Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tham thiền: Giúp Cho Tâm Tích Cực

02/10/201104:19(Xem: 6206)
Tham thiền: Giúp Cho Tâm Tích Cực


ngoi thien

Tham thiền: Giúp Cho Tâm Tích Cực

Lozang Ngodrub dịch

Tham thiền nghĩa là trở nên quen thuộc với những tư tưởng và tâm thức tích cực của mình [danh từ Tạng ngữ của thiền, gom, nghĩa là “làm cho quen thuộc”]. Bạn cố tăng trưởng những tiềm năng tích cực và giảm thiểu những dấu ấn tiêu cực trong tâm bạn. Nếu bạn không thể làm được điều này mà chỉ tập trung tâm ý vào hơi thở thôi thì đây là một điều vô ích. Nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Điều chính yếu là làm tăng trưởng những tiềm năng tích cực trong giòng tâm thức của bạn. Đó gọi là thiền.

Đầu tiên, bạn suy ngẫm về các tư tưởng tích cực nhiều lần để tâm bạn quen dần với chúng và trở nên đồng hóa với bản chất tích cực này; thế rồi bạn sẽ không cần suy nghĩ hay viện một lý do gì mà ý tưởng tích cực vẫn phát khởi một cách tự nhiên trong tâm bạn.

Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.

Ta không thể nào đạt được các thực chứng một cách nhanh chóng! Chúng ta đã quá quen thuộc với những tư tưởng tiêu cực trong nhiều a tăng kỳ kiếp, nên trước tiên, ta phải tịnh hóa chúng. Nếu bạn có thể tịnh hóa tất cả các tư tưởng tiêu cực thì bạn sẽ có những chứng ngộ xác thật.

Rất nhiều vị lama trong quá khứ đã nhập thất bốn mươi năm, hai mươi năm, có vị nhập thất mười hai năm, nhưng họ chẳng có dấu hiệu gì của sự chứng ngộ cả. Điều này có thể xảy ra. Đó là vì chướng ngại của những nghiệp tiêu cực mà họ đã tích tập qua nhiều a tăng kỳ kiếp.

Khi đức Phật hạ sanh trên trái đất này, các đệ tử của Ngài có ít vô minh và tư tưởng tiêu cực hơn chúng sanh trong thời hiện tại, vì thế các vị này đã đạt được chứng ngộ trong một thời gian rất ngắn – chỉ trong vòng một hay hai ngày thôi. Chỉ cần thọ nhận giáo huấn của đức Phật là họ đã chứng ngộ rồi.

Ngài Vô Trước (Asanga), học giả vĩ đại người Ấn Độ, là một ví dụ hay. Ngài đã nhập thất mười hai năm và chẳng hề có được dấu hiệu chứng ngộ nào cả. Cuối cùng, Ngài rời bỏ hang động của mình. Khi đi ra ngoài, Ngài thấy một con chó bị thương ở bụng. Vết thương bị giòi ăn lở lói và con chó sủa một cách đau đớn. Ngài Vô Trước phát tâm từ bi vô lượng đối với con chó. Ngài nghĩ nếu Ngài bỏ đi thì con chó có thể chết, nhưng nếu Ngài bắt giòi ra thì chúng cũng sẽ chết. Thế nên Ngài đã xẻo thịt của chính mình để nuôi những con giòi. Ngài cũng biết rằng nếu Ngài dùng ngón tay để nhặt giòi ra khỏi vết thương thì chúng sẽ chết, vì thế, với lòng bi mẫn cao cả, Ngài quyết định dùng lưỡi để nhặt chúng ra khỏi vết thương. Ngài nhắm mắt lại và le lưỡi về phía con chó, nhưng Ngài không thể chạm vào nó được.

Khi Ngài mở mắt ra, Ngài nhìn thấy đức Phật Di Lặc trước mặt mình, người đã hóa thân trong hình tướng một con chó trước đó. Ngài Vô Trước nói rằng, “Con đã tham thiền về Ngài suốt mười hai năm, nhưng chẳng thấy được Ngài. Tại sao Ngài không hề ban cho con một chỉ dấu nào trong mười hai năm, thưa Ngài?” Đức Di Lặc trả lời, “Ta luôn ở bên con trong suốt mười hai năm, nhưng con chẳng thể thấy ta vì những nghiệp chướng của con. Tuy nhiên, giờ đây con đã phát tâm từ bi cao cả, nên con đã loại trừ mọi nghiệp chướng và đã nhìn thấy được ta.”

Thế nên chính những nghiệp tiêu cực của chúng ta ngăn trở khả năng ta đạt được chứng ngộ. Đây là lý do vì sao ta cần tịnh hóa nghiệp chướng để có được thực chứng.

Thế thì làm việc cho các vị lama và trung tâm Phật giáo có tịnh hóa nghiệp tiêu cực hay không? Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào tác ý của bạn. Nếu bạn làm việc này để phụng sự Đạo Sư của mình và quảng bá Phật pháp, nghĩ rằng Pháp bảo sẽ giúp ích cho nhiều chúng sanh hơn và mang lại hạnh phúc cho họ. Nếu bạn nghĩ như thế này thì việc làm của bạn chắc chắn sẽ tịnh hóa các nghiệp tiêu cực của mình.

Nếu bạn chỉ nghĩ về đời này và cho rằng bạn đang làm việc để nhận lương bổng hay vì bạn có được một căn nhà đẹp và các thức ăn ngon, thì nghiệp tiêu cực của bạn sẽ chẳng được tịnh hóa. Bạn phải phát tâm làm việc vì chúng sanh.

Khi vừa thức dậy, bạn nên nghĩ rằng, “Tôi đang làm việc để phụng sự Đạo Sư, để duy trì và quảng bá Pháp, giúp ích cho chúng sanh. Điều này sẽ mang lại hạnh phúc cho chúng sanh.” Nếu bạn nghĩ như thế thì cả một ngày của bạn sẽ là ngày tích cực. Nếu bạn chỉ nghĩ về những gì thuộc về đời này mà không nghĩ đến điều gì khác nữa, thì khía cạnh tích cực của bạn sẽ không tăng trưởng.

Bài báo này xuất hiện lần đầu tiên trong Tạp Chí Mandala, tháng Bảy/Tám, 2000.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 9452)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 7720)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 9454)
Tại các quốc gia Âu Mỹ, pháp thiền trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy thường được hiểu như là pháp thiền minh sát, cho đến nổi có nhiều người thực hành trong truyền thống này xem mình như là các thiền giả minh sát. Tuy nhiên, các bản kinh Pali -- tài liệu cổ xưa ghi lại các bài giảng của Đức Phật, không xem thiền minh sát như là một hệ thống tu thiền độc lập nhưng là một thành tố của một cặp kỷ năng hành thiền gọi là Samatha và Vipassanà, An Chỉ và Minh Quán -- hay Chỉ và Quán.
10/04/2013(Xem: 6946)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
09/04/2013(Xem: 13372)
Người Tây Phương đã có những công trình nghiên cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả người Anh, người Đức, tiêu biển nhất là những hội viên của Pali Text Society và Royal Asiatic Academy đã để lại những dịch phẩm, tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới. Một số cá nhân đi xa hơn trở thành những tu sĩ Tây phương tại các quốc gia Phật giáo. Họ tìm thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi sống giữa những người Phật tử Á Đông.
09/04/2013(Xem: 5173)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
04/04/2013(Xem: 6537)
"Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền.
02/04/2013(Xem: 2240)
Tất cả những ai đến thực tập Thiền Minh Sát Tuệ [hay Thiền Minh Sát] đều mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai chưa khai triển Trí Tuệ đều mong phát sanh Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai đã có vài Tuệ giác đều mong phát triển thêm Trí Tuệ thật nhanh. Mọi người mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh.
21/03/2013(Xem: 14026)
NIẾT BÀN, phỏng dịch theo nguyên bản mang tựa đề: “NIRVANA IN A NUTSHELL” của SCOTT SHAW, do Barnes & Noble ấn hành năm 2003. Tác giả Scott Shaw là một nhà văn điêu luyện, một nhà giáo, một nhà võ và đồng thời là một Phật tử thuận thành.
28/12/2012(Xem: 13921)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567