Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thành Đạo Theo Tinh Thần Thiền Tông

05/01/201118:14(Xem: 2956)
Thành Đạo Theo Tinh Thần Thiền Tông


THÀNH ĐẠO theo tinh thần THIỀN TÔNG

Thích Thông Huệ

Sau khi vượt thành xuất gia, Sa môn Cù Đàm trải qua 5 năm lặn lội học đạo và 6 năm khổ hạnh nơi rừng già, mục đích tìm ra con đường thoát ly sinh tử. Ngài đã thọ giáo nơi các Tiên nhân nổi tiếng như Kalama, Ramaputta, đã đạt đến trình độ tâm linh như các vị ấy. Tuy nhiên, Ngài biết rằng ngay ở cõi Trời cao nhất là Phi tưởng Phi phi tưởng, cũng chưa phải là cứu cánh giải thoát vì còn trong Tam giới.. Cuối cùng Ngài nhận ra rằng, chỉ nên tìm học ở ngay chính mình chứ không tìm cầu bên ngoài mà được. Miệt mài thiền định dưới cội Tất bát la, Ngài chứng quả vị tối thượng vào đêm thứ 49, khi sao Mai vừa mọc. Từ đó, Sa môn Cù Đàm trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và đêm lịch sử ấy được gọi là Đêm Thành Đạo.

Vậy thế nào là “Thành Đạo”?

Theo nghĩa thông thường, đạo là con đường, như “độc đạo” là con đường duy nhất. Đạo cũng có nghĩa là “đường lối, nguyên tắc mà con người có bổn phận giữ gìn và tuân theo trong cuộc sống xã hội”(*). Trong tôn giáo, Đạo vừa là một tổ chức quản lý, vừa là nội dung học thuyết của tôn giáo ấy, như Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa, Đạo Hồi... có tổ chức Giáo Hội và hệ thống giáo lý hướng dẫn môn đồ tu hành. Bài pháp đầu tiên Đức Phật dạy cho năm anh em Kiều Trần Như là Tứ Diệu Đế, trong đó chi phần sau cùng là Đạo đế. Đó là phương pháp chân chính, có hiệu quả chắc chắn đưa hành giả đến cảnh giới an lạc, giải thoát sinh tử.

Với những ý nghĩa trên, đạo bị lệ thuộc bởi ý thức nên vẫn còn trong vòng đối đãi: Ví dụ Đạo làm người thay đổi theo tập quán của từng vùng miền, theo từng thời kỳ, từng xu hướng xã hội. Ở các nước phương Tây, con đến tuổi thành niên thường ra ngoài sống tự lập, cha mẹ già bị đưa vào Viện Dưỡng Lão; nhưng người Đông phương thì quan niệm “Tam tứ đại đồng đường” (Ba bốn đời ở chung một nhà) là phước đức của gia đình. Ngày xưa, phụ nữ theo lễ giáo tam tùng tứ đức, chỉ biết việc nội trợ hầu hạ chồng con; nhưng ngày nay, phụ nữ tham gia việc chính trị, kinh tế, khoa học cũng thành công không kém nam giới. Trong giai đoạn đầu hoằng pháp, Đức Phật dạy về Ngũ thừa(**), tựu trung là tránh ác làm thiện, bỏ phiền não cầu an lạc, giải thoát sinh tử tu chứng Niết bàn. Như thế, còn phân biệt việc xấu dỡ phải tránh, điều thiện lành phải làm, sinh tử là điều đáng chán và Niết bàn là cảnh giới thanh tịnh đáng hướng về.

Riêng đối với nhà Thiền, Đạo có thêm một ý nghĩa khác, một chân trời khác. Trong hội Linh Sơn, khi Đức Phật cầm cành sen xanh giơ lên, dùng đôi mắt màu sen xanh nhìn quanh đại chúng, tất cả đều ngơ ngác, chỉ riêng Tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật ấn chứng cho Tôn giả trở thành Sơ Tổ Thiền tông từ lúc ấy. Thiền sinh Nghĩa Huyền trong pháp hội Tổ Hoàng Bá, một hôm hỏi Tổ “Thế nào là đại ý Phật pháp?”. Tổ không trả lời mà đập cho một gậy. Ba lần thưa hỏi, ba lần đều bị đánh. Đến khi ngộ đạo qua Hòa thượng Đại Ngu, Ngài Nghĩa Huyền trình kiến giải bằng.... một cái thoi vào hông người khai thị! Và tông Lâm Tế do Ngài khai sáng truyền mãi không dứt cho đến ngày nay. Có phải chăng, Đạo trong nhà Thiền biểu hiện bằng một cành hoa, bằng những cái đánh, bằng lời nói thoạt nghe không có nghĩa lý gì? Và có phải chăng, “Thành đạo” là có một cái Đạo để thành tựu; trước khi tu ta không có, khi tu đến mực độ chín muồi thì Đạo sẽ hiện ra? Lúc chưa thành đạo, ta là kẻ phàm phu; khi thành đạo rồi, ta biến thành con người khác hẳn với hình tướng thoát tục, hào quang sáng ngời? Hẳn nhiên, không thể hiểu theo sự tưởng tượng bay bổng như thế.

Phật dạy, tất cả chúng sanh đều có tánh giác, tức bản tâm chân thật vượt mọi đối đãi. Tánh giác bình đẳng ở muôn loài, hiển lộ qua sáu căn. Khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng... mà không khởi niệm phân biệt đẹp xấu hay dỡ, thì tánh giác hiện tiền, không phải tìm cầu đâu xa. Chạm mắt tức Bồ đề là như thế. Phàm phu chúng ta luôn chạy theo ngoại trần, tạo nghiệp thiện ác rồi quanh quẩn trong sáu đường sinh tử, nhà Phật gọi là phan duyên. Ngược lại, Nhị thừa sợ ngoại trần lôi kéo nên tìm mọi cách tránh duyên, đè nén vọng tưởng. Bồ tát không sa vào hai cực đoan ấy. Các Ngài biết rõ các duyên không thật có, nên vì chúng sanh mà thị hiện vào các cõi, trục loại tùy hình, tùy duyên hóa độ. Các Ngài không phan duyên, không tránh duyên mà liễu tri các duyên, đồng thời nhận ra cái chân thật hằng hữu, bình đẳng tuyệt đối, nơi Thánh không thêm nơi phàm chẳng bớt. Cái chân thật ấy không có hình tướng nên không thể nắm bắt, không phải sản phẩm của ý thức nên không thể tưởng tượng hay diễn tả, không thể tìm trong sách vở Kinh lục hay giải quyết bằng cách tranh biện luận đàm. Nó chính là mình nên không tìm thấy bên ngoài mà chỉ nhận ra bằng trực giác, khi tâm thanh tịnh mà hằng tri. Tùy theo tính chất, diệu dụng và cảm nhận của người thực chứng mà gán cho một tên gọi (Phật tánh, Chân tâm, Ông chủ, Bản lai diện mục...), thật sự nó không có tên. Và ở đây, chúng ta gọi đó là ĐẠO.

Ngày xưa, Thiền sư Văn Hỷ tìm Bồ tát Văn Thù trên Ngũ Đài Sơn, nhưng gặp mặt Bồ tát mà không biết. Đến khi ngộ đạo, thấy Bồ tát hiện ra trên nồi cháo đang sôi, Ngài lấy dầm đập chứ không đảnh lễ. Bởi vì, khi đã thấy Phật tâm của chính mình thì không cầu Phật bên ngoài nữa. Người tu chúng ta cũng thế, lúc đầu phải sửa chữa tâm mình từ hư dở trở thành hiền thiện, nhưng mục đích cuối cùng là nhận được Phật tâm hằng hữu ấy. Đạo của nhà Thiền chỉ có ở trong tâm, nhận ra và sống trọn vẹn với bản tâm là Thành Đạo. Cho nên, tu đạo là tu tâm, ngộ đạo là ngộ tâm, chứng đạo là chứng tâm, và thành đạo cũng là thành tại tâm chứ không đâu khác. Từ trước đến sau cũng chỉ một người ấy, không thay đổi gì về hình tướng, chẳng ngồi tòa sen phát hào quang, nhưng tâm lại có một biến đổi diệu thường. Đó là “rắn hóa rồng không đổi vảy”.

Phật dạy, “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Lời dạy ấy là đứng trên Phật quả. Nhưng theo tinh thần kinh Lăng già thì “Chúng sanh đã là Phật”, tức nhắm trên Phật nhân. Đã là Phật, vì chúng sanh nào cũng có trí tuệ đức tướng Như Lai. Như kẻ ăn mày trong kinh Pháp Hoa không biết mình có hạt châu trong chéo áo, cứ phải sống đời lang thang cơ nhỡ. Đến lúc được bạn nhắc nhở, lấy ra dùng thì trở nên giàu sang phú quý. Hạt châu có sẵn như Đạo sẵn đủ tại tâm, chỉ vì ta quên nên mê, còn nhớ ra là ngộ Đạo.

Đức Phật thành đạo nơi cội Tất bát la cách đây gần 26 thế kỷ, nhưng câu chuyện tìm đạo của Ngài vẫn luôn là bài học lớn cho hàng đệ tử Phật chúng ta. Khi mới phát tâm tu, chúng ta cần có thầy hướng dẫn đường lối đúng đắn để khỏi lạc lầm. Đang trong giai đoạn dụng công, ta cũng cần thầy bạn sách tấn và sửa chữa những sai sót, để khỏi sa vào những cám dỗ của ngoại ma. Nhưng vấn đề ngộ đạo lại khác, tự thân hành giả nỗ lực công phu, phải tự nhận ra Phật tâm nơi chính mình chứ không ai làm thay cho ai được.

Hiểu và tin mình có khả năng thành Phật, chúng ta có sự vững vàng trên đường tu. Ta không tìm cầu Phật bên ngoài, không tin có một quyền năng ban phước giáng họa, mà chỉ tin chính tâm mình có chánh nhân thành Phật, ta cứ một lòng một dạ tiến bước trong chánh pháp mà không khởi ý niệm mong cầu, thì khi đủ thời tiết nhân duyên, tất nhiên trổ ra chánh quả. Đến lúc ấy, ta mới thấm thía và biết ơn vô cùng lời - dạy - vô - ngôn của Đức Bổn Sư khi cầm cành sen xanh, hay gậy Tổ Hoàng Bá khi đập cho đệ tử xuất cách Nghĩa Huyền ba gậy.

Vậy thì rốt cuộc, thành đạo là nhận ra và hằng sống với con người chân thật chính mình.

Thiền thất Viên Giác

Ngày Phật thành đạo PL. 2552

Người gửi bài: Anh Huy
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/07/2011(Xem: 3243)
Thở vào, tâm tĩnh lặng Thở ra, miệng mỉm cười An trú trong hiện tại Giờ phút đẹp tuyệt vời (An lạc từng bước chân- Thích Nhất Hạnh)
30/06/2011(Xem: 5132)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
30/06/2011(Xem: 7252)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
31/05/2011(Xem: 3114)
Khoa học nhìn về thiền Phật Giáo như thế nào? Dưới đây là một cuộc nghiên cứu khoa học tại Đạị Học New York University, do phóng viên Matt Danzico tường thuật, đăng trên BBC News ngày 24-4-2011. Bản dịch Việt ngữ toàn văn như sau. Não bộ của các vị sư Phật Giáo được chụp lại bởi máy scan (máy quét) trong cuộc nghiên cứu về thiền.
14/05/2011(Xem: 6664)
Nói về Thiền Vipassana thì có rất nhiều vị tăng nổi tiếng ở Miến Điện, Tích Lan, Thái Lan đã giảng dạy, nhưng đặc biệt là pháp Thiền được phổ biến ở Âu châu, Mỹ châu lại là pháp Thiền của U Ba Khin, một vị cư sĩ người Miến điện. Nhiều Trung tâm Thiền quốc tế (International Meditation Centers) đã được thành lập tại nhiều nước để truyền bá pháp Thiền của U Ba Khin. Pháp Thiền của U Ba Khin thuộc môn Thiền Vipassana (tiếng Phạn, có nghĩa là Quán, Insight meditation). Thiền Vipassana thuộc hệ thống Nam Tông (Tiểu thừa), căn cứ theo những pháp dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana Sutta). Kinh này chỉ pháp tu một cách tổng quát với những nguyên tắc rộng lớn mà không đi sâu vào chi tiết thực hành như pháp Niệm hơi thở (Anapanasati) cho nên khi thực hành có nhiều phương pháp khác nhau, tùy theo sự chứng đắc của mỗi thầy, vì vậy không có được một pháp Thiền Vipassana thống nhất. Tuy vậy dù phương pháp khác nhau nhưng tất cả các Thiền Vipassana đều căn cứ vào kinh Tứ Niệm Xứ.
14/05/2011(Xem: 7968)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ. Ngay đối với số đông các Phật tử Việt Nam, Thiền tông cũng là một tông phái được ít người hiểu đến vì tính cách kỳ đặc của pháp tu này, vì vậy nên có những xét đoán, phê bình không đúng. Chúng ta nên tránh việc phê bình, chỉ trích các tông phái khác tông phái mình đang tu, vì tông phái nào cũng đòi hỏi một sự học hỏi sâu xa, nên thường khi chỉ trích các tông phái khác thì chỉ căn cứ theo một số hiểu biết hời hợt về tông phái đó, vì vậy những lời chỉ trích thường không đúng được, và chỉ gây thêm những tranh luận vô ích, mất thì giờ. Chúng ta nên tìm học kỹ để phân biệt rõ ràng và thực hành đúng lời Phật dạy, chứ không phải để tranh luận, chỉ trích.
09/05/2011(Xem: 5134)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
30/04/2011(Xem: 8419)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại Thừa và Thiền Tông.
25/04/2011(Xem: 7553)
Con đường thiền tập là chánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
24/04/2011(Xem: 6280)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]