Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Trong hai người chứng, hãy lấy người chính yếu.

12/01/201103:48(Xem: 3773)
20. Trong hai người chứng, hãy lấy người chính yếu.

CON ĐƯỜNG CĂN BẢN ĐẾN GIÁC NGỘ
Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của phái Kadam
Nguyên tác: Training the Mind and Cultivating Loving-Kindness by Chošgyam Trungpa
Nhà xuất bản Shambhala, 1993
Việt dịch: Trùng Hưng - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2001
 

ĐIỂM NĂM
SỰ ĐÁNH GIÁ VIỆC TU TÂM

ĐIỂM NĂM VÀ THIỀN ĐỊNH BA LA MẬT

20
Trong hai người chứng, hãy lấy người chính yếu.

Trong mọi hoàn cảnh có hai sự chứng kiến : cái thấy của người khác về bạn và cái thấy của riêng bạn về chính bạn. Trong hai cái đó, chứng nhân chính yếu là cái nội quán của riêng bạn. Bạn không nên chỉ theo ý kiến của người khác về bạn. Sự thực hành của châm ngôn này là luôn luôn chân thật với chính bạn. Thường thường khi bạn làm điều gì, bạn muốn có một loại hồi chuyển về thế giới của bạn. Bạn có những ý kiến riêng về việc bạn làm tốt thế nào và bạn cũng có những ý kiến của người khác bạn đã làm tốt thế nào. Thường thường bạn giữ ý kiến riêng của bạn về chính bạn. Trước tiên bạn có những ý kiến của bạn về một sự việc nào đó và rồi bạn mở rộng chi nhánh ra và hỏi ai khác : “Điều đó tốt chứ ? Bạn nghĩ thế nào về chuyện tôi làm ?” Đó là một trong những câu hỏi truyền thống xảy ra trong những gặp gỡ giữa thầy và trò.

Trong nhiều trường hợp, người ta rất có ấn tượng vì bạn bởi vì bạn trông có vẻ sung sức và nhiều vui vẻ và bạn có vẻ biết rõ cái bạn đang làm. Một số lời khen ngợi. Ngược lại, một số chỉ trích đến với bạn từ những người khác, họ không biết đầy đủ và rõ ràng điều đang thực sự xảy ra bên trong bạn. Châm ngôn này nói rằng, trong hai người chứng hãy lấy người chứng chính yếu làm cái thực sự, đích thực. Người chứng chính thức ấy chính là bạn vậy.

Bạn là người độc nhất biết rõ chính bạn. Bạn là người độc nhất đã ở cùng với bạn từ khi bạn sanh ra. Và ngay trước đó, bạn đã mang theo mớ hành lý khổng lồ nghiệp quả của riêng bạn theo mình. Bạn quyết định chui vào tử cung người này hay người khác ; bạn đã tái sanh trong bụng của ai đó và bạn đi ra khỏi đó và bạn vẫn mang theo hành lý của bạn cùng với mình. Bạn cảm nghiệm đau khổ và sung sướng của riêng bạn và mọi sự. Bạn là người duy nhất kinh nghiệm tuổi thơ của bạn, khổ và sướng của nó ; bạn đã trải qua tuổi thiếu niên, khổ và sướng của nó ; bạn là người trải nghiệm tuổi trưởng thành của bạn ; khổ và sướng của nó. Bạn đang bắt đầu trải nghiệm những năm trung niên, khổ và sướng của nó ; và cuối cùng, bạn sẽ kinh nghiệm sự già nua và cái chết, khổ và sướng của nó. Bạn không bao giờ lìa khỏi chính bạn dù một giây phút. Bạn tự biết mình rất rõ. Bởi thế, bạn là quan tòa tốt nhất của chính bạn. Bạn biết bạn hư hỏng, hoang đàng thế nào, bạn biết bạn cố gắng nhạy bén như thế nào và bạn biết bạn đôi khi cố gắng lén lút như thế nào.

Thường thường chủ từ “tôi” đi với một động từ. “Tôi có nên làm điều này chăng ? Tôi có làm điều gì sai trái chăng ? Nếu tôi có làm, cũng chẳng có ai biết.” Chỉ có chúng ta biết. Chúng ta có thể làm điều đó và chúng ta có thể trốn thoát nó. Có nhiều trò gian manh hay dự định “bạn” và “chính bạn” luôn luôn làm chung, hy vọng rằng không có ai khám phá ra. Nếu bạn phải để toàn bộ sự việc phơi bày ra, sẽ rất là bối rối khó chịu. Bạn sẽ thấy quá xa lạ. Ngược lại, dĩ nhiên cũng có khả năng khác. Bạn có thể cố gắng thành ra rất tốt đến độ một số người có ấn tượng về bạn và về bao nhiêu nỗ lực bạn đã đặt vào chính mình. Bạn có thể làm một người đàn ông tốt hay một người đàn bà tốt. Nhưng nếu bạn phải giải thích hết ra, không ai thực sự tin bạn đang cố gắng trở thành tốt như thế nào. Người ta nghĩ đó chỉ là chuyện chơi.

Chỉ có bạn thực sự hiểu được chính bạn. Bạn biết từng khoảnh khắc. Bạn biết cách nào bạn làm mọi việc : cách bạn đánh răng, cách bạn chải tóc, cách bạn tắm, cách bạn mặc áo quần, cách bạn nói chuyện với người khác, cách bạn ăn, thậm chí khi bạn không đói lắm. Trong mọi việc ấy, “tôi” và “động từ” vẫn còn tiến hành một cuộc nói chuyện về mọi thứ khác. Thế nên có một số điều không nói ra xảy ra trong bạn luôn luôn. Bởi thế, người chứng kiến chính yếu, hay quan tòa chính yếu, là chính bạn. Sự phán xét bạn đang tiến bộ như thế nào trong thực hành lojong của bạn là của chính bạn.

Bạn biết rõ nhất về chính bạn, thế nên bạn phải làm việc với chính mình một cách thường trực. Điều này đặt nền trên sự tin vào trí thông minh của bạn hơn là tin vào chính bạn, nó có thể rất chấp ngã. Tin vào trí thông minh của bạn bằng cách biết bạn là ai và bạn làm gì. Bạn biết chính mình rất rõ, thế nên mọi thủ đoạn lừa gạt có thể được cắt đứt. Nếu có ai chúc mừng hay khen ngợi bạn, họ có thể không biết toàn bộ đời sống của bạn. Thế nên bạn cần trở lại với sự phán xét riêng của bạn, với cảm thức riêng của bạn về những diễn đạt của bạn và những trò lừa gạt bạn làm đối với những người khác và với chính mình. Đó không phải là quy ngã, đó là cảm hứng về cái ngã từ quan điểm vô ngã. Bạn chỉ chứng kiến bạn là cái gì. Bạn chỉ đơn giản làm người chứng và đánh giá phẩm chất, hơn là lẩn quẩn với nó theo cách thức của Freud hay Jung.


 


 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 9652)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 7868)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 9624)
Tại các quốc gia Âu Mỹ, pháp thiền trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy thường được hiểu như là pháp thiền minh sát, cho đến nổi có nhiều người thực hành trong truyền thống này xem mình như là các thiền giả minh sát. Tuy nhiên, các bản kinh Pali -- tài liệu cổ xưa ghi lại các bài giảng của Đức Phật, không xem thiền minh sát như là một hệ thống tu thiền độc lập nhưng là một thành tố của một cặp kỷ năng hành thiền gọi là Samatha và Vipassanà, An Chỉ và Minh Quán -- hay Chỉ và Quán.
10/04/2013(Xem: 7089)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
09/04/2013(Xem: 13677)
Người Tây Phương đã có những công trình nghiên cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả người Anh, người Đức, tiêu biển nhất là những hội viên của Pali Text Society và Royal Asiatic Academy đã để lại những dịch phẩm, tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới. Một số cá nhân đi xa hơn trở thành những tu sĩ Tây phương tại các quốc gia Phật giáo. Họ tìm thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi sống giữa những người Phật tử Á Đông.
09/04/2013(Xem: 5378)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
04/04/2013(Xem: 6658)
"Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền.
02/04/2013(Xem: 2355)
Tất cả những ai đến thực tập Thiền Minh Sát Tuệ [hay Thiền Minh Sát] đều mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai chưa khai triển Trí Tuệ đều mong phát sanh Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai đã có vài Tuệ giác đều mong phát triển thêm Trí Tuệ thật nhanh. Mọi người mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh.
21/03/2013(Xem: 14277)
NIẾT BÀN, phỏng dịch theo nguyên bản mang tựa đề: “NIRVANA IN A NUTSHELL” của SCOTT SHAW, do Barnes & Noble ấn hành năm 2003. Tác giả Scott Shaw là một nhà văn điêu luyện, một nhà giáo, một nhà võ và đồng thời là một Phật tử thuận thành.
28/12/2012(Xem: 14166)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567