Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Cuộc đời Ðức Phật

02/02/201111:04(Xem: 10280)
02. Cuộc đời Ðức Phật

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

Cuộcđời Ðức Phật

BìnhAnson

Ngàyrằmtháng tư âm lịch mỗi năm là một ngày đặc biệt chotất cả các Phật tử trên thế giới. Theo truyền thống Theravada(Nguyên thủy, Nam tông), đó là ngày Tam Hợp- Vesakha(Vesak)- kỷ niệm ngày sinh (Phật Ðản), ngày chứng đắc(Thành Ðạo), và ngày tịch diệt (Ðại Niết Bàn) của ÐứcPhật. Trong khi đó, một số quốc gia theo truyền thống Mahayana(Ðại thừa, Bắc tông) cử hành ba dịp trọng đại trên vàoba ngày khác nhau trong năm. Tuy nhiên, ngày rằm tháng tư đượcxem như là ngày lễ Phật giáo quan trọng nhất, và đã đượctoàn thể các tông phái Phật giáo thống nhất vào kỳ Ðạihội lần thứ VI của Phật giáo Thế giới năm 1961.

Ðếnnay, mọi người đều thống nhất rằng Ðức Phật sinh ratrong đêm trăng rằm tháng tư âm lịch năm 623 trước Tây Lịch(TL), tại vườn Lumbini(Lâm Tỳ Ni), ngoại ô thành Kapilavatthu(Ca Tỳ La Vệ), ngày nay thuộc xứ Nepal, phía bắc Ấn Ðộ.Thân phụ Ngài là vua Suddhodana(Tịnh Phạn) và thân mẫulà hoàng hậu Maha Maya(Ðại Tịnh Diệu). Ngài thuộcsắc tộc Sakya(Thích Ca), có họ Gotama (Cồ Ðàm),và được vua cha đặt tên là Siddhatta(Sĩ Ðạt Ða),có nghĩa là Như Ý. Năm 16 tuổi, Ngài lập gia đình với côngchúa Yasodhara(Gia Du Ðà La) và có một người con trai,tên là Rahula(La Hầu La).

Năm29 tuổi, Ngài rời bỏ cung vàng, vượt sông Anoma(mộtchi nhánh của thượng lưu sông Gange - Hằng hà), tầm sư họcđạo, sống một cuộc đời du tăng. Sau 6 năm học hỏi vớinhiều bậc đạo sư nổi tiếng thời đó với nhiều phápmôn tu tập khác nhau, Ngài cảm thấy vẫn còn nhiều vướngmắc, và vẫn không tìm ra được con đường giải thoát tốihậu.

Cuốicùng, Ngài quyết định không sống lệ thuộc vào một vịđạo sư, một pháp môn nào cả. Từ bỏ lối tu khổ hạnhhành xác, Ngài bắt đầu đi khất thực trở lại để phụchồi sức khỏe, và tham thiền dưới cội cây Assatha(ficusreligiosa), sau nầy được gọi là cây bồ đề(bodhi),trong vùng Gaya - ngày nay được gọi là Bodhgaya, Bồ ÐềÐạo Tràng, bên bờ sông Neranjara(Ni Liên Thuyền).

Ngàilập tâm nhất quyết nỗ lực cùng tột bất thối chuyển:"Dùchỉ còn da, gân và xương, máu và thịt đã cạn khô và tanbiến, ta nguyện không xê dịch chỗ nầy cho đến khi chứngngộ Toàn Giác (samma-sambodhi)". Vào đêm rằm tháng tư năm588 trước TL, Ngài nhập định tham thiền, quán niệm hơi thởvà định tâm, an trú vào bốn tầng thiền-na (jhana),rồi hướng tâm hồi tưởng các tiền kiếp. Vào cuối canhmột đêm đó, Ngài chứng đạt trí tuệ "túc mạng minh". Sauđó, Ngài hướng tâm quán triệt nguyên do đưa đến sự sinhtử của mọi loài, về luật nghiệp quả, và vào cuối canhhai, Ngài chứng đạt "thiên nhãn minh". Sau đó, Ngài quán triệtsự chấm dứt các lậu hoặc, quán triệt Khổ, Khổ tập,Khổ diệt, và Con đường diệt Khổ (Tứ Diệu Ðế), và chứngđạt "lậu tận minh".

Lậuđã tận diệt, tuệ đã toàn khai, Ngài quán triệt chân lývà giác ngộ, trở thành một vị Chánh Ðẳng Chánh Giác (SammaSambuddha), và được xem như là đã chứng Niết Bàn HữuDư Y (Sa-upadisesa Nibbana Dhatu), nghĩa là trạng thái tâmtrí hoàn toàn giải thoát nhưng thân xác vẫn còn tồn tại.Lúc đó Ngài được 35 tuổi.

Bàigiảng đầu tiên của Ngài là bài kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana),giảng cho năm anh em Kondanna(Kiều Trần Như), đệ tửđầu tiên, tại vườn Lộc Uyển gần thành Benares(BaNa Lại). Ðây là bài giảng tóm tắt tinh hoa của đạo giảithoát, là một Trung Ðạo (Majjhima Patipada)không lệ thuộcvào hai cực đoan của việc nô lệ dục lạc và việc hànhkhổ thân xác, bao gồm bốn sự thật phổ quát (Tứ Diệờế) và con đường diệt khổ gồm tám yếu tố chân chính(Bát Chánh Ðạo).

Từđó, trong suốt 45 năm, Ngài đi truyền giảng con đường giảithoát, thu nhận đệ tử, có người xuất gia theo Ngài và lậpthành Tăng đoàn (Sangha), cũng có người còn tại gia,gọi là các cư sĩ. Vùng truyền giáo của Ngài là vùng ÐôngBắc Ấn Ðộ giáp biên giới xứ Nepal, dọc theo các nhánhthượng nguồn sông Gange (sông Hằng).

Ngàithường được gọi là Ðức Phật Cồ Ðàm (Buddha Gotama).Chữ "Phật" là tiếng gọi tắt của "Phật Ðà", phiên âmtừ chữ Phạn "Buddha"- người bình dân Việt Nam cónơi gọi là ông Bụt - nghĩa là người đã giác ngộ (GiácGiả). Trong các kinh điển ghi lại, Ngài thường tự gọi mìnhlà Tagatatha(Như Lai). Ngoài ra, theo kinh điển, Ðức Phậtcó mười danh hiệu: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự TrượngPhu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Ngàigiảng rất nhiều chủ đề cho nhiều hạng người khác nhau,tùy theo tâm tính, căn cơ, hoàn cảnh của họ, để giúp họthăng tiến trên đường tu tập. Thực tế nhất là 37 phẩmtrợ đạo mà Ngài đã tóm tắt lại trong những ngày cuốicủa cuộc đời tại thế của Ngài: 4 Niệm xứ, 4 pháp Chánhcần, 4 điều Như ý, 5 Căn, 5 Lực, 7 Giác chi, và đạo 8 Chánh.

ÐứcPhật tịch diệt năm 543 trước TL, lúc Ngài 80 tuổi, tạikhu rừng cây Sala, gần thành Kusinara(Câu Thi La).Ðêm đó, sau khi nhập và xuất tám bậc thiền, Ngài nhậpNiết Bàn Vô Dư Y (An-upadisesa Nibbana Dhatu)- hay ÐạiBát Niết Bàn (Maha Parinibbana)- nghĩa là Niết Bàn vớithân xác không còn mầm sống tồn tại trong thế gian. Lúcđó là canh cuối cùng của đêm rằm tháng tư. Lời dạy cuốicùng của Ngài là:

"Nầycác vị Tỳ khưu, nay Ta khuyên bảo chư vị: tất cả các pháphữu vi đều vô thường. Hãy tinh tấn, chớ có phóng dật".
Các bàigiảng của Ngài được trùng tuyên và kết tập lại thànhbộ Kinh Tạng (Sutta Pitaka). Các điều giới luật chocác vị tu sĩ - cùng các câu chuyện có liên quan đến giớiluật đó - được kết tập thành bộ Luật Tạng (VinayaPitaka). Ngoài ra, còn có nhiều bài giảng đặc biệt khácmà về sau nầy được đúc kết lại trong bộ A Tỳ Ðàm (AbhidhammaPitaka, Thắng Pháp Tạng hay Luận Tạng).Ba tạng nầy kếthợp thành bộ Tam Tạng Kinh Ðiển của Phật Giáo ngày nay.
Perth,Tây Úc,
tháng4-1995
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2021(Xem: 3777)
Điều đầu tiên chúng ta nhận thức vật chất, phải thông qua cơ thể của chính mình. Thậm chí có thể nói rằng, con người biết đến sự tồn tại của ý thức, thông qua cảm giác của thân thể. Ảnh hưởng của thân thể lên ý thức là điều hiển nhiên, giống như sự khó chịu và đau đớn do bệnh tật gây ra, khiến chúng ta nhận thức được sự tồn tại khách quan của tứ khổ sinh, lão, bệnh, tử.
18/06/2021(Xem: 9401)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
11/10/2020(Xem: 11639)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
28/08/2020(Xem: 12008)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
28/08/2020(Xem: 9643)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.”
17/04/2020(Xem: 5187)
Cuộc họp ngắn của nhóm chuyên gia y tế vào ngày 27/3/2020, bắt đầu với một chiếc máy ảnh lung linh và thô sơ. Vào ngày 31/3/2020, Tiến sĩ bác sĩ Phật tử James Maskalyk mở đầu bằng một bản tóm tắt nhanh về tình hình hiện tại của Covid-19: đã lây lan ở khắp mọi nơi trên thế giới.
13/04/2020(Xem: 5321)
Quý bạn cảm thấy mình có lo lắng, thậm chí chán nản hay cô đơn trong mối quan hệ của mình phải không? Tất cả chúng ta đều trải qua những thử thách và xung đột trong cuộc hôn nhân của mình lúc này hay lúc khác. Như Giáo sư Tiến sĩ Phật tử John Gottman giải thích, việc liên tục xử lý các vấn đề đang diễn ra có thể dẫn đến “tình trạng bế tắc” (gridlock) không thoải mái và cảm giác rằng quý bạn đang quay cuồng như bánh xe và không tới đâu. Chìa khóa để cởi mở “tình trạng bế tắc” là hiểu hơn về những gì đối tác của quý bạn và cảm nhận – nhưng làm thế nào?
30/07/2019(Xem: 6785)
* “Tuyên ngôn Venise của UNESCO nói: “Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó SỰ GẶP GỠ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu. Sự gặp gỡ chắc chắn xảy ra đó sẽ đem lại cho nhân loại MỘT NỀN VĂN MINH MỚI”. (Báo Giác Ngộ số 15/1991). -- * - “Sự chuyển y (đột chuyển) tâm thức gắn liền với sự chuyển hoá não, tạo ra phẩm chất mới cho nhãn quan tinh thần. Chuyển y xuất sinh đốn ngộ. - Lời giảng nhằm giúp người nghe hiểu về lí đạo lí thiền, lời đó chỉ có “phẩm chất giảng sư” (vì “hiểu về” khác với “thấy biết trực tiếp”). Lời chỉ thẳng nhằm giúp người nghe (đã từng dò tìm tự tâm) tự thấy lại tâm mình (không suy nghĩ, đốn kiến), lời đó mang “phẩm chất thiền sư” đích thực. Ví dụ: “Vô niệm, niệm tức chánh”, đây là lời nói mang “phẩm chất thiền sư” đích thực, giúp người nghe trực ngộ và tự ấn chứng (vì không thể suy nghĩ để hiểu câu nói này)”. (https://quangduc.com/a34369/thien-ngon).
03/06/2019(Xem: 6376)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệ và từ bi mà chúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi. Theo Pema Chodron cho biết Thiền giúp chúng ta tự biết mình: những phần thô và những phần tế của chúng ta, tham, sân, si và trí tuệ. Lý do mà con người làm hại người khác, lý do mà hành tinh này bị ô nhiễm và con người và thú vật không sống khỏe mạnh, là vì hiện nay các cá nhân không biết, không tin hay không yêu thương đủ.
17/12/2018(Xem: 6294)
Một bài nói chuyện của Lama Yeshe tại Bloomington, Indiana, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính. Được ấn tống trong Mandala magazine, tháng 9, năm 2002.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567