE MAHÀGARBHE TURU TURU _ SVÀHÀ
2_ Tôn Thắng Tiểu Tâm Chân Ngôn:
OMÏ AMRÏTA TEJA VATI SVÀHÀ
3_ Tôn Thắng Tâm Trung Tâm Chân Ngôn:
OMÏ SARVA SIDDHI KE’SU DHÀRANÏI SVÀHÀ
4- Mật Giáo Nhật Bản lưu hành thêm 2 bài Chú sau:
a_ NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ APRATIHATA’SASANÀNÀMÏ_ OMÏ VIKÌRANÏA DHUNA DHUNA DHÙHÏ
b_ NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ _ OMÏ APRATIHATOSÏNÏÌSÏÀYA SARVA VIGHNA VIDHVAMÏSANA KHARÀJA TRUTÏAYA SVÀHÀ
5_ Mật Giáo Tây Tạng lưu truyền bài Chú ngắn là:
OMÏ DRÙMÏ SVÀHÀ _ OMÏ AMRÏTA AYUHÏ DÀDE SVÀHÀ _ OMÏ ÀHÏ HÙMÏ TRÀMÏ HRÌHÏ AMÏ AHÏ RAKSÏA RAKSÏA MAMÏ SARVA SATVÀNÀMÏCA SVÀHÀ
Do quan điểm Đại Nhật Như Lai là Thọ Dụng Thân Tôn Thắng còn Trừ Chướng Phật Đỉnh là Biến Hóa Thân Tôn Thắng , hoặc Đại Nhật Như Lai là Pháp Giới Thể Tính Trí Tôn Thắng còn Trừ Chướng Phật Đỉnh là Diệu Quan Sát Trí Tôn Thắng nên khi tu Pháp Tôn Thắng thường kết Pháp Giới Trí Quyền Ấn tụng Nhất Tự Chân Ngôn BHRÙMÏ và khẳng định Ấn Chú thâm mật này là Tôn Thắng Phật Đỉnh Trung Tâm Tôn. Có lẽ do sự kiện này mà Quảng Bản Chân Ngôn của Tam Tạng Pháp Thiên có ghi nhận câu OMÏ BHRÙMÏ BHRÙMÏ BHRÙMÏ.
Theo Tam Tạng Thiện Vô Úy thì điều căn bản để thành tựu Pháp tu tất cả Phật Đỉnh Pháp là cần phải làm các Pháp Chân Ngôn Ấn Khế xong, sau đó mới thêm 2 Ấn Chân Ngôn của Nhất Thiết Phật Đỉnh Luân Tâm và Ấn Chân Ngôn của Nan Thắng Phẫn Nộ Vương .
_ Nhất Thiết Phật Đỉnh Luân Tâm Ấn:
Hai tay móc cài các ngón chéo nhau , dựng thẳng 2 ngón giữa đều dựa nhau. Tụng Chân Ngôn là :
OMÏ BHRÙMÏ HÙM Ï HÙMÏ PHATÏ
_ Nan Thắng Phẫn Nộ Minh Vương Ấn:
Hai tay cài các ngón chéo nhau, dựng thẳng 2 ngón giữa rồi co lóng trên của ngón giữa phải chống đè lóng trên của ngón giữa trái. Tụng Chân Ngôn là:
OMÏ _ VIKÌRANÏA DHUNA DHUNA HÙMÏ
Mọi việc: Thỉnh Triệu, Kết Giới, Quang Hiển, Tịch Trừ, Hộ Thân, hộ mình hộ người, Hộ Giới Đạo Trường, Phụng Tống chư Tôn đều dùng 2 Chân Ngôn Ấn Khế này.
Ngoài ra, một số bậc Đạo Sư còn truyền dạy thêm Tôn Thắng Ấn Pháp nữa là:
Co ngón trỏ, lấy ngón cái đè lên, chắp tay để ở trái tim, co ngón trỏ vào lòng bàn tay, ngón cái đè lên lóng giữa, chắp tay lại là thành.
Tối Thắng Chân Ngôn Tâm Trung Tâm dùng chung cho hết thảy niệm tụng. Thọ trì lâu dài dùng Thân Aán. Chú là :
“ Nam mô tam mãn đa bột đà nẫm. Úm _ Tỳ rô, hồng phấn tra, sa phạ ha “
NAMO SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ_ OMÏ BHRÙMÏ HÙMÏ PHATÏ SVÀHÀ
_ Hàng phục, hô triệu, liệu bệnh, gia trì các thứ thuốc hương, dùng Chú :
“ Nam mô tam mãn đa bột đà nẫm. Úm _ Tỳ rô ế hế duệ hế, bàn đà , hồng , phấn tra “
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ _ OMÏ BHRÙMÏ EHYEHI BANDHA HÙMÏ PHATÏ
_ Phát Khiển Chân Ngôn :
“ Nam mô tam mãn đa bột đà nẫm. Úm _ Tỳ rô , yết sái, yết sái, hồng, phấn tra, sa phạ ha “
NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ _ OMÏ BHRÙMÏ GACCHA GACCHA HÙMÏ PHATÏ SVÀHÀ
_ Hàng Phục Khế : Ngón cái của 2 tay vịn gốc ngón vô danh, chắp tay lại, để 2 ngón trỏ trên 2 ngón cái.
_ Phát Khiển Khế: Tay phải : Ngón trỏ để ở gốc ngón cái, nắm tay lại thành Quyền ( Tụng 7 biến ) hướng ngón cái lên trên.
“Úm _ Tam mãn dã, sa đa vam “
OMÏ _ SAMAYA STVAMÏ
Chú này , tụng một biến tức thọ Bồ Đề Tâm Giới. Trong Kinh Kim Cang Đảnh vượt hơn 3 cõi.
14/05/2005
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG PHÁP
Pháp Tôn Thắng Đà La Ni tức là Pháp tịnh trừ tất cả các nghiệp chướng, xa lìa tất cả phiền não, tiêu diệt tất cả thân ở Địa Ngục Bàng Sinh, dễ dàng tái sinh vào các cõi Trời hoặc tùy theo ý sinh về cõi Tịnh Độ, tăng trưởng thọ mệnh phú quý , phát sinh Trí Tuệ, độ mình độ người nhanh chóng thành tựu Chính Pháp Giải Thoát của Phật Đà.
Tùy theo sự trao truyền của các bậc Đạo Sư nên hình thức tu tập Pháp Phật Đỉnh Tôn Thắng có nhiều sự sai khác.
_ Thông thường thì các vị Đạo Sư hay dạy cho người khác viết chép Đà La Ni rồi an trí trong Tháp báu, nơi Tháp Xá Lợi. Hoặc để trên Tòa Sư Tử, trên đài Kim Cương, treo trên đầu cây phướng. Hoặc ghi khắc trên các trụ đá, bia đá để cúng dường…nhằm cầu phước diệt họa, dứt trừ tội chướng, xa lìa nẻo ác, sinh về cõi lành thọ hưởng an vui phược lạc.
Ngoài ra, các vị Đạo Sư còn truyền dạy là: Vào ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, Hành Giả tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới sạch, thọ 8 Trai Giới, quỳ gối trước Tượng Phật chí tâm trì tụng Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni 1000 biến nhằm tiêu diệt các tội chướng nặng nề.
Lại nữa, nếu vì người chết ( mới chết hay chết đã lâu) Hành Giả dùng Đà La Ni này chú vào nắm đất vàng 21 biến rồi tán rải trên thi hài người chết thì người ấy liền thoát khỏi các cõi Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, Diêm La Vương xứ… được sinh lên Trời hoặc được vãng sinh về cõi Tịnh Độ.
Do Kinh Điển ghi nhận rằng chư Phật, các vị Bồ Tát, các vị Hiền Thánh, Đại Phạm Thiên, Phạm Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, Hóa Lạc Thiên, Đâu Suất Thiên, Dạ Ma Thiên, Đế Thích Thiên, Đao Lợi Thiên, Hộ Thế Tứ Thiên Vương , Thiện Trụ Thiên Tử, Tán Chỉ Đại Tướng, Diêm La Pháp Vương…. với các quyến thuộc đều phát tâm thủ hộ cho người trì Pháp này cho nên trước khi trì tụng Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni ,Hành Giả nên đọc bài kệ Khải Thỉnh là :
Cúi lạy Tôn Thắng Vương
Ngồi ở Tòa Kim Cương
Trên hoa sen ngàn cánh
Tướng lưỡi rộng dài che khắp cõi
Viên mãn vô lượng các Công Đức
Phật Đỉnh Văn Trì Đại Chương Cú
Tám mươi tám ức Như Lai truyền
Đế Thích Thiên Vương vì Thiện Trụ
Hay diệt bảy lần đọa bàng sinh
Giáo Bí Mật Tổng Trì hiếm có
Hay phát Tâm rộng lớn tròn sáng
Nay con chỉ là kẻ phàm phu
Nguyện tán Tổng Trì Nhất Nhiết Trí
Hay đem phước lợi cứu quần sinh
Các Như Lai ở khắp mười phương
Chư Bồ Tát nơi Thế Giới khác
Tám Bộ Trời Rồng, các quyến thuộc
Tán Chỉ Đại Tướng với Dược Xoa
Minh Ty Địa Chủ, Diêm Ma La
Thiện Ác Bộ Quan: hai Đồng Tử
Thánh Hiền , các Chúng Đẳng như trên
Nguyện nghe Khải Thỉnh đều giáng lâm
Ủng hộ Phật Pháp khiến trường tồn
Mỗi mỗi siêng tu lời Phật Dạy
Tất cả hàm linh đến chốn này
Nghe qua Phật Đỉnh Tôn Thắng Vương
Hết thảy đều mau thành Phật Đạo
Nay con phúng tụng Chân Ngôn này
Nguyện xin Như Lai thường cứu hộ
Nguyện xin Hiền Thánh thường cứu hộ
Nguyện xin Hộ Pháp thường ủng hộ
Nam mô Trailokya Usïnïìsïa
Nam mô Jaya Usïnïìsïa
Nam mô Vijaya Usïnïìsïa
Nam mô Vikìranïa pamïca Usïnïìsïa
Nam mô Tejora’si Usïnïìsïa
Nam mô Tïrùmï Usïnïìsïa
Nam mô ‘Srùmï Usïnïìsïa
Nam mô Indra Deva
Nam mô Kim Cương Giới Hội Nhất thiết chư Phật
Nam mô Đại Bi Thai Tạng Giới nhất thiết chư Phật
_ Nếu Hành Giả có điều kiện vẽ Tượng lập Đàn thì các vị Đạo Sư thường dạy là:
Vẽ Tượng . Muốn thọ trì Chú này, trước cần vẽ tượng. Dùng lụa trắng tốt, ba bức cao một trượng, màu vẽ không được dùng keo da mà dùng nhựa hương. Họa Sĩ cần thanh tịnh, không được ăn ngũ tân. Khởi công vào ngày mồng một, nếu có thể bắt đầu từ ngày mồng một tháng Giêng là tốt nhất , trong 7 ngày phải vẽ xong. Vẽ núi Cam Lồ, trong núi có đủ các thứ cây cối, hoa quả, suối khe, cầm thú. Giữa núi có hang , trong hang vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi Kiết Già, bên trái vẽ Đế Thích Thiên Chủ cùng các Thiên Chúng vây quanh, bên phải vẽ Càn Thát Bà Nhi tên là Thiện Trụ đoan chánh như Bồ Tát, đầu tóc áo mão đều y vậy, dùng các thứ Anh Lạc mão hoa trang sức. Dùng miếng lụa trắng buộc ở cánh tay trái, tay phải cầm cây gậy tròn và vẽ các Càn Thát Bà quyến thuộc vây quanh.Hai bên Đức Phật vẽ 4 vị Thiên Vương cùng các quyến thuộc. Lại bên trái đức Phật vẽ Phạm Vương và Ma Vương.Vẽ xong làm Đàn thọ Pháp.
Kết Đàn . Đàn Pháp này, trước cần đất sạch không có gạch đá. Lấy 5 thứ nước hương trộn với đất vàng làm bùn đắp Đàn vuông vức một trượng.
Chính giữa Đàn rộng một khuỷu tay vẽ Phật Đảnh, tóc biếc như con ốc màu xanh.
4 mặt ngoài Đàn , để các món ăn uống 7 chén
4 phương để 4 lư hương đều đốt các thứ hương thơm.
Cửa Nam để một bình đồng chứa đầy nước 5 thứ hương, cửa Nam an Tòa Đế Thích.
Cửa Đông an Tòa Thiện Trụ.
Chú Sư ngồi nơi Tòa phía Tây , hướng mặt về phương Đông. Mặt tượng Phật hướng về phương Tây.
Lấy phướng 5 màu treo 4 bên ngoài Đàn. Để 5 chén đèn , chính giữa là một chén cao, 4 góc mỗi góc một chén như bên dưới giống hình cái Tháp.
Trong Đàn rải các thứ hoa. Vật cúng dường cũng để ngoài Đàn không được để trong Đàn.
Làm Pháp 7 ngày, trong 7 ngày tụng đủ số một vạn.Phật Đảnh phóng đại quang minh. Chú Sư trong 7 ngày cần phát lồ sám hối, khởi nguyện Đại Bi. Bấy giờ Pháp được thành tựu, không có nghi, chuyên tâm cúng dường được vô lượng Phước.
( Trích trong Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni Biệt Pháp do Sa Môn Thích Quảng Trí dịch ra Việt Văn )
Kinh Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Chú ghi nhận rằng trong Pháp tu tạo Đàn đã hàm chứa đầy đủ 6 món Ba La Mật là:
“ Nếu hết thảy chúng sinh muốn được giải ngộ đều phải tác Pháp Mạn Đà La.
Thanh tịnh xoa tô mặt đất . Hoặc dùng nước, đất và Cù Ma Di (Phân bò) nghiêm sức [ thì gọi là Thi La Ba La Mật ( ‘Sìla Pàramità : Giới Ba La Mật )]
Rải hoa, đốt hương, thắp đèn, treo phan phướng, lọng báu. Dùng các món trân bảo, thức ăn uống cúng dường. Đây gọi là Đàn Ba La Mật (Dàna Pàramità: Bố Thí Ba La Mật)
Khi làm Đàn, có các phiền não mà không giận dữ, gọi là Sằn Đề Ba La Mật (Ksïànti Pàramità: Kham Nhẫn Ba La Mật)
Siêng năng cần mẫn tu hành không có giải đãi thì gọi là Tỳ Lê Da Ba La Mật (Vìrya Pàramità: Tinh Tiến Ba La Mật)
Chuyên chú nơi Pháp Tắc một lòng không tán loạn thì gọi là Thiền Ba La Mật (Dhyàna Pàramità: Thiền Định Ba La Mật)
An bày đầy đủ phân minh rõ ràng thì gọi là Bát Nhã Ba La Mật (Prajnõà Pàramità: Tuệ Ba La Mật)
Này Thiên Đế ! Đây là tạo Pháp Sự có đầy đủ 6 món Ba La Mật cho nên cần phải mở bày cho hết thảy chúng sinh được nhiều lợi ích, mau được Bồ Đề”
_ Như thế đối với Pháp tu phổ thông ( Tạp Mật) thì các vị Đạo Sư đã truyền dạy cho Đồ Chúng 34, 35 hoặc 38 Pháp . Như Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni Biệt Pháp ( Do Quy Tư Tăng là Nhạ Na dịch ra Hán Văn, Sa Môn Thích Quảng Trí dịch ra Việt Văn ) có ghi nhận 38 Biệt Pháp là:
Pháp thứ 1 : Nếu người muốn được sống lâu không đọa Địa Ngục, ác đạo, Ngạ Quỷ, súc sanh, A Tu La cùng diệt các tội nặng. Mỗi thời chí tâm tụng Chân Ngôn 21 biến, khởi nguyện Đại Bi thương xót hết thảy chúng sanh tức tiêu trừ Thập Aùc, Ngũ Nghịch.
Pháp thứ 2 : Nếu có Phi Hành, La Sát, Quỷ Thần vào trong nước gây não loạn, khủng bố nhân dân. Thường kết Ấn xưng” Nam mô Phật “ tâm tâm nhớ niệm tụng Đà La Ni này tức được như trên, các nạn tiêu diệt.
Pháp thứ 3 : Nếu có người không tin, chỉ chí tâm một chỗ, thường làm Pháp này tức được đại nghiệm. Xong khiến cho người không tin được tin. Nếu làm Pháp có hiệu nghiệm thì có gió Bạch Tộc ( ? gió trong mát) thổi đến nhập vào thân. Trên thân , da dẻ dơ xấu xí đen đúa và các nạn được gió thổi đến đều biến mất, ách nạn chướng nặng đều tiêu trừ
Pháp thứ 4 : Nếu muốn được oai lực tự tại.Trong 7 ngày hướng 4 phương, tụng Chú , dùng các thứ lúa làm hình người để 4 hướng. Tức sở nguyện được như ý
Pháp thứ 5 : Muốn được diệt các tội nặng nơi thân. Dưới chân cửa Thành, làm như Pháp trên
Pháp thứ 6 : Muốn diệt các tội cho Tiên Vong. Ở ngã tư đường , làm Pháp như trên.
Pháp thứ 7 : Muốn diệt tội cho hết thảy chúng sanh. Trước Phật làm Pháp như trên.
Pháp thứ 8 : Muốn cứu được chúng sanh bị khổ nơi Địa Ngục. Mỗi thời kết Phật Đảnh Ấn, tụng Chú, hướng 4 phương mà xả thì tội chướng liền tiêu trừ.
Pháp thứ 9 : Muốn thí nước cho Ngạ Quỷ. Chú vào nước sạch 7 biến, tán rải 4 phương, dùng tâm mà thí cho thì Ngạ Quỷ liền được uống nước Cam Lồ.
Pháp thứ 10 : Muốn cứu tội khổ của súc canh. Chú vào đất vàng 21 biến, rải trên súc sanh và 4 phương . Tức được tiêu diệt tội chướng.
Pháp thứ 11 : Nếu muốn cứu Trời Người bị các tội sợ bị đọa lạc. Lấy hoa 5 màu , tụng Chú vào hoa, tán rải nơi Tam Bảo và trên Phật Đảnh. Tức hết thảy tội cấu tiêu diệt
Pháp thứ 12 : Nếu có nạn vua, nạn giặc giã, khẩu thiệt nổi lên. Chú vào 5 thứ nước hương 21 biến, rửa Phật và quán đảnh liền được an lạc.
Pháp thứ 13 : Nếu Sa Môn, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, 4 Chúng… muốn được đầy đủ phước báo. Mỗi ngày phát nguyện, sám hối, tụng Đà La Ni này đem công đức hồi hướng cho hết thảy chúng sanh. Chỉ làm như vật tất được như ý, hết thảy tội chướng đều tiêu diệt.
Pháp thứ 14 :Muốn diệt hết thảy tội chướng cho chúng sanh. Xé lụa 5 màu làm cây phất trần, Chú 21 biến quét thân Phật, Kinh. Chí tâm kết Ấn, Chú 21 biến thì tội chướng một đời liền tiêu.
Pháp thứ 15 : Nếu có Khẩu Thiệt.Lấy Mật đựng trong chén sạch, dùng Châu Sa hòa với Mật. Chú 21 biến rồi đem Mật, Châu bôi lên môi của trăm Tượng Phật thì Khẩu Thiệt liền tiêu diệt, được Phước vô lượng.
Pháp thứ 16 : Nếu người bệnh lâu, nằm liệt trên giường. Lại nếu muốn hết thảy người yêu nhớ cung kính , muốn hết thảy mọi việc Thế Xuất Thế được thành tựu, bị Quỷ Thần não loạn, mộng tưởng điên đảo. Dùng 100 lá vàng, Chú 21 biến rồi dán trên đảnh 100 Tượng Phật , trước Tượng làm hình Ma Ni Châu thì hết thảy tội tiêu, cầu gì đều được.
Pháp thứ 17 : Nếu trong nước bị Quỷ Thần gây bệnh cùng bệnh Thời Khí lưu hành. Ở 4 cửa thành, dùng giấy xanh vẽ Chú, dùng Bạch Đàn làm cái hộp để đựng, dùng sáp gắn lại. Đứng ở cửa thành, lấy lọng 5 màu che hộp. Mỗi cửa để một Bản. Tức Quỷ Thần , tật bệnh đều tiêu trừ không dám đến.
Pháp thứ 18 : Nếu trong nước không được mùa ngũ cốc, mưa gió thất thường. Lấy lụa trắng làm một cái phướng, vẽ Phật Đảnh Ấn treo ở cái phướng cao 80 thước ( Thước Tàu ) tức gió thuận mưa hòa , ngũ cốc tốt tươi, nhân dân an lạc, Quỷ Thần hồi tâm hướng thiện, A Tu La Vương không gây chướng ngại.
Pháp thứ 19 : Nếu trời mưa nhiều không dứt. Lấy lụa viết Chú, Chú 21 biến dựng nơi đó, liền tạnh mưa
Pháp thứ 20 : Nếu trong nước có oán địch giặc giã nổi lên. Lấy vải xanh viết Chú 21 tấm, ở giữa vẽ Càn Thát Bà Nhi Thiên Trụ với 2 tay cầm cung tên rồi dựng ở chánh đông của cõi nước thì các nạn tự lui.
Pháp thứ 21 : Nếu trong nước có các tai họa. Dùng đủ các thứ làm 100 Phù Đồ Bức Luân, lại giã lá lấy nước vẽ Chú 10 Bản , để trên đầu Bức Luân trong cái hộp thì tai họa liền tiêu , được phước sống lâu.
Pháp thứ 22 : Nếu kẻ sang người hèn muốn ủng hộ và hộ tự thân , cầu tài bảo xứng ý . Thường khởi thiện tâm, không cần thời gian. Lễ Phật, kết Ấn, tụng Chú 7 biến, chiêm ngưỡng mặt Phật không chớp mắt . Làm như vậy tức được đầy đủ Phước Đức, khi chết không bị đọa Địa ngục ác đạo.
Pháp thứ 23 : Nếu người nữ muốn có con. Trong 100 ngày làm các món ăn uống ngon ngọt cho kẻ nghèo khổ ăn xin và kẻ bệnh tật. Khi cho đồ ăn , miệng luôn tụng Chú không được gián đoạn tức được ( sanh con ).
Pháp thứ 24 : Nếu vợ chồng ghét nhau. Lấy lụa, Chú 21 biến rồi đem may áo cho mặc ( thì vợ chồng ) liền yêu thương nhau.
Pháp thứ 25 : Nếu đàn bà không có chồng. Cúng dường hiện tiền Tăng liền được, không có nghi.
Pháp thứ 26 : Nếu có người, quốc vương, đại thần, trăm quan… không tin Phật Pháp. Lấy sữa của 3 con bò vàng không bị ghẻ lác, Chú vào nước, cỏ 21 biến rồi cho bò ăn. Khi mặt trời mọc, vắt sữa đựng trong đồ bằng bạc, lại Chú vào sữa 21 biến rồi đổ nơi đất sạch 4 phương. Người lấy sữa phải mặc áo trắng, miệng nói:”Càn Thát Bà Nhi Thiện Trụ và Đế Thích phải tự lo việc này”. Chú Sư liền vào thành thì quốc vương, đại quan, ngoại đạo không tin Phật Pháp thấy Chú Sư đều sanh lòng hoan hỷ. Chú Sư nói gì thảy đều tin nhận ngợi khen.
Pháp thứ 27 :Nếu có người trong Giới, nơi chốn ở có Quỷ Thần ác, nơi ao có Rồng ác.Nếu Rồng hiện lên, Chú Sư bảo rằng:” Không được làm hại chúng sanh trong đây”. Y như trên mà an trí. Nếu ngang bướng không bỏ nghiệp ác. Chú Sư lấy cát, Chú 21 biến ném nơi này , Chú vào Rồng 21 biến thì Rồng không dám trái. Nếu là Quỷ Thần ác , Chú vào thức ăn 21 biến rồi thí cho. Chú Sư bảo:” Ta bảo ngươi, nếu không làm hại chúng sanh thì được ở đây, nếu làm hại thì rời khỏi nơi đây”. Nếu Quỷ Thần không nghe theo, liền làm cái cọc sắt dài 22 chỉ, Chú 21 biến rồi đóng xuống đất thì Quỷ Thần liền bỏ chạy. Chú Sư an trí Quỷ Thần xong lại bảo :” Như đây mà ở, không được lộn xộn”.
Pháp thứ 28 :Chú Sư mỗi khi ra đi. Làm một cây phất , Chú 108 biến rồi cầm mà đi. Nếu gặp súc sanh, lấy phất phủi một cái thì súc sanh được lìa khổ, giải thoát.
Pháp thứ 29 : Nếu muốn Tiên Vong xa lìa khổ , được giải thoát. Ngồi trong Rừng Thi Đà 7 ngày. Ngày 3 thời tụng Chú nhiều ít. Mãn 7 ngày , lấy đất ở chỗ Chú Sư ngồi , vãi 4 phương . Ngay khi vãi ( thì Tiên Vong ) liền được lìa khổ, sanh lên Trời.
Pháp thứ 30 : Buôn bán ế ấm, cầu gì đều không được. Chú Sư kết Ấn, tụng Chú 21 biến. Để Tượng Thiện Trụ ở nơi kín đáo rồi cúng dường liền được sở cầu, buôn bán có lời.
Pháp thứ 31 : Nếu có người muốn vào núi rừng gặp sư tử, cọp, sói, cầm thú ác độc. Khi sắp vào nơi cửa núi, tụng Chú 108 biến, chú vào đất vàng rồi ngậm đất ở miệng, hà hơi vào trong núi, miệng nói :” Cầm thú ác độc có ác độc đều tiêu diệt hết, đất này thuộc về Ta. Nếu hay y theo Pháp Ta thì tùy ý được ở. Nếu không y theo liền mau đi khỏi. Nếu không đi, miệng liền bị cấm”.Nếu Chú Sư thấy cầm thú, cọp, sói có miệng bị cấm liền gom lại một chỗ, lấy tay xoa trên đầu, Chú 21 biến rồi bảo rằng :” Ta đây mở miệng cho ngươi. Mau ra khỏi nơi đây và giữ gìn đất đai này, không được làm hại chúng sanh nơi đây”. Chú xong đuổi đi đến nơi an trí cho chúng ở. Chú Sư ngồi trong núi hơn 2 tháng, không được ngồi thêm rồi đi khắp nơi, sau đó ngồi lại. Nếu ngồi lâu thì cầm thú không được an ổn. Cần phải biết như vậy
Pháp thứ 32 : Nếu vào trong núi. Các Quỷ Thần xen lẫn, Rồng xen lẫn không cho Chú Sư an ổn ở nơi này. Thấy vậy, Chú Sư liền y theo Pháp mà phân chia. Sư bảo:” Ta chọn chỗ đất này. Hãy để cho Ta. Nếu đồng ý thì được ở. Nếu cưỡng lại không nghe thì Ta liền cấm trói ngươi không được đi đâu”. Chú Sư lấy đinh sắt như Pháp mà đóng thì các loài đi ra khỏi Giới không dám vào.
Pháp thứ 33 :Nếu có các Rồng bị Ngoại Đạo cột trói khiến trong nước không có mưa gió. Chú Sư ở bên suối có Rồng, làm một cái Đàn nhỏ, lấy gốc Dâu làm 8 cái cọc để trong Đàn. Lấy 3 chén sữa, lạc để trên Đàn. Chú vào cọc 108 biến rồi đóng cọc ở 8 hướng của suối. Lấy sữa, lạc đổ xuống ao. Lấy lá kim bạc vẽ Chú để trên lá sen trong ao. Chú Sư nói:” Thiện Tri Thức nay bị ách nạn, bị Ngoại Đạo cấm trói. Nay làm Pháp này xong , dùng Đà La Ni ủng hộ người”. Phát Thệ xong, liền lấy đồ ăn uống, cà sa cùng Kim Bạc Chú… quăng xuống đáy nước. Chú Sư thổi hơi 3 lần thì Cấm Pháp của Ngoại Đạo liền bị hoại, Rồng được giải thoát không còn nạn. Khi Rồng ra khỏi liền đến cúng dường Chú Sư. Rồng nói:” Ngài có điều gì sai bảo ?”. Chú Sư nói:” Ngươi y theo thời làm gió mưa, đem Đà La Ni này để trên đảnh khiến cho ngươi vĩnh viễn không có tai nạn”
Pháp thứ 34 :Nếu nước lụt làm chìm đắm người. Chú Sư chú vào nước 21 biến rồi rảy vào nơi nước lụt liền không còn ( người ) bị trôi chìm.
Pháp thứ 35 : Nếu thường niệm, nhất định sanh Tịnh Độ, vĩnh viễn được an lạc.
Pháp thứ 36 : Nếu ngày ngày tụng 1000 biến cùng kết Ấn thì được thân Kim Cang Bất Hoại, đời này được Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Pháp thứ 37 : Nếu ngày ngày kết Ấn tụng Chú 108 biến thì mau được chư Phật 10 phương thọ ký , nhất định không nghi.
Pháp thứ 38 : Nếu ngó 4 phương 4 hướng , kết Ấn tụng Chú 21 biến vì chúng sanh xưng tên và xả Ấn thì được hết thảy Quỷ Thần, Ma Vương, Tỳ Na Dạ Ca, Aùc Quỷ, Rồng…. Cung kính giữ gìn. Hết thảy điều cầu xin , tự nhiên đến. Nhan sắc tốt tươi, phước đức vô lượng, công đức vô biên, chư Phật 10 phương ngợi khen huống chi có người chí tâm trì tụng ắt mau chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, tùy ý thọ sanh 10 phương Tịnh Độ, liên hoa hóa sanh, được chứng Quả Phật.
_ Riêng đối với Hành Giả ưa thích tu trì Mật Giáo thì các vị Đạo Sư thường truyền dạy cách xây dựng Đàn Trường để tu tập và xưng là Phật Đỉnh Tôn Thắng Mạn Trà La . Có 2 hình thức tu tập Đàn Pháp là Tướng Đàn và Tâm Đàn
a)Tướng Đàn: Chú Sư dùng màu sắc tô vẽ các Tôn, Ấn Khế, Pháp Khí, cảnh tượng… trên mặt đất hoặc tranh vẽ . Sau đó bày biện đầy đủ mọi thứ cúng vật thật sự để cúng dường.
b)Tâm Đàn : Chú Sư dùng tâm quán tưởng các Chủng Tử biến thành các Tôn theo thứ tự . Sau đó dùng Tâm vận tưởng mọi thứ cúng vật dâng hiến các Tôn.
Truyền Thống Hoa Văn thường lưu truyền 2 loại Tôn Thắng Mạn Trà La tùy theo Nghi Quỹ của Ngài Bất Không hay Nghi Quỹ của Ngài Thiện Vô Úy
1_ Theo Nghi Quỹ của Ngài Bất Không : Chính giữa vẽ Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai trụ Pháp Giới Ấn, ngồi Kiết Già trên Tòa Sư Tử.
Phương Bắc vẽ Hư Không Tạng Bồ Tát (Aøkà’sa Garbha Bodhisattva)
Phương Tây vẽ Quán Aâm Bồ Tát (Avalokite’svara Bodhisattva)
Phương Nam vẽ Trừ Cái Chướng Bồ Tát ( Sarva Nirvanïa Vi’skambhini Bodhisattva)
Phương Đông vẽ Kim Cương Thủ Bồ Tát ( Vajrapànïi Bodhisattva)
Góc Đông Nam vẽ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manõju’srì Bodhisattva)
Góc Tây Nam vẽ Địa Tạng Bồ Tát ( Ksïitigarbha Bodhisattva)
Góc Tây Bắc vẽ Từ Thị Bồ Tát (Maitrìye Bodhisattva)
Góc Đông Bắc vẽ Phổ Hiền Bồ Tát ( Samantabhadra Bodhisattva)
Phía dưới bên trái đặt Bất Động Minh Vương (Acala Vidyaràja), bên phải đặt Giáng Tam Thế Minh Vương (Trailokya Vijaya Vidyaràja)
2_ Theo Nghi Quỹ của Ngài Thiện Vô Úy : Vẽ một vòng tròn sáng lớn, chia ra làm 9 vòng tròn nhỏ .
Vòng chính giữa vẽ Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairocana Tathàgata) đầu đội mão Ngũ Trí, ngồi Kiết Già trên tòa Sư Tử, tay kết Pháp Giới Định Ấn
Vòng tròn phương Nam vẽ Quang Tụ Phật Đỉnh ( Tejora’si Usïnïìsïa)
Vòng tròn phương Đông vẽ Tối Thắng Phật Đỉnh (Vijaya Usïnïìsïa)
Vòng tròn phương Bắc vẽ Trừ Cái Chướng Phật Đỉnh (Vikìranïa Usïnïìsïa)
Vòng tròn phương Tây vẽ Bạch Tản Cái Phật Đỉnh (Sitàtapatra Usïnïìsïa)
Vòng tròn góc Đông Nam vẽ Vô Biên Thanh Phật Đỉnh (Anantasvara Usïnïìsïa)
Vòng tròn góc Đông Bắc vẽ Quảng Sinh Phật Đỉnh (Abhyudgata Usïnïìsïa)
Vòng tròn góc Tây Nam vẽ Phát Sinh Phật Đỉnh (Mahà Usïnïìsïa)
Bên dưới : trong hình tam giác bên trái vẽ Bất Động Minh Vương (Acala Vidyaràja) , trong nửa vành trăng bên phải vẽ Giáng Tam Thế Minh Vương (Trailikya Vijaya Vidyaràja) với lò hương đặt giữa 2 vị này
Bên trên : mỗi bên vẽ 3 vị Thủ Đà Hội Thiên 9 [ Gồm 6 vị Tĩnh Cư Thiên (‘Suddha vàsa deva)] biểu thị cho nghĩa trong sạch .
*) Đạo Trường Quán:
Năm Đại tạo thành Pháp Giới, trong hư không có vành trăng tròn sáng, dùng chày Tam Cổ làm giới đạo, dùng bình báu làm phân tế. Ở chính giữa: viên minh (vòng ánh sáng tròn trịa) tại trung ương có đài hoa sen lớn, bên trên có chữ VAMÏ ( ) thành Pháp Giới Suất Đổ Ba , Suất Đổ Ba (Stùpa: cái tháp) biến thành Đại Nhật Như lai đội mão báu Ngũ Phật với anh lạc nghiêm thân, ngồi Kiết Già trên sàng 8 Sư Tử , trụ Pháp Giới Ấn.
Trong viên minh bên trái có chữ LAMÏ ( ) biến thành Bạch Tản Cái Phật Đỉnh
Trong viên minh bên phải có chữ BHRÙMÏ ( ) biến thành Tối Thắng Phật Đỉnh.
Trong viên minh phía trước có chữ HRÙMÏ ( ) biến thành móc câu, móc câu biến thành Tôn Thắng Phật Đỉnh (Trừ Chương Phật Đỉnh) ngồi Kiết Già trên đài hoa sen, màu thịt trắng, hai tay để dưới rốn như vào Thiền Định, giữa lòng bàn tay nâng một hoa sen, trên hoa có dựng một móc câu Kim Cương.
Trong viên minh phía sau Đại Nhật Như Lai có chữ TRÙMÏ ( ) BIẾN THÀNH Phóng Quang Phật Đỉnh ( Quang Tụ Phật Đỉnh)
Bên trái của Trừ Chướng có chữ ‘SAMÏ thành Thắng Phật Đỉnh
Bên phải của Trừ Chướng có chữ TÏRÙMÏ ( ) thành Quảng Sinh Phật Đỉnh.
Bên phải Quang Tụ có chữ HÙMÏ ( ) thành Vô Biên Thanh Phật Đỉnh
Đồng bên trái có chữ ‘SRÙMÏ ( ) thành Phát Sinh Phật Đỉnh
Ở dưới, bên trái trong nửa vành trăng có chữ HAHÏ ( ) thành Giáng Tam Thế Tôn. Bên phải có chữ HÀMÏ ( ) thành Bất Động Minh Vương. Phía trước có lò hương.
Bên trên, mỗi bên có 3 chữ RU ( ) biến thành 6 vị Thủ Đà Hội Thiên với hình Đồng Tử đều cầm hương hoa.
Ngoài cách tạo lập Đàn Trường như trên, trong Tôn Thắng Phật Đảnh Chân Ngôn Du Già Pháp , quyển hạ ( Do Sa Môn Thích Quảng Trí dịch ra Việt Văn) Ngài Thiện Vô Úy còn truyền dạy cách lập Đàn Pháp theo 3 bậc Thượng, Trung, Hạ là:
“ Pháp tắc hoạ Mạn Đà La: Vuông tám khuỷu, mười hai khuỷu, hoặc ba tám khuỷu, nếu vì chúng sanh mà làm thì bảy khuỷu hoặc tám khuỷu cũng được. Nếu làm lớn hoặc quan phủ trong nước tạo một trăm tám khuỷu, ít là ba tám khuỷu.
Tám khuỷu: bốn khuỷu làm chính giữa, trong vòng tròn lớn chia làm năm vòng tròn nhỏ. Bốn góc hình bán nguyệt, mỗi vòng vẽ chín Tôn vị, trong vòng bán nguyệt vẽ Lục Túc Tôn, bốn mặt vòng tròn lớn vẽ tám cái bình bốn bánh xe, mười sáu chày Kim Cang dựng đứng, thảy đều cột các dây lụa, bốn khuỷu chia làm hai viện, lại mỗi viện chia ra làm ba đạo.
Ở viện thứ hai phía ngoài vẽ ba đạo, trắng, vàng, đỏ y theo nghi của ba Phật Đảnh và nghĩa của Giới, Định, Huệ .
Phía ngoài viện thứ ba vẽ năm đạo, trắng, vàng, đỏ, xanh, đen là nghĩa năm Phật Đảnh, năm Trí.
Trong hai viện, chia ra làm ba đạo, ở trong viện thứ nhất là chư Thánh chúng ngồi xây về phía trong. Đạo thứ hai để bảo bình, lư hương, đèn sáng, Ứ già, các món ăn uống, hoa quả. Đạo thứ ba là biện sự thị giả, chỗ cho các người lui tới dâng các món cúng dường, ở viện thứ hai cũng như vậy.
Nơi trung đài vẽ tám vòng tròn lớn, chia ra làm chín vòng, trong mỗi vòng tròn lại chia làm chín vòng, ở trong vẽ chín vị Thánh. Vòng tròn ở giữa vẽ Phật Tỳ Lô Giá Na, bốn mặt vẽ Tôn Thắng Phật và bốn Đảnh Luân Vương. Bốn góc vẽ bốn Ba La Mật Bồ Tát. Ở giữa hình bán nguyệt, bốn góc vẽ bốn Đại Đảnh Luân Vương, bốn cúng dường Ba La Mật, đều y theo Pháp tắc.
Viện thứ nhì hướng Đông, vẽ Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi kết già phu, tướng đang nói Pháp. Ở dưới tòa hai bên, vẽ Đế Thích và Thiện Trụ, hai gối sát đất, chắp tay cung kính nhìn ngắm Như Lai, thưa thỉnh làm sao trừ tai nạn, làm sao được sống lâu, tại sao 7 lần sanh làm súc sanh …v…v… Như vậy thưa thỉnh xong. Khi ấy Thế Tôn từ bi thương xót liền vào Trừ Chướng Tam Ma Địa, từ trên đảnh Như Lai phát ra Nhạ Da Tam Ma Địa (Jaya Samàdhi: Tôn Thắng Tam Muội), tướng như Luân Vương màu trắng đầu đội mão báu Ngũ Phật, tay cầm Kim Tỏa Câu, nơi ót chiếu hào quang quanh thân tròn như bánh xe. Khi hiện Tam Ma Địa này, 10 phương Thế Giới 6 lần chấn động, 10 phương Thế giới tất cả Địa Ngục, sáu đường chúng sanh đọa nơi ác đạo, thảy đều trừ diệt các nghiệp ác, không còn thọ lại nữa, đều được sanh về cõi Trời và 10 Tịnh độ, do Thiện Trụ Thiên Tử tiêu trừ 7 lần phải sanh vào ác đạo nên gọi là Trừ Chướng Phật Đảnh Luân Vương, tức là một trong 8 Đại Luân Vương gồm năm Phật Đảnh Luân Vương, và ba Phật Đảnh .
Hai bên trái, phải của Đức Phật, vẽ Bồ Tát Di Lặc tay cầm Pháp giới ấn, Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi tay cầm hoa sen xanh. Các Vị đều kết Bổn ấn, một tay cầm phất và đều hướng về phía Phật.
Lại hai bên phải trái của Đức Phật vẽ Như Lai Hào Tướng, Như Lai tâm, Như Lai Thiệt Tướng, Như Lai Nhãn, Như Lai Tị , Như Lai Nha, Như Lai Nhĩ, Như Lai Thần (môi), Như Lai Yêu (eo), Như Lai Sóc, Như Lai Vô Uý, Như Lai Mã Âm Tàng, Như Lai My (lông mày), Như Lai Khẩu, Như Lai Vô Năng Thắng Minh Vương, Như Lai Vô Năng Thắng Minh Phi.
Bốn góc viện: Hương Ba La Mật Tam Muội Da, Bảo Ba La Mật Tam Muội Da, Hoa Ba La Mật Tam Muội Da, Đồ Hương Ba La Mật Tam Muội Da, đối nhau ở trong vòng tròn, ngoài ra Như Lai Hào Tướng …v…v… thảy đều cầm bổn ấn khế, các thứ trang nghiêm, ngồi kiết già.
Bốn mặt vẽ 10 phương Chư Phật và Bồ Tát, bốn Đại A La hán, bốn Phật Bích Chi chia ở 4 góc mặt
Ở giữa mặt phía Bắc vẽ Bồ Tát Quán Tự Tại, hai bên vẽ Liên Hoa Bộ nội quyến thuộc, Bồ Tát Đắc Đại Thế …v…v… Bồ Tát Bạch Xứ Tôn Quán Tự Tại, Bồ Tát Thất Cu Chi Quán Tự Tại, Bồ Tát Bất Không Quyến Sách Quán Tự Tại, Bồ Tát Đa La Quán Tự Tại, Bồ Tát Như Ý Luân Quán Tự Tại, Bồ Tát Thương Ly Quán Tự Tại, Bồ Tát Cát Tường Quán Tự Tại, Bồ Tát Thủy Cát Tường Quán Tự Tại, Bồ Tát Mã Đầu Minh Vương Quán Tự Tại, Bồ Tát Liên Hoa Quân Trà Lợi Minh Vương Quán Tự Tại, Bồ Tát Nhất Kế MinhVương Quán Tự Tại, các vị Thánh giả đều chấp bổn khế và trang nghiêm đầy đủ, ngồi bán già trên tòa sen.
Lại ở giữa mặt phía Nam , vẽ Bồ Tát Chấp Kim Cang Vương Bí Mật Chủ, tay cầm chày Kim Cang, ngồi Kiết Già Phu. Hai bên vẽ Kim Cang Bộ Nội Thánh Chúng, an trí thứ lớp: Bồ Tát Kim Cang Mẫu, Bồ Tát Kim Cang Quyền, Bồ Tát Kim Cang Tỏa, Bồ Tát Kim Cang Nhãn, Bồ Tát Kim cang Phẫn Nộ, Bồ Tát Kim Cang Sách, Bồ Tát Kim Cang Quân trà Lợi, Bồ Tát Kim Cang Tiếu, Bồ Tát Kim Cang Hỏa, Bồ Tát Kim Cang Đạt, Bồ Tát Kim Cang Hỉ, Bồ Tát Kim Cang Bổn, Bồ Tát Kim Cang Tâm, Bồ Tát Kim Cang Tô Bà Hô, Bồ Tát Kim Cang Đồng Tử, Bồ Tát Kim Cang Xích Thân, Bồ Tát Kim Cang Thanh Diện, các vị Kim Cang Bồ Tát đều cầm chày Kim Cang, Luân, quyến sách, gậy, lòi tói, bổn ấn khế ngồi bán già, quanh thân lửa cháy rực rỡ, anh lạc trang nghiêm nơi thân, thảy đều như Pháp hình (hình đã ghi rõ trong nghi quỹ).
Ở cửa phía Tây, hai bên an trí 08 Đại Bồ Tát là: Bồ Tát Hư Không Tạng, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Trừ Cái Chướng, Bồ Tát Từ Thị, Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi Đồng tử, Bồ Tát Trì Địa, Bồ Tát Liên Hoa Thủ, Bồ Tát Bí Mật Chủ …v…v… mỗi mỗi đều chấp bổn khế ấn và trang nghiêm nơi thân đầy đủ.
Ngoài viện an trí mười phương các thần Hộ Pháp cùng các quyến thuộc, hai bên vẽ bốn trụ giả. Góc Đông Bắc vẽ Y Xá Na tay cầm Đát Lợi Thư Na, hai bên có hai thị giả tay cầm Ấn Khế.
Cửa Đông phía Đông Bắc, vẽ Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương, tay cầm đàn Tỳ bà có bốn thị giả.
Cửa Đông phía trên hướng Nam, vẽ Hộ Pháp Đế thích Thiên tay cầm chày Kim cang, có bốn thị giả.
Bốn mặt ngoài viện, vẽ bốn Phật Bích Chi, bốn Thanh Văn.
Góc Đông Nam vẽ Hỏa Thiên Thần ngồi trong lửa, tay cầm xâu chuỗi, hai bên vẽ hai thị giả,
Phía Nam vẽ Diêm La Vương tay cầm Tử Vương ấn, Diêm La Phi và các loài quỷ quyến thuộc.
Hai bên góc Tây Nam, vẽ La Sát Vương tay cầm kiếm, có hai thị giả tay cầm đao, đều ngồi hai bên. Mặt cửa phía Tây hướng Tây Nam, vẽ Thủy Thiên Thần mặc giáp mũ, trên đầu có đầu rắn, tay cầm quyển sách, có bốn thị giả quỳ hai bên chắp tay.
Phương dưới cửa Bắc vẽ Địa Thần, A Tu La Vương tay cầm Bảo Bình, có bốn thị giả.
Cửa Nam mặt phía Tây, vẽ Nhật Thiên Tử và Phi cưỡi xe năm con ngựa, hai tay cầm hoa sen nở ngồi trong vòng tròn. Vẽ bảy sao y theo Bổn sắc, tay cầm bổn ấn, vẽ hai bên Nhật Thiên Tử và quyến thuộc.
Mặt phía Đông vẽ Nguyệt Thiên Tử và Phi cưỡi xe năm con ngỗng, tay cầm phướng gió trên có có con thỏ ngồi trong vành trăng, có hai tám sao đều cầm bổn khế, tùy phương hướng, màu sắc, hình Chư Thiên ngồi quanh Nguyệt Thiên Tử.
Mặt Đông và Nam vẽ các Tất Địa chư Tiên, có ba bốn thị giả như trên.
Các Thánh chúng y theo Pháp vẽ bổn hình dầy đủ, đây là Mạn Đà La bậc thượng.
Nếu như vẽ ấn khế, trên đài sen vẽ phóng ánh sáng rực rỡ, đây là Mạn Đà La bậc Trung.
Nếu trên đài sen vẽ các chủng tử Phạm tự phóng ánh sáng chung quanh, đây là Mạn Đà La bậc Hạ.
Nếu quốc vương muốn trừ tai nạn, ở giữa viện thứ ba vẽ năm non bốn biển vua chúa, quan binh các thần kỳ trong nước, như Pháp mà vẽ.
Nếu bị nghịch tặc nổi lên, ở viện thứ tư vẽ hình nghịch tặc và các hình trạng biến dị. Ở trong dưới nửa đàn mà trấn.
Như vậy vẽ xong kết giới, tịch trừ, triệu thỉnh, dâng các Bảo Bình, lư hương, đèn sách, hoa quả, ứ già …v…v… đều an trí dưới tòa các Thánh vị, tùy theo lớn nhỏ sắp đặt. Nếu lớn một trăm tám khuỷu, Bảo Bình hai lăm cái; nếu tám khuỷu trở lại thì mười lần một cái, hoặc sáu cái, còn các món cúng dường khác tùy thời mà dâng cúng, trong chính vòng tròn ở giữa, hai viện ngoài cộng chung là 16, bốn góc bốn cửa đối nhau.
Nếu làm Mạn Đà La Tăng Ích, Tức Tai thì tròn.Nếu Hàng Phục thì làm hình tam giác. Nếu Nhiếp Triệu thì làm hình bán nguyệt. Các thứ khác giống nhau”.
Thông thường các vị Đạo Sư thường hay truyền trao cho Đệ Tử 2 cách tu theo Pháp Tăng Ích và Pháp Tức Tai
_ Nếu tu Pháp Tăng Ích (Pusïtïika) thì Chú Sư ngồi ở mặt Tây hướng mặt về phương Đông, đặt mặt tượng Phật hướng về phương Tây. Từ một ngày cho đến 7 ngày tụng đủ 10 vạn biến. Trong 7 ngày, như Pháp tỏ bày Sám Hối, phát khởi Nguyện Đại Bi thì ngay lúc tu trì liền được thành Pháp. Cần nhớ là đừng khởi Tâm nghi ngờ, luôn thành Tâm cúng dường sẽ sinh vô lượng Phước
Nếu tu Pháp Diên Thọ (cầu sống lâu) thì 6 ngày 6 đêm y theo Pháp thọ trì sẽ mãn tất cả Nguyện. Tất cả khổ não của nẻo ác đáng lẽ phải chịu thảy đều được giải thoát.
_ Nếu tu Pháp Tức Tai (‘Sàntika) : Ngày ngày nên tụng 21 biến sẽ diệt trừ mọi tội, tăng trưởng Phước Lợi , được mọi người yêu kính. Sau khi chết được vãng sinh về cõi Cực Lạc.
Để nhắc nhở Hành Giả tự chứng biết lúc mình sắp tu Chân Ngôn thành tựu , trong Tôn Thắng Phật Đảnh Chân Ngôn Du Già Pháp, quyển hạ ( Do Sa Môn Thích Quảng Trí dịch ra việt Văn) Ngài Thiện Vô Úy có dạy rằng:
“Nay ta lại nói: Hành giả muốn thành tựu tướng của Chơn ngôn, nếu nói cho đầy đủ hết kiếp cũng không nói đặng, chỉ có Phật mới hay nói được thôi. Nếu Hành giả tụng trăm ngàn vạn biến tức được thành tựu. Nếu khi sắp thành tựu, trước có bảy cảnh giới cát tường, phải biết hành giả mau được Tất Địa.
Thứ nhất: Mộng thấy vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Phật Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Đại Như Ý quảng Đại Tôn Thắng Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn Đà La Aán Tam Muội Da, ta được tất cả Như Lai thọ ký Hoán Đảnh Mạn Đà La Aán Tam Ma Địa. Ta và Như Lai một lúc cùng phát thệ rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông được được vào trong mười phương cõi Phật. Lui tới tự tại, trong mỗi cõi có chín mươi chín hằng sau cu chi na dữu đa trăm ngàn tất cả Như Lai nhớ nghĩ gia bị”. Được cảnh giới này, nên gia công tinh tấn, không nên thủ xả.
Thứ hai: Mộng thấy vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Chư Phật, Đại Liên Hoa Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Ma Ni Bảo Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da cung điện. Ta cùng Như lai thọ Đại Liên Hoa Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Ma Ni Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm. Hiện tiền ta và Như Lai cùng nói lời rằng: “Lành thay! Thiện nam tử, ông được Đại Liên Hoa Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm, được Chư Như Lai nhiếp thọ gia bị Đại Ma Ni Ấn Tam Muội Da”.
Thứ ba: Mộng thấy vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Chư Phật, Đại Kim Cang Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại ma Ni Bảo Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da. Ta và Chư Như Lai thọ Kim Cang Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại ma Ni Bảo Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm và ta thọ tất cả Như Lai Kim Cang Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đà La Ni Tam Muội Da phẩm. Tất cả Kim Cang đồng khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông được các Như Lai Kim Cang Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại ma Ni Bảo Đại Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm, được Chư Kim Cang nhiếp thọ gia bị Đại Ma Ni Bảo Kim Cang Ấn Tam Muội Da”.
Thứ tư: Mộng thấy vào mười phương quốc độ tất cả Như Lai Đại Ma Ni Bảo Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm, thấy ta và các Như Lai thọ Đại Ma Ni Bảo Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Bí Mật Thành Tựu Tam Muội Da, được các Như Lai khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông nay được tất cả Như Lai Đại Ma Ni Bảo Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Bí Mật Tâm phẩm hiện tiền gia bị, Pháp Quán đảnh này là tất cả Như Lai Đại Như Ý Bảo Chủng Tộc Bí Mật tâm Chơn ngôn Tam Muội Da phẩm”.
Thứ năm: Mộng thấy vào mười phương quốc độ tất cả Như Lai Bất Thối Chuyển Tôn Thắng Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da, được các Như Lại thọ Bất Thối Chuyển Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm, được Chư Như Lai đều khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông nay được mười phương quốc độ ba đời Chư Phật, tất cả Như Lai Bất Thối Chuyển Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm”.
Thứ sáu: Mộng thấy ta với mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai ngồi cội Bồ Đề, nơi tòa Kim Cang thành Đẳng Chánh Giác, làm Đại Pháp Vương Quán Đảnh Địa Pháp. Thấy khắp mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai ngồi tòa sư tử thọ tất cả Như Lai Bất Thối Pháp Vương Quán Đảnh Đại Pháp. Chư Như Lai đều khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Ngươi thật bền chắc, nay được tất cả Như Lai Bất Thối Như Lai quán đảnh hộ niệm lâu dài không bỏ”.
Thứ bảy: Mộng thấy Như Lai Thích Ca Mâu Ni nơi cội Bồ Đề, ngồi tòa Kim Cang, phóng Đại quang minh, chuyển Đại Pháp luân, đốt Đại Pháp cự, vũ Đại Pháp võ, dựng Đại Pháp tràng, thổi Đại Pháp loa, đánh Đại Pháp nhạc, phá Đại Ma quân và thấy mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai ngồi cội Bồ Đề nơi tòa Kim Cang chuyển Đại Pháp Luân, dẹp Đại Ma quân, Tối Thắng Đại Bí Mật Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm. Thời Chư Như Lai đều khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông được chân ngôn Bảo Kiên Cố Giải Thoát Chuyển Pháp Luân Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn Đà La Ấn tam Muội Da”.
Như vậy y Pháp cần phải cố gắng quán tưởng thọ trì đọc tụng không có gián đoạn, tức được bảy loại mộng tốt. Chứng Nhất Thiết Như Lai Năm Đảnh Luân Vương Chơn Ngôn Thần Biến Pháp, nhập vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Phật Đảnh Luân Vương Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai Đại Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da hội. Nhập tất cả Tam Muội Da xứ. Được thấy mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai Tôn Thắng Phật Đảnh Luân Vương Như Lai Đại Tỳ Lô Giá Na, bốn Ba La Mật …v…v… Đông phương Như Lai A Súc, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ …v…v… Nam phương Như Lai Bảo Sanh, Hư Không Bảo …v…v… Tây phương Như Lai Vô Lượng Thọ, Liên Hoa Nhãn …v…v… Bắc phương Như Lai Bất Không Tất Địa, Tỳ Thủ Yết Ma …v…v… bốn Trí, bốn Tam Muội Da …v…v… vô lượng Thánh chúng sắc thân vi diệu cung kính cúng dường, gìn giữ mười phương quốc độ ba đời tất cả Tôn Thắng Phật Đảnh Tỳ Lộ Giá Na Như Lai, tất cả danh hiệu được mười phương quốc độ ba đời, tất cả Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai thọ cho Trừ Chướng Phật Đảnh Ấn Đà La Ni Tam Muội Da Thần Thông Pháp phẩm trên hết.
Nếu trong quá khứ đã tạo mười ác, năm nghịch, bốn trọng, các tội nặng nề thảy đều trừ sạch.
Nếu có chúng sanh ở nơi các đọa xứ được nghe Đại Quán Đảnh Quang Vương Tôn Thắng phật Đảnh Luân Vương Chơn ngôn qua tai một, hai, ba, bảy lần, tức được tiêu trừ tất cả tội chướng.
Nếu Hành giả Du già thương xót sáu nẻo Hữu tình ở nơi đảnh núi cao lễ mười phương, mỗi phương tụng Tôn Thắng Chơn ngôn một biến, mắt nhìn các loại chúng sanh đều được xa lìa tất cả tội khổ. Đời sau được sanh vào cõi Bất Động phật, hoặc viết trên phướng, treo trên đảnh núi cao, trên đầu ngọn cây, phướng bay hướng nào tất cả chúng sanh hướng ấy có các tội mười ác, năm nghịch, bốn trọng, thảy đều tiêu diệt. Hoặc viết chữ Phạn, an trí trên phướng cũng được như trên đã nói. Bảy loại mộng tốt tương ưng, nên biết Hành giả Du già mau chứng Phổ Hiện Sắc Thân Đại Tam Ma Địa, nhập vào Vô Sanh Bình Đẳng Năm Trí, thành tựu thân Như Lai Đại Tỳ lô Giá Na”.
Riêng về sự Thành Tựu ( Tất Địa:Siddhi) thì có hai loại là Hữu Tướng Tất Địa và Vô Tướng Tất Địa
Hữu Tướng Tất Địa có 3 bậc là:
_ Hạ Tất Địa : Được trường sinh bất lão, làm vua trong chư Tiên. Hoặc đạt được tất cả việc thù thắng xảo diệu của Thế Gian, sống lâu vạn tuổi.
_ Trung Tất Địa :Được địa vị Chuyển Luân Thánh Vương, sống lâu một kiếp.
_ Thượng Tất Địa : Chứng Ngũ Địa cho đết Bát Địa , tự đến thân Bồ Tát. Trong khoảng một niệm vượt 10 Phật Sát vi trần số Phật Thế Giới , thừa sự cúng dường mỗi một vị Phật, hóa độ chúng sinh.
Vô Tướng Tất Địa ; có 3 bậc là:
_ Hạ Tất Địa : 3 loại Tất Địa lúc trước là Hạ Tất Địa
_ Trung Tất Địa : Như trong Vô Tướng, hoặc được thân Bản Tôn, hoặc được thân ứng hóa cho đến thân Bồ Tát ở 10 Địa Vị.
_ Thượng Tất Địa : 3 Nghiệp tức là 3 Mật, 3 Mật tức là 3 Thân, 3 Thân tức là Đại Nhật Như Lai Trí.
Nếu được thân Tỳ Lô Giá Na như vậy , hoặc chứng Pháp Giới Phổ Hiện Sắc Thân , đồng một Pháp Giới , đồng một Thể Tính . Ngoài một tâm không có một vật nào mà có thể được. Lập tướng hư không của chư Phật, hư không cũng không có tướng, tâm đồng hư không cho nên người tu Du Kỳ cũng đồng một Thể. Một niệm đốn vượt 3 vọng chấp, độ 3 tăng kỳ hạnh, phát Tâm Bồ Đề liền thành Chính Giác tức là thân của Tất Địa. Đây là Pháp tối thượng trong Vô Tướng Tất Địa .
13/06/2005
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Hue Thanh