Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

55. Thiền Và Tâm

09/02/201114:37(Xem: 7286)
55. Thiền Và Tâm

THIỆN PHÚC
ĐẠO PHẬT AN LẠC VÀ TỈNH THỨC
“Buddhism, a religion of Peace, Joy, and Mindfulness”
Tổ Đình Minh Đăng Quang

55. THIỀN VÀ TÂM

Tâm là cái gì? Tâm ở đâu? Tâm hình dạng ra sao? Tâm ở trong ta hay ở ngoài ta...? Nói tới tâm là nói tới cái gì vô cùng trừu tượng; tâm không hình, không dáng, không lớn, không nhỏ. Tâm ở trong ta hay ở ngoài ta, chỉ có Phật mới hiểu nỗi. Tuy nhiên, có một điều, hễ nghe nói tới tâm thì ai trong chúng ta cũng đều nghĩ ngay tới sự tạo tác của nó. Tâm có thể đưa ta đến Cực Lạc, thì chính tâm cũng có thể tạo đau khổ và phiền não cho ta. Tại sao lại như vậy ? Tại sao tâm từ cũng là ta, mà tâm tà cũng lại là ta ? Trong chúng ta, ai cũng phải thừa nhận rằng đã rất nhiều lần, chính mình đã không làm chủ lấy tâm mình; đã rất nhiều lần ta giao trứng cho ác vì ta chấp rằng cái tâm ấy chính là ta; hoặc giả ta quá tự tin nơi con người không có thật của ta...

Trong thiền, không có cái gì thật, chỉ là mượn tạm, khi qua được bờ liền bỏ. Thiền là trở về với chân tâm để nhận ra rõ ràng mặt mũi thật của ta từ vô thỉ. Thiền là dù biết rằng thân nầy, tâm nầy không phải là của ta, ta vẫn phải mượn nó mà tu. Một khi đã gọi là mượn rồi thì người tu thiền cũng quyết giữ cho đàng hoàng, tựa như là của chính mình vậy. Nếu ta biết dùng những của tạm bợ nầy mà tu thì chuyện được rốt ráo hẳn là ắt có thôi. Hãy nhìn Đức Từ Phụ đấy thì rõ. Ngài đã biết dùng cái thân tứ đại nầy mà hành trình về cõi vô sanh.

Như vậy nhiệm vụ chính của thiền là coi chừng, là canh giữ những món đồ mượn; coi chừng và canh giữ sao cho những món đồ nầy chỉ có lợi cho ta, chứ không đem lại bất cứ một sự di hại nào, dù nhỏ. Ấy là sự canh giữ rốt ráo. Nhiệm vụ chính của thiền là giữ cho tâm ta lúc nào cũng có chánh niệm, cũng tỉnh thức, và cũng trụ ngay trong cái hiện tại nầy. Nếu thiền mà đạt được như vậy thì ta còn muốn gì hơn nữa ? Nếu thiền mà thanh lọc tâm được như vậy thì lúc đó ta sẽ đi con đường mà ta muốn đi. Nói cách khác, ta có được cái trí huệ thật sự. Tất cả những gì mà ta có được trên cõi đời nầy đều là tạm bợ, chúng đến rồi đi. Chúng chưa bao giờ tạo ra chân hạnh phúc cho ta. Chỉ có trí huệ chân thật mới tồn tại mà thôi. Chính cái trí huệ nầy nó đã mở cái huệ nhãn của ta để cho ta thấy tất cả những hiện tượng là vô thường, không có gì tồn tại. Đời sống con người rất ngắn ngủi so với đời sống của một hành tinh; và tương tự, đời sống của một hành tinh rất là ngắn ngủi so với đời sống của một vì sao, hoặc của một dãy ngân hà... Thấy rõ được như vậy để tự mình chọn lấy lối đi cho mình. Thiên đàng, địa ngục, Niết Bàn, giải thoát...

Thật tình mà nói, ngay cả những thứ vừa nói trên cũng là huyễn ảo, không phải là cứu cánh của người tu thiền. Người tu thiền chân chánh là người biết sống cho mình và cho người. Muốn sống được cho mình và cho người không phải là chuyện dễ. Ngoài chuyện tinh tấn hành thiền, người tu thiền còn phải giữ giới, ít nhất là phải trì cho được ngũ giới. Chính Đức Phật đã dạy rằng khi không có Ngài trụ thế thì chúng sanh đời sau nầy phải lấy giới luật làm thầy. Như vậy đủ cho ta thấy giới luật nó quan trọng đến bực nào. Giới còn là phương tiện giúp ta có đủ sức mạnh để tập trung vào thiền định. Ta làm sao chế ngự được tham, sân, si, dâm dục, ngã mạn, cống cao... nếu chúng ta không giữ giới? Một thí dụ rõ nét là nếu miệng nói không sát sanh thì phải giữ cho đúng từ đầu đến chân là không sát sanh. Đành rằng khó, nhưng có người làm được, mình làm được. Đừng đổ thừa tại tôi thiếu căn nên không ăn chay được. Không có căn cơ chi cả, chỉ tự ta mà thôi. Hoặc giả vì nghèo mà phải sanh tâm trộm cắp. Trên đời nầy không thiếu chi người nghèo mà thanh bần lạc đạo. Như vậy, không có tại với bị chi cả. Tất cả đều do cái tâm nầy mà ra; tâm từ thì về cõi trời, mà tâm tà thì đi về địa ngục, thế thôi.

Người tu thiền luôn nhớ rằng tất cả những gì ta đang có, đang thấy, đang nghe, đang chạm, đang mơ tưởng... chỉ là của mượn. Chính vì vậy mà ta không bận bịu, bám víu vào những của mượn ấy, mà chỉ nhờ chúng để qua bờ. Qua bờ xong là một niệm cũng không còn.

 

 


 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 9646)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 7865)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 9618)
Tại các quốc gia Âu Mỹ, pháp thiền trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy thường được hiểu như là pháp thiền minh sát, cho đến nổi có nhiều người thực hành trong truyền thống này xem mình như là các thiền giả minh sát. Tuy nhiên, các bản kinh Pali -- tài liệu cổ xưa ghi lại các bài giảng của Đức Phật, không xem thiền minh sát như là một hệ thống tu thiền độc lập nhưng là một thành tố của một cặp kỷ năng hành thiền gọi là Samatha và Vipassanà, An Chỉ và Minh Quán -- hay Chỉ và Quán.
10/04/2013(Xem: 7079)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
09/04/2013(Xem: 13666)
Người Tây Phương đã có những công trình nghiên cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả người Anh, người Đức, tiêu biển nhất là những hội viên của Pali Text Society và Royal Asiatic Academy đã để lại những dịch phẩm, tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới. Một số cá nhân đi xa hơn trở thành những tu sĩ Tây phương tại các quốc gia Phật giáo. Họ tìm thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi sống giữa những người Phật tử Á Đông.
09/04/2013(Xem: 5367)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
04/04/2013(Xem: 6654)
"Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền.
02/04/2013(Xem: 2348)
Tất cả những ai đến thực tập Thiền Minh Sát Tuệ [hay Thiền Minh Sát] đều mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai chưa khai triển Trí Tuệ đều mong phát sanh Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai đã có vài Tuệ giác đều mong phát triển thêm Trí Tuệ thật nhanh. Mọi người mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh.
21/03/2013(Xem: 14258)
NIẾT BÀN, phỏng dịch theo nguyên bản mang tựa đề: “NIRVANA IN A NUTSHELL” của SCOTT SHAW, do Barnes & Noble ấn hành năm 2003. Tác giả Scott Shaw là một nhà văn điêu luyện, một nhà giáo, một nhà võ và đồng thời là một Phật tử thuận thành.
28/12/2012(Xem: 14112)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567