Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

III. Thực tại ở đâu?

20/04/201113:17(Xem: 10416)
III. Thực tại ở đâu?

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

THỰC TẠI SÁNG NGỜI MUÔN THUỞ

III. THỰC TẠI Ở ĐÂU?

Đây là một điểm nữa cần thấu triệt để không lầm ngôn ngữ. Tâm người quen sống có CHỖ đã lâu, không chỗ thì chới với nên luôn hỏi chỗ. Với thực tại mà hỏi ở đâu, tức xa thực tại rồi, đâu còn là thực tại ! Có ở đâu là bị chỗ đó CHUYỂN, là đi vào luân hồi. Còn đợi câu trả lời để hiểu nữa là càng đi quá xa.
Có vị tăng hỏi Thiền sư Tự mãn:

- Chẳng rơi vào xưa nay, xin thầy nói thẳng!

Sư bảo:

- Đã biết ông lờ mờ rồi!

Vị tăng muốn hỏi thêm, Sư liền bảo:

- Sẽ cho là lão tăng rơi vào xưa nay.

Ông tăng hỏi thẳng mà Sư bảo lờ mờ, ai thấy ông tăng lờ mờ ở chỗ nào? Hãy chín chắn lại xem: Đã chẳng rơi vào xưa naymà còn đợi nói ra thì sao ? Có nói ra tức rơi vào xưa nay rồi. Ngay chính câu hỏi đã kẹt vào " RƠI - CHẲNG RƠI ", là trái thực tại không hay. Nếu thực chẳng rơi XƯA NAY, sao còn đợi chỉ? Người kẹt chữ nghĩa dễ lầm chỗ này!

Còn đây, Thiền sư Huệ Minh cất am trên núi Đại Mai, có hai thiền khách đến am, Sư hỏi:

- Thượng tọa ở đâu đến?

ThIền khách đáp:

- Ở đô thành đến.
Sư bảo:
- Thượng tọa rời đô thành đến núi này thì ở đô thành thiều Thượng tọa, ở núi này dư Thượng tọa. Dư thì ở ngoài tâm có pháp, thiếu thì tâm pháp chẳng khắp. Nói được đạo lý thì ở, chẳng hội nên đi.

Cả hai không đáp được.

Thiền sư Huệ Minh khéo thêm THIẾU DƯ để gạn hai Thượng tọa kia. Đúng ngay hai ông còn kẹt "đây kia", chỗ nơi, quên mất thực tại hằng hữu nơi mình nên bị ngôn ngữ lừa. Chính cái đang đối diện hỏi đápđó, có đây kia gì đâu? Thấy đây thấy kia là kẹt trên thân tướng giả hợp này. Y cứ trên thân tướng này thì có chỗ nơi nên có ở đâythì vắng ở kia. Đã kẹt chỗ nơi, đây kia nên cũng vướng mắc thiếu dư thành bị ngại.

Lâm Tế cũng từng thể hiện ý này rất tế nhị. Sư từ giã Hoàng Bá đi, Hoàng Bá hỏi:

- Ông đi về đâu?

Sư đáp:

- Chẳng về Hà Nam liền về Hà Bắc.

Chỉ một câu đáp nhẹ nhàng nhưng biểu hiện sức sống thực tại luôn hiện hữu nơi Sư. Nghĩa là, với Sư thì sức sống chân thật đó luôn luôn hiện hữu nơi mình không lúc nào vắng mặt, không dừng ở một chỗ nào, không thuộc ở hà Nam cũng không htuộc ở Hà Bắc. Chính Sư luôn sống trong ấy mới trả lời được như thế. Nếu người còn nhớ chỗ kia, chỗ này hoặc ở Hà Nam hoặc ở Hà Bắc, tức còn kẹt trên cái ta này, đó là chưa thấy TÁNH, chưa SỐNG NGAY THỰC TẠI ĐANG LÀ !

Chính vua Lý Thái Tông vì muốn biết chỗ sống của Thiền sư Thiền Lão nên một hôm vua vào núi hỏi Sư:

- Hằng ngày Hòa thượng làm gì?

Sư đáp:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong mây bạc lộ toàn chân.

Hỏi hằng ngày làm gì, tức hỏi chỗ sống của Thiền sư. Với Thiền Lão thì tất cả trước mặt đều hiện bày ánh sáng chân thật ấy kh6ong chỗ nào thiếu vắng, không có thêm cái gì khác nữa để làm. Vì vậy, trăng trong, mây bạc, trúc biếc, hoa vàngđều lộ bày toàn thể tánh chân, Sư thấy cái gì cũng sáng ngời không mê. Đó là thực tại luôn hiện hữu, còn phải tìm đâu nữa?

Cũng như có ông tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:

- Khi tiên nhân Tỳ Mục cầm tay đồng tử Thiện Tài liền thấy vi trần Phật thì thế nào?

Triều Châu liền cầm tay ông tăng bảo:

- Ông thấy cái gì?

Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới nói, khi đồng tử Thiện Tài đến tham học với tiên nhân Tù Mục, được tiên nhân cầm tay thì liền đó thấy vô số đức Phật nhiều như bụi nhỏ. Ở đây ông tăng thắc mắc, trong cái cầm tay có gì đặc biệt mà thấy vi trần Phật như thế? Không ngờ Triệu Châu là bậc mắt sáng, Sư đâu theo cái khuôn chữ nghĩa để giải thích, mà trực tiếp đưa ông tăng vào chỗ thực tại đó! Chính ngay khi Sư cầm tay, ông tăng liền cảm nhậnchưa trôi vào niệm thứ hai, trong ấy thiếu cái gì? Phật Phật vô lượng, vô số có ngoài ánh sáng ấy đâu? Nghe nói tiên nhân Tỳ Mục, lo nhớ đến ở thuở nào, về mấy ngàn năm trước, là đánh mất ánh sáng tực tại đây rồi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/10/2011(Xem: 6326)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
13/09/2011(Xem: 7345)
Thiền - dù trải qua bao thế hệ thời đại theo thời gian và không gian, với quan niệm tu tập trong mọi tôn giáo có khác nhau - cũng chỉ là phương pháp thực hành để đến đích của đạo mình, nên gọi đồng tên thiền kèm theo đạo hoặc môn phái riêng và có nhiều tên đặt không giống nhau, ngay cả trong Phật giáo cũng có nhiều loại thiền. Tổ Sư Thiền có lẽ bắt đầu từ thời Trừng Quán (738-839), Tứ tổ Hoa nghiêm tông của Phật giáo Trung Hoa, sư Khuê Phong Mật Tông (780-842).
25/07/2011(Xem: 3190)
Người học về thiền này không nghỉ, không ngưng lại, luôn luôn quán sát hơi thở ra vào thì hộ trì được ba nghiệp thân, miệng, ý, gọi là giới học và định, tuệ.
25/07/2011(Xem: 4479)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
23/07/2011(Xem: 3538)
Thiền Tiệm Ngộ là pháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
23/07/2011(Xem: 5472)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
22/07/2011(Xem: 4691)
Ngày nay, Thiền tông đang phát triển nhanh ở nước Mỹ; ở những quốc gia phương Tây khác, thiền cũng được nhiều người quan tâm hơn, đặc biệt là giới trẻ. Tuy nhiên, dù có nhiều người cảm thấy thích thú đối với thiền ngay từ lúc đầu, nhưng chỉ có một số ít người theo đuổi cho đến mục đích cuối cùng. Tại sao như vậy? Tại vì sự quan tâm của họ không được xây dựng trên nền tảng vững chắc, nhiều người đã từ bỏ sự theo đuổi đối với thiền giữa chừng. Sự quan tâm của họ chỉ đơn thuần là sự tò mò, đến rồi đi, vào rồi lại ra một cách dễ dàng như là sự thay đổi áo quần vậy. Để kiên trì theo con đường của thiền, thì ngay từ đầu cần phải biết và rèn luyện ba nhân tố cốt lõi của thiền tập.
21/07/2011(Xem: 6811)
Tuy lớn lên trong gia đình Công Giáo, nhưng ‘nhà Chúa’ và ‘nhà Chùa’ không xa nhau và không tách biệt đối với tôi từ thưở nhỏ. Ở xóm tôi, thuộc huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang, nhà Chúa chỉ cách nhà Chùa có năm phút đi bộ. Chuông công phu và chuông nhà thờ ngân vang cả vùng, gửi qua bao tầng không gian những thông điệp hòa bình và tin yêu giữa một xã hội túng bấn cả hai.
17/07/2011(Xem: 3288)
Khuôn mặt chính của tông phái tiên phong nầy là Thiên Thai Trí Khải (538-597), người đã được nhìn nhận như một triết gia vĩ đại trong những triết gia Phật giáo ở Trung Hoa, có một chỗ đứng ngang hàng với Thomas Aquinas và Al-Ghazali, là những người đã lập thành hệ thống lề lối tư tưởng và phương pháp hành trì tôn giáo trong lịch sử thế giới. (Tiến sĩ David W. Chappell – Đại học Hawaii, Manoa)
01/07/2011(Xem: 2891)
Thở vào, tâm tĩnh lặng Thở ra, miệng mỉm cười An trú trong hiện tại Giờ phút đẹp tuyệt vời (An lạc từng bước chân- Thích Nhất Hạnh)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567