Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Ta làm gì với đôi bàn tay

04/02/201213:08(Xem: 7440)
05. Ta làm gì với đôi bàn tay
NƠI ẤY LÀ BÂY GIỜ VÀ Ở ĐÂY
Nguyên tác: Wherever You Go, There You Are.
Tác giả: Jon Kabat-Zinn - Dịch giả: Nguyễn Duy Nhiên.
"Thiền tập áp dụng vào đời sống hằng ngày"

PHẦN HAI
TRÁI TIM CỦA SỰ TU TẬP

5.- TA LÀM GÌ VỚI ĐÔI BÀN TAY

Trong thân ta có những luồng năng lượng rất tinh tế. Chúng đã được kẻ vạch, học hỏi và xử dụng trong những truyền thống tu tập như là thiền định và Du già (Yoga) từ hàng mấy ngàn năm nay. Bằng trực giác, chúng ta biết rằng mỗi tư thế của mình biểu lộ một trạng thái đặc biệt, và chúng tỏa chiếu vào bên trong cũng như ra bên ngoài ta. Ngày nay người ta thường gọi đó là "ngôn ngữ của thân". Nhìn bề ngoài một người, ta có thể đọc được thứ ngôn ngữ ấy, ta có thể biết được người ấy nghĩ gì về chính họ. Chúng ta lúc nào cũng truyền phát đi các tin tức ấy cho bất cứ những ai biết tiếp nhận chúng.

Nhưng ở đây, tôi muốn nói đến giá trị của việc ý thức được ngôn ngữ của chính bản thân mình. Ý thức ấy có một khả năng xúc tác, làm phát triển sự chuyển hóa cũng như sự tăng trưởng của ta. Trong truyền thống Du già, bộ môn có liên quan đến những tư thế đặc biệt của thân được gọi là Ấn, tức là Mudra. Nói chung mọi tư thế của thân đều có thể là Ấn, vì mỗi cái đều có mang một biểu tượng và một năng lượng đặc biệt. Nhưng Ấn thường được dùng để nói đến những gì tinh tế hơn là tư thế của toàn thân. Chúng được dùng để diễn tả vị thế của đôi bàn tay, và còn được gọi là thủ ấn.

Nếu có dịp bước vào một tu viện Phật giáo và quan sát những hình tượng Phật và các vị Bồ tát, bạn sẽ nhận thấy rằng trong hàng trăm tư thế thiền định khác nhau, đứng, nằm hoặc ngồi, đôi bàn tay của các ngài cũng còn được đặt trong những vị thế khác nhau. Trong tư thế ngồi thiền, đôi khi hai bàn tay được đặt trên đầu gối, lòng bàn tay úp xuống; đôi khi một bàn tay hoặc cả hai bàn tay ngửa lên; đôi khi có một ngón tay chạm xuống đất, trong khi bàn tay kia đưa lên. Cũng có khi hai bàn tay để trong lòng bắp vế, bàn tay này ngửa lên, nằm trong lòng bàn tay kia, hai đầu ngón tay cái khẽ chạm vào nhau, làm thành một hình bầu dục như quả trứng, đó được gọi là vũ trụ ấn. Có khi hai bàn tay được chấp vào nhau để trước ngực như hình một đóa sen. Tư thế này được dùng để chào nhau, ta kính nhận được Phật tính ở nơi người đối diện.

Những thủ ấn này, mỗi cái đều mang một năng lượng khác nhau. Bạn có thể tự thử nghiệm lấy việc ấy trong sự thiền tập của mình. Bạn hãy thử ngồi với đôi bàn tay úp xuống để trên đầu gối. Ghi nhận tính chất tự chế của nó. Đối với tôi, tư thế này biểu lộ rằng ta không tìm kiếm thêm một việc gì nữa, mà chỉ tiêu thụ những gì mình đã có.

Nếu bạn thử xoay lòng bàn tay lên trời, lẽ dĩ nhiên là trong chánh niệm, bạn có thể sẽ cảm nhận được một sự thay đổi nơi vùng năng lượng trong thân. Đối với tôi, tư thế này biểu tượng cho một sự tiếp nhận, cởi mở với năng lượng từ bên trên. Những năng lượng ấy là của trí tuệ, thanh tịnh và từ bi.

Mọi vị thế của đôi bàn tay ta đều là những thủ ấn, vì chúng đều mang theo một năng lượng, dù tinh tế hay là hiển lộ. Ví dụ năng lượng của một nắm tay chẳng hạn. Mỗi khi ta tức giận, bàn tay ta thường có khuynh hướng nắm chặt lại. Có một số người thực hành thủ ấn này một cách vô ý thức, rất nhiều lần trong đời sống của họ. Nó tưới tẩm cho những hạt giống giận dữ và bạo động trong ta mỗi khi ta làm việc ấy. Và rồi mỗi ngày cây sân hận của ta càng lúc sẽ trở nên xanh tươi hơn, mạnh mẽ hơn.

Lần tới, nếu bạn thấy mình nắm chặt bàn tay lại vì một cơn giận nào đó, bạn hãy giữ chánh niệm và chú ý đến thái độ của ta được biểu lộ trong cái nắm tay ấy. Cảm nhận được sự căng thẳng, căm giận, khích động và sợ hãi đang có mặt nơi đó. Rồi trong cơn giận của mình, như là một thử nghiệm, nếu người làm cho ta giận có mặt nơi đó, bạn hãy mở rộng đôi bàn tay mình ra, chấp lại trước ngực làm thành hình một đóa sen. Lẽ dĩ nhiên người ấy sẽ ngẩn ngơ, chẳng biết bạn đang làm trò gì! Ghi nhận chuyện gì xảy đến cho cơn giận và nổi đau của bạn, trong khi bạn giữ tư thế này, dù chỉ trong giây phút.

Tôi nhận thấy rằng, mỗi khi thử làm việc ấy, tôi không thể nào duy trì cơn giận được nữa. Việc đó không có nghĩa là cơn giận của ta không bao giờ là chánh đáng. Nhưng vì sẽ có nhiều cảm xúc khác tham dự vào, giúp ta kiểm soát và hòa giải được cơn giận ấy - như là lòng từ bi, thương hại đối với người kia, và có lẽ nhờ một sự hiểu biết minh triết hơn. Ta ý thức được rằng, mọi việc đều có liên hệ chằng chịt với nhau, cái này dẫn đến cái kia, có thể một nguyên nhân vô tư nào đó đưa đẩy đến một kết quả bị hiểu lầm là có ác ý. Và rồi từ đó si mê cộng thêm vào si mê, tham sân cộng thêm với tham sân, ta không còn thấy đâu là ánh sáng nữa.

Khi thánh Gandhi bị ám sát vì một phát súng kề sát bên, ngài đã chấp hai tay lại và hướng về kẻ giết ngài, thốt lên một câu thần chú rồi nhắm mắt. Những năm dài tu tập thiền định và Du già, được hướng dẫn bởi bộ kinh Bhagavad Gita, đã đem lại cho thánh Gandhi một thái độ vô trước, không dính mắc vào bất cứ một việc gì, ngay cả chính sự sống của mình. Nó đã cho phép ngài được tự do chọn bất cứ một thái độ nào ngài muốn, ngay cả trong lúc mạng sống của mình đang bị cướp đoạt đi. Thánh Gandhi không chết trong sự giận dữ hoặc là bất ngờ. Ngài bao giờ cũng ý thức rằng mạng sống mình luôn luôn đang bị đe dọa. Nhưng ngài dám làm theo chí hướng và niềm tin của mình. Thành Gandhi là một biểu tượng cho đức từ bi. Ngài sống cho lý tưởng tự do của cả chánh trị lẫn tôn giáo. Sự an ninh cá nhân, ngài không bao giờ lấy đó làm trọng. Bao giờ ngài cũng dám hy sinh.

Thực tập: Hãy tập ý thức được những phẩm tính của các cảm xúc tinh tế khác nhau, ta có trong một ngày và trong suốt thời gian ngồi thiền. Đặc biệt chú ý đến đôi bàn tay của bạn. Vị thế của chúng có tạo nên một sự khác biệt nào không? Ghi nhận rằng, khi ta có chánh niệm về thân thì ta cũng sẽ có chánh niệm về tâm.

Khi bạn thực tập tiếp xúc với đôi bàn tay của mình trong lúc ngồi thiền, ghi nhận xem nó ảnh hưởng đến sự xúc chạm của bạn trong đời sống hằng ngày ra sao? Mọi việc, từ mở một cánh cửa cho đến ôm hôn một người thân, đều đòi hỏi sự xúc chạm. Trong ngày, biết bao nhiêu lần bàn tay ta đã mở một cánh cửa mà không hề có ý thức, không có một cảm giác nào hết. Lần tới, nếu bạn có ôm hôn một người thân, đừng để cho nó trở thành một hành động máy móc, phải biết có mặt trọn vẹn và thật lòng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2012(Xem: 5870)
Trong hiện tại con thấy rằng thật không thể chịu nổi vì người thân của con khổ đau, nhưng con vui thích khi kẻ thù con đau khổ, và con dửng dưng đến khổ đau của những người không liên hệ. Tông Khách Ba, Đại Luận Con Đường Tiệm Tiến - Lamrim [1] Từ nền tảng bản chất thật sự của tâm, chúng ta cần phát triển từ ái và bi mẫn thật mạnh mẽ rằng khổ đau của người khác trở nên không thể chịu nổi. Vì từ ái và bi mẫn phải được cảm nhận một cách bình đẳng cho tất cả mọi loài chúng sinh, sức mạnh của những thái độ này sẽ tùy thuộc trên mức độ của sự gần gũi hay thân thiết mà chúng ta cảm nhận cho người khác.
15/01/2012(Xem: 6763)
Phật đã bỏ loài người…(1) Điệp khúc ấy lâu lâu lại thấy đâu đó trên những đoạn đường đi qua. Nó đếnvà đi như bao chuyện khác trong đời. Chuyện phiếm trong đời quá nhiều, đâu đángbận tâm. Cho đến cái ngày, nó được thổi vào trong thơ của một ai đó như một bài“Thiền ca”… Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
21/12/2011(Xem: 11985)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng ta ở trình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
13/12/2011(Xem: 8900)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
22/10/2011(Xem: 3205)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánh là thực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
22/10/2011(Xem: 3433)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạo lí giác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
20/10/2011(Xem: 3777)
Chúng tôi muốn trình bày vài điều để giớithiệu cách thực hành thiền. Như đa số mọi người, từ người phương Tây đến ngườiÁ châu, đều rất hâm mộ thiền định, bởi vì bị lôi cuốn bởi sự thực hành và đạtđược nhiều lợi lạc từ đó. Tuy nhiên, dù rất nhiều người áp dụng thiền trong đờisống, nhưng chỉ có một số ít là hiểu được sâu xa mục đích của thiền.
17/10/2011(Xem: 5318)
Chúng ta sống, quay cuồng trong cuộc đời, cuối đời còn muốn kéo dài tuổi thọ. Nhưng có khi nào chúng ta dừng lại , suy nghĩ, bình tỉnh lại để tự hỏi mình sống để làm gì ? Ý nghĩa cuộc đời là gì ?
13/10/2011(Xem: 5389)
Nhiều người nói thực hành thiền Chánh Niệm tốt cho não bộ, nhưng ai có thể chứng minh được điều này? Một vị sư Phật giáo, Thiền sư, Triết gia, và trước đây là một khoa học gia, Matthieu Ricard tham dự án nghiên cứu cho thực tập Thiền có ảnh hưởng tích cực cho não bộ. Ông tình nguyện làm một đối tượng nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trong những cuộc nghiên cứu quan trọng về Thiền và Não Bộ và ít có người ở trong một vị thế đặc biệt như ông để mô tả cuộc gặp gỡ giữa khoa học và Thiền quán.
02/10/2011(Xem: 6725)
Hôm nay chúng tôi giảng về Sự tương quan giữa Bát-nhã và Thiền tông. Đề tài này hơi cao, quí vị chịu khó lắng nghe kỹ mới thấy giá trị của đạo Phật. CácThiền viện của chúng tôi trước khi sám hối phải tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Sau khi xả thiền cũng tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Nhiều người hỏi tại sao không tụng kinh khác mà lại tụng Bát-nhã Tâm Kinh. Bởi vì Bát-nhã Tâm Kinh là một bài kinh rất thiết yếu cho người tu Phật, chẳng những tu Thiền mà tu Tịnh, tu Mật đều quí cả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567