Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chú thích

08/01/201103:08(Xem: 3621)
Chú thích

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo
Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston
none
none

Chú thích
1. Zab chos zhi khro dgongs pa rang grol gyi rdzogs rim bar do drug gi khrid yig, một gter ma của Đức Padmasambhava được Karma Lingpa phát hiện (Kar ma gling pa). Quyển 3 của sự xuất bản vòng Kar gling zhi khro từ thư viện của Dudjom Rinpoche (I – Tib – 1440, 75-903780). Một bản dịch khác của phần đầu tiên về tiêu đề Sự Hiện Lên Tự Nhiên Của Hiền Minh Và Phẫn Nộ Từ Sự Nhận Biết Giác Ngộ. Trong lần phiên dịch thứ hai này, thuật ngữ zhi khro ám chỉ sadhana, dgongs pa đến nhận biết giác ngộ của tác giả và rang drol đến sự xuất hiện tự phát của bản văn từ nhận biết giác ngộ đó.
2. Về cuộc đời và việc làm của Đức Padmasambhava, hãy xem Đức Liên Hoa Sanh: Tiểu sử cuộc đời Đức Padmasambhava của Yeshe Tsogyal, Erik Pema Kunsang phiên dịch (Boston: Shambhala, 1993).
3. Với nhiều thông tin hơn về truyền thống kho tàng chôn dấu và phát hiện, hãy xem quyển Các Giáo Lý Chôn Dấu Của Tây Tạng: Một Giải Thích Về Truyền Thống Terma Của Phái Nyingma Của Phật Giáo, Tulku Thondup (Boston: Nhà Xuất bản Trí tuệ, 1997).
4. Bar do thos sgrol, hay nguyên nghĩa là Giải Thoát Qua Việc Nghe Trong Trạng Thái Trung Gian. Tác phẩm quan trọng này đã được dịch nhiều lần, gần đây nhất là của Robert A.F. Thurman, Tử Thư Tây Tạng, (New York: Bantam Books, 1994).
5. Khi thuật ngữ Tây Tạng bardo (nghĩa đen, “khoảng giữa”) đặc biệt ám chỉ đến giai đoạn sau khi chết và trước lúc tái sanh, người ta có thể dịch một cách thông dụng là “trạng thái trung gian”. Nhưng trong bối cảnh của sáu bardo, bao gồm tất cả samsara và nirvana, thuật ngữ “trạng thái trung gian” việc dịch cho chữ bardo không còn có ý nghĩa. Trong bối cảnh này, ý nghĩa của thuật ngữ bardo là chỉ mọi giai đoạn của lúc sống, thiền định, giấc mộng v.v... không ngoại lệ đều là sự chuyển tiếp. Mọi giai đoạn của cuộc sống và cái chết đều xảy ra giữa các trạng thái này. Tất cả chúng đều trong tiến trình. Để phản ánh khía cạnh này của thuật ngữ, tiến trình chuyển tiếp trong bối cảnh này đã được dịch là bardo.
6. Bar do’I nyams khrid dgongs pa rang grol gyi sngon ‘gro rang rgyud ‘dul byed lhan thabs.
7. gSang sngags rdo rje theg pa’i chos spyod thun bzhi’i rnal ‘byor sems nyid rang grol.
8. Zab chos zhi khro dgongs pa rang grol las bar do’i smon lam gsum.
9. Bar do’i smon lam thob tshad rang grol.
10. Bar do ‘phra sgrol gyi smon lam.
11. Bar do ‘jigs skyob pa’i smon lam.
12. Sangs rgyas và byang chub sems dpa’ la ra mda’ sbran pa’i smon lam.
13. Zab chos zhi khro dgongs pa rang grol gyhi gsol ‘debs sku gsum klong yangs rang grol.
14. sKu gsum bla ma’i rnal ‘byor gyi gsol ‘debs sku gsum klong yangs rang grol.
15. Tám mối quan tâm thế gian là tham luyến có được vật chất, khoái lạc tạm thời, được tán dương, và nổi tiếng; và ghét bị mất mát vật chất, khó chịu tạm thời, bị lăng mạ và mang tiếng xấu.
16. Mặc dù ba hiện thân Phật được nhắc đến ở trên, đều không có mâu thuẫn vì Nirmanakaya và Sambhogakaya chỉ là hai phân chia phụ của Rupakaya; Dharmakaya tương tự trong cả hai sắp xếp phân loại.
17. Tham luyến, sân hận, ảo tưởng, ghen tị, và kiêu mạn.
18. Sự thiền định về cuộc sống làm người có nhàn rỗi và thuận lợi là quý, về vô thường và cái chết, về đau khổ của chu trình sinh tử và về bản chất của hành động với hậu quả đúng quy cách của nó.
19. Chữ kiên trì trong Anh ngữ là tương đối yếu. Ở Tây Tạng, thuật ngữ ám chỉ sự hoan hỷ trong Giáo Pháp và đạo đức. Cũng thường được dịch là nồng nhiệt hay nhiệt thành kiên trì, nhưng nó thực sự là hoan hỷ và nhiệt thành cho thực hành Giáo Pháp.
20. “Dòng dõi tốt” ám chỉ có tiềm năng to lớn và cơ hội để thực hành Giáo Pháp.
21. Đó là sáu trạng thái của vòng sinh tử.
22. Tri kiến bản thể học bao gồm việc biết mọi sự như “chúng thực sự là” (ji ltar) và tri kiến hiện tượng học bao gồm việc biết sự vật “nhiều như nó là” (ji snyed).
23. “Đấng Chiến Thắng” (Phạn jina, Tạng rgyal ba) là một tên gọi của Đức Phật biểu thị Đức Phật hoàn toàn chiến thắng các trạng thái tâm thức tiêu cực bao gồm vô minh.
24. Tam giới là dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
25. Thuật ngữ tiếng Phạn sugata là một chữ khác cho một vị Phật toàn giác.
26. Thuật ngữ tiếng Phạn arya (Tạng, ‘phags pa) ám chỉ các hành giả đã giác ngộ phi thiền định về chân lý tối thượng.
27. Theo Bod rgya tshig mdzod chen mo (Tse tan zhab drung. Dung kar blo bzang phrin las, và Dmu dge bsam gtan. Mi rigs dpe skrun khang, 1984, Quyển III, trang 2783, thuật ngữ Tây Tạng lu gu rgyud nghĩa đen có nghĩa sợi dây cột các con cừu cùng trong một hàng. Dường như được sử dụng ở đây như một ẩn dụ cho một bộ phận hay các chuỗi hợp thành nối kết với nhau. Ý nghĩa này phản ánh từ nguyên học của thuật ngữ, vì lu gu là phát âm khác của lug gu, có nghĩa “con cừu” [Ibid., trang 2781&2782]; và rgyud có nghĩa tiếp tục. Để đơn giản, tôi dịch lu gu ở đây như bộ phận.
28. Các vị bảo tồn-samaya là một bộ bảo vệ hay bảo hộ giúp duy trì samaya.
29. Một nguồn mà người đọc quan tâm ở đây có thể bắt đầu là quyển Học Phái Nyingma Của Phật Giáo Tây Tạng: Nền Tảng Và Lịch Sử (Boston: Nhà Xuất bản Trí tuệ, 1991) của Ngài Dudjom Rinpoche.
30. Bốn liên tục ở đây là bốn dòng tâm thức phiền não được tịnh hóa bằng phương tiện của bốn quán đảnh.
31. Thực hành nền tảng bao gồm việc lắng nghe, suy nghĩ và thiền định về Giáo Pháp.
32. Một tư thế đặc biệt của thân hay luyện tập được biết ở Tây Tạng như trul khor (‘phrul ‘khor).
33. Theo nghĩa đen là nhau bơm phồng.
34. Khi quán tưởng chữ trong tiếng Phạn hay Tây Tạng, visarga được quán tưởng là hai chấm (:) bên phải của chữ. Khi quán tưởng chữ trong tiếng Anh, visarga tiêu biểu cho chữ h với dấu chấm ở dưới.
35. Đây là một đồng nghĩa với Phật tánh và tathagatagarbha.
36. “Con mắt duy nhất, không gợn nhơ của trí tuệ bổn nguyên” là một nhóm chữ rút từ bản văn, bày tỏ danh hiệu của Đức Manjusri.
37. “Hoàn toàn trống rỗng” là trống rỗng của đoạn kiến, hoàn toàn không có gì.
38. Chữ “dấu hiệu” ám chỉ điều gì đó gần gũi vơi quan niệm phương Tây của chúng ta về việc xây dựng dựa trên khái niệm. Dharmakaya không đặt nền tảng trên bất cứ khuôn mẫu khái niệm nào hoặc xây dựng dựa trên khái niệm.
39. Trình bày này ngụ ý trí tuệ bổn nguyên của hành giả nhận thức mọi khía cạnh của thực tại một cách bình đẳng.
40. Năm dấu hiệu của thân là năm nguyên tố đất, nước, v.v...
41. “Sự thêm vào” là sự quy vào thực tại về điều gì đó không có ở đó, trong lúc chối bỏ sự phản bác của hiện hữu về điều gì đó có ở đó.
42. Khẳng định này không được nhầm lẫn với khái niệm hữu thần của một đấng sáng tạo bên ngoài, hoặc chúa tể của vũ trụ, vì nhận biết này là bản tánh của toàn bộ samsara và nirvana.
43. Đây là một vấn đề của sự cố gắng quá sức, thực hành thật mãnh liệt khiến chính nhận thức của trạng thái mộng xảy ra khỏi giấc ngủ.
44. Điều này ám chỉ cả hai huyễn thân thanh tịnh và bất tịnh.
45. Đó là, sự tính toán của chiêm tinh học không thích hợp với thực hành này; nó được theo sau vào mọi lúc.
46. Bản tánh tưởng tượng được phóng chiếu, nhưng bản tánh chính nó là sự nguyên thủy.
47. Lỗ mở của sự trở thành là lỗ mở cho chất dịch tái sanh của nam và nữ.
48. Trong thực hành như đã dạy ở đây, bạn nói “HIG-KA” cho toàn bộ tiến trình kéo bindu lên trên và đưa nó xuống dưới. Nhưng theo một số truyền thống khác, bạn nói “HIG-HIG-HIG-HIG” khi kéo bindu lên và sau đó nói “KA” khi để nó đi xuống.
49. “Tụ hội trong cuộc sống” ngụ ý đem cuộc sống bạn đến kết thúc một khi dấu hiệu hiển nhiên của cái chết đến gần và bạn đã xác định rằng không thể ngăn được cái chết.
50. “Các đối tượng đặc biệt cho việc tích lũy công đức,” là lãnh vực công đức như việc chọn bổn tôn, tất cả đối tượng quy y và sùng kính.
51. Thuật ngữ yaksa bao gồm nhiều loại chúng sanh khác nhau, nhưng ở đây có thể ám chỉ asura hay người khổng lồ có thể giúp đỡ hay ngăn cản những chúng sanh khác. Yaksa cũng là tên của một loại chúng sanh có tài sản, và thuật ngữ Tây Tạng tương đương cũng ám chỉ một loại súc vật đặc biệt.
52. Điều này nhắc đến Đức Avalokiteshvara hoặc bất cứ đối tượng niềm tin nào của người sắp chết.
53. “Các lỗ mở” ám chỉ hai mắt.
54. Citta ở đây có nghĩa trái tim.
55. Nói chung, đó là nếu bạn đạt đến giai đoạn này của thực hành, bạn sẽ không phải kinh nghiệm tiến trình chuyển tiếp sau khi chết. Hoặc thậm chí nếu bạn thực sự kinh nghiệm tiến trình chuyển tiếp này, bạn sẽ nhận ra bản tánh của nó và đạt được tỉnh giác lập tức.
56. Điều này ám chỉ người đã rèn luyện thành thạo trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện.
57. Chúng sanh có thể so sánh là người có điều gì đó chung với chính mình trong tiến trình chuyển tiếp.
58. Đó là ba mươi hai dấu hiệu và tám mươi biểu tượng đôi khi được gọi là các dấu ấn chính và phụ của một vị Phật.
59. Điều này ám chỉ khả năng nhận ra giáo lý Hinayana, Mahayana và Vajrayana.
60. Trong bối cảnh này, nơi hoang dã là nơi bạn hoàn toàn đơn độc, không bạn bè, người đồng hành, hoặc sự hỗ trợ.
61. Lãnh vực của sự rộng mở bao la phi tạo tác ám chỉ tính phi hiện hữu về đối tượng của bài nguyện này, của tác nhân bài nguyện và hành động cầu nguyện. Nó không phải hoàn toàn không hiện hữu; đúng hơn tất cả chúng đều là bản tánh của sự nhận biết.
62. Chủ nhân của ba gia đình là Vajrapani, Avalokiteshvara và Manjusri.
63. Sáu vị Đại Uyên Bác là sáu bậc giác ngộ, mỗi vị xuất hiện trong một của sáu trạng thái luân hồi sinh tử. Ví dụ, Đức Phật Sakyamuni là bậc Đại Uyên Bác của cõi người, và có những vị khác cho asura, deva, v.v...
64. Thuật ngữ này có nghĩa không thể tiên đoán, nói khác đi, nó không theo một số khuôn mẫu hay trật tự được xác định trước.
65. Nơi này được định vị trong cõi tịnh độ Sukhavati của Phật Amitabha.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 9604)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 7815)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 9561)
Tại các quốc gia Âu Mỹ, pháp thiền trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy thường được hiểu như là pháp thiền minh sát, cho đến nổi có nhiều người thực hành trong truyền thống này xem mình như là các thiền giả minh sát. Tuy nhiên, các bản kinh Pali -- tài liệu cổ xưa ghi lại các bài giảng của Đức Phật, không xem thiền minh sát như là một hệ thống tu thiền độc lập nhưng là một thành tố của một cặp kỷ năng hành thiền gọi là Samatha và Vipassanà, An Chỉ và Minh Quán -- hay Chỉ và Quán.
10/04/2013(Xem: 7030)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
09/04/2013(Xem: 13577)
Người Tây Phương đã có những công trình nghiên cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả người Anh, người Đức, tiêu biển nhất là những hội viên của Pali Text Society và Royal Asiatic Academy đã để lại những dịch phẩm, tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới. Một số cá nhân đi xa hơn trở thành những tu sĩ Tây phương tại các quốc gia Phật giáo. Họ tìm thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi sống giữa những người Phật tử Á Đông.
09/04/2013(Xem: 5310)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
04/04/2013(Xem: 6623)
"Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền.
02/04/2013(Xem: 2304)
Tất cả những ai đến thực tập Thiền Minh Sát Tuệ [hay Thiền Minh Sát] đều mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai chưa khai triển Trí Tuệ đều mong phát sanh Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai đã có vài Tuệ giác đều mong phát triển thêm Trí Tuệ thật nhanh. Mọi người mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh.
21/03/2013(Xem: 14190)
NIẾT BÀN, phỏng dịch theo nguyên bản mang tựa đề: “NIRVANA IN A NUTSHELL” của SCOTT SHAW, do Barnes & Noble ấn hành năm 2003. Tác giả Scott Shaw là một nhà văn điêu luyện, một nhà giáo, một nhà võ và đồng thời là một Phật tử thuận thành.
28/12/2012(Xem: 14079)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567