Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp Môn Niệm Phật

22/10/201008:54(Xem: 2596)
Pháp Môn Niệm Phật


Phat Di Da
PHÁP MÔN NIỆM PHẬT

(Trích lục Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 19)
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG - Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ - Biên tập: Diệu Thúy
Giảng tại cư sĩ Lâm Phật giáo Singapore, tháng 10- 2003

Tất cả chư Phật Như Lai, không vị nào không khuyên người cầu sinh Tịnh Độ. Các vị đều không chút lòng riêng tư, không chút tâm thiên lệch mong muốn chúng ta mau chóng thành Phật. Phương pháp thù thắng nhất chính là cầu sinh Tây Phương tịnh độ, nhanh hơn so với bất cứ pháp môn nào, thù thắng ngay trong thù thắng. Thế nhưng, thực tế có một số người nghiệp chướng sâu nặng nên không tin tưởng. Phật Bồ Tát cũng từ bi, tùy hỷ dạy pháp môn khác mà chúng ta thường gọi “tám vạn bốn ngàn”. Vậy “tám vạn bốn ngàn” là gì? Là do không tin tưởng pháp môn này, không tình nguyện học tập, không muốn cầu sinh Tây Phương Cực Lạc, chư Phật liền mở ra tám vạn bốn ngàn pháp môn. Phật mở ra vô lượng pháp môn vì những người nghiệp chướng sâu nặng.

Tường tận thông suốt đạo lý này chúng ta mới cảm nhận sự may mắn khi gặp được pháp môn của Phật, nhất định sẽ không xả bỏ, không nghi hoặc, mà một môn thâm nhập, tuyệt đối không động tâm. Với pháp môn khác, chúng ta có thể tán thán nhưng không cùng học. Thiện Tài Đồng tử có năm mươi ba lần tham học, pháp môn nào ngài cũng tham quan, cũng đều lướt qua. Thế nhưng ngài không học theo mà chân thành niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Cuối cùng ngài cũng về được thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Thọ dụng cụ túc đệ thập cửu”

Phẩm kinh này giới thiệu với chúng ta từ dung mạo đoan chính trang nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ thông suốt, thần thông tự tại, tuổi thọ dài lâu, cho đến hoàn cảnh sinh hoạt thường ngày của người ở thế giới Tây phương Cực lạc. Đó là đích đến mà tất cả chúng sinh trên thế gian ngày đêm đang mong cầu. Nếu cầu phước, cầu trí tuệ, tự tại, thọ mạng, thì thế giới cực lạc mới được viên mãn. Chúng ta không thể cầu được ở thế giới này. Trong tám khổ có “cầu bất đắc khổ”, sau khi đã cầu chúng ta vẫn khổ. Người thế giới Tây Phương cực lạc không hề có ý niệm như vậy, tất cả đều tự nhiên, đều lưu xuất từ tánh đức, cho nên thân tâm của chánh báo thanh tịnh quang minh, y báo phước đức thù thắng, như trên đã nói “siêu thế hy hữu”. Trong kinh, Thế Tôn nói pháp phương tiện khéo léo, tuy nói nhưng “ứng niệm hiện tiền, vô bất cụ túc”. Người thế gian thường hay nói “tâm nghĩ sự thành”, nếu không chú tâm, chăm chỉ nỗ lực, sự việc không thể thành. Thế giới Tây Phương cực lạc cũng vậy, vừa nghĩ đến thì liền thành tựu.

Phục thứ cực lạc thế giới, sở hữu chúng sanh”

Cái “sở hữu” này ý nghĩa rất dài, phía sau kinh văn có câu “hoặc dĩ sanh, hoặc hiện sanh, hoặc đương sanh”. “Dĩ sanh” là đã sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc của Phật A Di Đà, thành Phật đã mười kiếp. “Hiện sanh” là hiện tại sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc. “Đương sanh” chính là chúng ta, hiện tại chưa đi nhưng chắc chắn sẽ đi. “Đương sanh” là sự khẳng định đương nhiên. Khi chính mình hạ quyết tâm, không chút nghi ngờ cũng không lo nghĩ đã tạo nghiệp gì trong đời quá khứ, hiện tại thì chỗ “đương sanh” này, chúng ta sẽ có phần. Sau khi gặp được pháp môn, chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà, không nên nghĩ những thứ khác. Trong kinh Đại thừa, đức Phật thường nói “niệm một câu Nam mô A di đà Phật tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội”. Chúng ta niệm có thể tiêu được hay không? Không thể! Khi chúng ta niệm “đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Vậy phải như thế nào khi niệm mới có sức mạnh lớn như vậy? Chính là người không có chút lòng nghi hoặc, trong tâm ngoài Phật hiệu không có bất cứ một tạp niệm nào. Niệm được như vậy sẽ tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Không nên khởi vọng tưởng, thậm chí thế gian pháp, chúng ta cũng không nghĩ đến, không nghĩ quá khứ không nghĩ hiện tại cũng không nghĩ tương lai mà chỉ nghĩ “A Di Đà Phật”, chỉ nghĩ kinh Vô Lượng Thọ, như vậy mới tiêu được tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Chỉ cần khởi một vọng niệm, công phu của chúng ta hoàn toàn bị phá hỏng. Do đó phải triệt để buông bỏ, vạn duyên buông bỏ, đương sanh ngay trong một đời này nhất định thành tựu, nhất định vãng sanh.

Giai đắc như thị, chư diệu sắc thân, hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ minh liễu, thần thông tự tại”

Câu “giai đắc như thị, chư diệu sắc thân” là tổng thuyết. Diệu sắc thân chính là “hình mạo đoan nghiêm”. Chúng ta đã đọc phần trước bài kinh, sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc, thế giới đó là hóa thân, không phải là thai sinh nên rất khó tưởng tượng. Người thế gian luôn từ nhỏ lớn dần tuổi tác theo thời gian, mỗi năm đều thay đổi. Trong khi đó, thế giới Tây Phương không như vậy. Thân người ở thế giới Tây Phương hoàn toàn giống đức Phật A Di Đà, giống từ tướng mạo thân thể đến phước đức vô lượng. Tuổi thọ ở ngay trong phước đức, tuổi thọ là phước đức đệ nhất, là vô lượng thọ, trí tuệ thông suốt, viên mãn.

Quá khứ, hiện tại, vị lai, quá khứ vô cùng, tương lai vô tận, cõi này phương khác, tất cả các pháp không gì là khó thông đạt. Kinh Hoa Nghiêm và kinh Lăng Nghiêm cũng đã nói qua vấn đề này. Trước đây chúng tôi cũng thường hay giảng “chư pháp sở sanh”, chư pháp là tất cả pháp thế xuất thế gian, sanh là sanh khởi. Tất cả pháp từ đâu mà ra?, đức Phật nói “do tâm hiện ra”, tâm đó là tự tánh, là chân tâm của chúng ta. Chúng ta “minh tâm kiến tánh” thì làm sao không biết được tác dụng của tâm tánh. Hư không, vũ trụ, vô lượng vô biên tinh cầu, và tất cả chúng sanh từ đâu mà ra?, từ trong tự tánh của chúng ta biến hiện ra. Khi minh tâm kiến tánh rồi, đương nhiên thứ gì cũng thông suốt tường tận, không cần phải học.

Đức Phật nói “sở tri chướng”, cái sở tri chướng này đã chướng ngại chúng ta, vốn dĩ chúng ta phải biết nhưng hiện tại lại không biết. Cho nên ý nghĩa của “sở tri chướng” và “phiền não chướng” không giống nhau. Bản thân phiền não là chướng ngại, còn sở tri thì không chướng ngại. Có loại chướng ngại chúng ta nhận biết, nhưng không phiền não. Tất cả chúng sinh đều có “trí tuệ đức tướng Như Lai”, nhưng vì sao hiện tại chúng ta không có trí tuệ thông suốt này? Kinh Phật thường nói, các tổ sư đại đức cũng thường nói: “sở tri chướng” là do khởi tâm động niệm. Kinh Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na hỏi rất hay: “tất cả chúng sinh có vô minh, vô minh bất giác sinh ba cõi, vậy vô minh này có từ lúc nào, do nguyên nhân gì mà ra?”. Đức Phật đáp cũng rất diệu: “vô minh chính là sở tri chướng”, “tri kiến lập tri là vô minh bổn”. Tri kiến chính là trí tuệ thông suốt. Sai sót chính ở chúng ta muốn lập tri. Lập tri là phân biệt, khởi tâm động niệm, liền chướng ngại trí tuệ thông suốt.

Chư Phật Như Lai thường ở trong định, không phải ngồi xếp bằng tĩnh tọa như người thường vẫn nghĩ. Trong định chính là tâm định, không kể đến thân, “đi đứng nằm ngồi” đều trong định, đó mới gọi là thiền định. Định là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước. Định sinh huệ, tác dụng của định chính là trí tuệ thông suốt. Chúng ta không có trí tuệ bởi vì tâm động. Cho nên, nếu muốn cầu trí tuệ, không khó, chúng ta chỉ cần tận lực giữ gìn tâm, không để cho cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, phiền não dao động. Chúng tôi thường khích lệ các vị đồng tu bằng mười sáu chữ cần buông bỏ “tự tư tự lợi, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần, tham sân si mạn”. Sau khi buông bỏ, chúng ta liền ở ngay trong định. Tuy định này không sâu nhưng có thể sinh trí tuệ. Có công phu thì khi mở bất cứ kinh điển gì, chúng ta sẽ không có chướng ngại, mà trên tinh thần “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” như kệ khai kinh đã nói, mặc dù dĩ nhiên sự hiểu của chúng ta vẫn chưa đủ sâu, chưa đủ viên mãn. Tuy nhiên, sự hiểu đó lại chính xác, không sai, vì khi đó, chúng ta đã có sức định.

Nếu không buông bỏ mười sáu chữ vừa nêu, một chút định cũng không có, thì không những đức Phật giảng chúng ta sẽ không hiểu, mà chú giải của tổ sư chúng ta xem cũng không hiểu. Sở tri chướng ở ngay đó. Tâm càng thanh tịnh, trí tuệ càng lớn. Lời nói của cổ đức rất có đạo lý: tu hành Phật pháp chính là một chữ “buông”. Buông bỏ, từ sơ phát tâm đến quả vị Như Lai không hề khác biệt. Buông bỏ một phần, chúng ta liền có thể nhìn thấu một phần, nhìn thấu là trí tuệ thông suốt. Chúng ta liền có thể được một phần tự tại, thần thông tự tại, đều có thể có được người của thế giới Tây Phương cực lạc, vi diệu không thể nói hết.

Chữ “đương sanh” rất vi diệu. Ngày nay, chúng ta hạ quyết tâm tu Tịnh Độ, một lòng một dạ, đó chính là đương sanh, ngay đời này nhất định sẽ không còn luân hồi, nhất định được sinh Tịnh Độ. Bản thân tràn đầy tín tâm, sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc những thứ này thảy đều có được, thậm chí còn viên mãn. Bồ Tát Thất Địa tiếp cận viên mãn, lên trên Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa Đẳng Giác đều viên mãn. Ngôi thứ năm chính là quả vị Như Lai cứu cánh.

Lý do của việc lựa chọn pháp môn niệm Phật

Vừa rồi đến Trung Quốc, chúng tôi gặp rất nhiều vị đồng tu Phật giáo trách móc rằng tại sao chúng tôi chỉ tuyên dương pháp môn Tịnh Độ mà không nói đến các pháp môn khác. Họ lo lắng chẳng lẽ tương lai chỉ có Tịnh Độ, còn các tông phái khác đều không có.

Kỳ thật họ không hiểu cách thức giảng kinh. Giảng bộ kinh nào, nhất định phải tán thán bộ kinh đó. Chúng tôi giảng Tịnh Độ mà lại tán thán Thiền chẳng phải làm trò cười hay sao? Đây là một nguyên tắc cơ bản. Bất cứ tông phái nào, khi giảng giải, chúng ta phải tán thán để người nghe mới có thể sinh tín tâm, có thể thọ dụng, y giáo phụng hành, chân thật được lợi ích.

Trước đây, một nữ tu của Thiên Chúa Giáo cho biết cô rất thích nghe chúng tôi giảng Mai Quế Kinh ở trường. Chúng tôi cũng đã hứa sẽ tìm thời gian thích hợp, cố gắng giảng qua một lượt trong phòng thu rồi tặng các vị phổ biến bên Thiên Chúa Giáo. Khi giảng Mai Quế Kinh, chúng tôi cũng tán thán Thiên Chúa Giáo, tán thán GiêSu, không thể so sánh họ không bằng đức Phật A Di Đà. Cho nên chúng ta cần hiểu, đây là qui củ của giáo học. Không luận giảng bộ kinh điển nào, không luận giảng pháp môn gì, nhất định phải tán thán. Chúng ta gặp đệ tử Phật môn tu học pháp môn tông phái khác, đều tán thán, không nên hủy báng, xem thường.

Trong “Du Già Bồ Tát giới bổn”, có một điều trọng giới, “khen mình chê người”, dường như xếp ở điều thứ nhất. Trọng giới thứ nhất là tán thán chính mình, hủy báng các tông phái khác. Tất cả pháp môn có trong nhà Phật không luận Đại thừa, Tiểu thừa, tông môn giáo hạ, hiển giáo mật giáo, kinh điển mà chúng ta y theo đều là Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Nếu hủy báng kinh điển là báng Phật báng pháp. Có không ít người y theo pháp môn này tu hành thành tựu, chẳng phải như vậy là báng cả tăng sao? Cho nên có thể tán thán chính mình nhưng không được hủy báng Tam Bảo, vì hủy báng Tam Bảo, quả báo địa ngục A Tỳ, không thể vãng sinh.

Người tu Tịnh Độ chúng ta đối với bất kỳ tông phái nào cũng đều tán thán.
Chúng ta cung kính Tam Bảo, không những tán thán Tam Bảo, mà cần tán thán cả các tôn giáo khác. Mặc dù tôn giáo không giống nhau, nhưng họ đều “do tâm hiện ra, do thức hiện bày”. Chúng ta và họ đồng một gốc, đồng một nguồn cội, đồng một tự tánh, vì vậy không nên xem thường, hủy báng. Không tường tận đạo lý này, thì việc học Phật chỉ là học suông, Phật hiệu cũng là niệm suông, làm sao có thể thành tựu. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa còn ở đời, đối với rất nhiều tôn giáo khác của Ấn Độ, Thế Tôn không hề hủy báng, không hề xem thường. Chúng ta cũng nên theo đó mà học. Căn tính tuy không giống nhau, không luận thuộc tôn giáo nào cũng đều khuyên người làm thiện, lánh ác.

Thời đại này là loạn thế, tai nạn triền miên, chúng ta trải qua ngày tháng rất khổ đau. Mọi người trên toàn thế giới bất luận tôn giáo, chủng tộc, quốc gia đều một mong cầu khẩn thiết “xã hội an định, thế giới hòa bình”. Do đó, những năm gần đây, chúng tôi ở Singapore, Úc Châu vẫn đang tiếp tục làm công tác đa nguyên văn hóa, đoàn kết tôn giáo, chủng tộc, hóa giải hiểu lầm, xung đột, hy vọng mọi người toàn tâm toàn lực cống hiến vì an định xã hội, thế giới hòa bình.

Chúng tôi có đưa ra tổng cương lĩnh gói gọn trong tám chữ “đối đãi bình đẳng, hòa thuận cùng sống”. Không nên phân tôn giáo, không phân chủng tộc, không phân quốc gia, không phân văn hóa, cũng không phân giàu nghèo sang hèn, chúng ta đều mong cầu đối đãi bình đẳng với nhau, hòa thuận cùng sống. Ngoài ra chúng tôi còn có năm cụm từ mười chữ “bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc”. Sau cùng tổng kết lại, chúng ta “hợp tác lẫn nhau”. Chỉ với mấy câu như vậy, chúng tôi đi khắp nơi trên thế giới, đến đâu cũng khuyên mọi người thực tiễn triệt để, bản thân quyết làm được, sau đó tiến thêm một bước yêu cầu người trong đạo tràng làm được, dần dần yêu cầu người trong thị trấn nhỏ thảy đều làm được

Chúng tôi ở Úc châu trong một trấn nhỏ chỉ có tám ngàn người đều làm thành công, vì mỗi cá nhân đều có lòng tự trọng, đều hy vọng trấn nhỏ này trở thành trấn mô phạm bình đẳng, đối đãi hòa thuận. Chúng tôi dự đoán khoảng vài năm nữa, trấn nhỏ này sẽ trở nên nhất nhì thế giới về hòa bình an định. Người dân xem người già như cha mẹ mình, xem người trẻ như con em ruột thịt mà tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Xây dựng thế giới hòa bình là việc không dễ dàng. Hội nghị hòa bình của Liên Hiệp Quốc tổ chức ở Thái Lan vừa qua, sau khi tham gia, chúng tôi cảm thấy không thực tiễn. Từ đó mới thấy, thật may mắn khi ở Toowoomba hình thành một mô phạm hòa bình, mà người Trung Quốc gọi là kiểu mẫu. Đó chính là mở rộng của thôn Di Đà, trấn nhỏ này đầy đủ điều kiện thiên nhiên, cư dân bao gồm hai loại người: trí thức, đa số có trình độ văn hóa rất cao, chiếm một phần tư nhân khẩu; ba phần tư còn lại phần lớn đã về hưu, và người về hưu ở các nơi đến đây dưỡng lão. Do điều kiện thiên nhiên ưu đãi nên nơi này còn gọi là trấn về hưu dưỡng lão. Cứ cuối tuần, chúng tôi thường tổ chức buổi tiệc ấm cúng dành cho khách thập phương tề tựu. Số lượng khách ngày càng tăng là điều đáng mừng. Mục đích buổi tiệc nhằm giáo dục, dẫn dắt nhân dân thực tiễn đối đãi bình đẳng, hòa thuận, cùng thực hiện bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc, hợp tác lẫn nhau. Hy vọng lãnh đạo các tôn giáo trong trấn nhỏ này, từ dẫn đầu đến thúc đẩy để trở thành trấn nhỏ hòa bình nhất thế giới.

Hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự tại”, đều là đức năng tự tánh vốn đủ. Chúng ta có trí tuệ, có sức định sẽ khai mở được trí năng này vô tận vô lượng vô biên. Mọi người đều có thể khai mở.

Thọ dụng chủng chủng, nhất thiết phong túc

Tám chữ này chứa đựng muôn hình vạn vẻ. Ngày nay chúng ta có đời sống tinh thần, đời sống vật chất không những đủ mà còn rất đầy đủ, rất phong phú, không hề kém khuyết. Kinh nêu ra một vài ví dụ các thứ thọ dụng.

Thứ nhất là nơi ở, “cung điện”. Cung điện không có nghĩa là nơi ở của đế vương thời xưa mà đó chính là nhà ở cá nhân cùng nơi họat động đoàn thể.

Thứ hai, “phục sức” là điều kiện ăn mặc sung túc. Người thế gian ưa thích trang sức. Chư Phật Bồ tát cũng thường đeo anh lạc, gọi là “chúng bảo trang nghiêm”. Những thứ này đều tự nhiên, không do con người thiết kế chế tạo. Thế giới Tây Phương vốn mọi thứ đều tự nhiên, do nghĩ mà sinh ra.

Thứ ba, “hương hoa”, mười phương pháp giới tất cả chúng sinh không ai không thích hương hoa. Người ta rất chú trọng đến vườn tược. Người giàu sang Trung quốc thời xưa đặc biệt chú trọng đến hoàn cảnh nơi ở. Đến tham quan Trung quốc, chúng ta sẽ thấy còn lưu giữ lại rất nhiều khu vườn với những kiến trúc đẹp mắt ở Tô Châu, Dương Châu, Bắc Kinh. Không cần chờ đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, “do nghĩ mà sinh”, chỉ cần chúng ta quán tưởng, thế giới Tây phương liền hiện tiền trong cuộc sống của chúng ta.

Phan cái trang nghiêm chi cụ, tùy ý sở tu, tất giai như niệm”

Câu nói này đã bao gồm hết tất cả vật chất đồ dùng trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, không thiếu thứ nào. Khi nào cần dùng, nó tự nhiên hiện ra; khi không cần nữa, nó liền biến mất. Cho nên, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vào nhà của mỗi người đều thấy sạch sẽ, bóng láng không chút bụi trần, đồ dùng của họ cũng không cần phải cất chứa, vô cùng vi diệu. Bởi vì tất cả chúng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có năng lực chuyển đổi năng lượng vật chất, có thể đem năng lượng biến thành vật chất, khi cần dùng thì thảy đều đầy đủ, khi không cần dùng thì chuyển biến vật chất này quay trở về thành năng lượng nên không cần phải cất chứa.

Trong kinh điển nhà Phật đã giới thiệu rất nhiều cảnh giới không thể nghĩ bàn, được khoa học gia hiện tại chứng thực. Thế nhưng hiện tại họ không biết dùng phương pháp gì để làm cho năng lượng và vật chất tùy tâm mà chuyển biến. Người thế giới Tây Phương Cực Lạc sớm đã biết được. Những năm đầu khi giảng bộ kinh này, chúng tôi đã khuyên các khoa học gia nên đến thế giới Cực Lạc “du học”. Nếu không, kiến thức họ học được sẽ rất có hạn. A Di Đà Phật là nhà khoa học vĩ đại nhất giữa vũ trụ này, cho nên học khoa học thì cần đi đến thế giới Cực Lạc.

Tùy ý sở tu tất giai như niệm”, tất cả đều do tâm nghĩ sự thành, không như thế gian đời sống gian nan khổ sở. Thích Ca Mâu Ni Phật nói, sáu cõi của chúng ta là biển khổ. Có ba loại khổ lớn, “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”. Kinh Hoa Nghiêm nói “ba cõi đều khổ”, dục giới ba loại khổ này thảy đều đầy đủ, không ai có thể tránh khỏi được. Người cõi trời sắc giới công phu thiền định sâu, không có “khổ khổ”, nhưng họ có “hoại khổ”, “hành khổ”, vẫn không được coi là tự tại. Đến được cõi vô sắc, ngay đến thân thể này cũng không cần, không có “hoại khổ”, nhưng họ vẫn có “hành khổ”. Hành khổ vì cảnh giới này của họ không thể giữ được mãi. Họ có hạn chế của thọ mạng. Cõi trời Vô Sắc giới cao nhất, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, tuổi thọ tám vạn đại kiếp. Người thông thường không ấn tượng sâu về con số tám vạn đại kiếp, nhưng đối với người con Phật thì tương đối dễ hiểu hơn. Trong kinh luận đức Phật dạy, thế giới này, một lần “thành, trụ, hoại, không” là một đại kiếp. Tám vạn đại kiếp là “thành, trụ, hoại, không” tám vạn lần. Thế nhưng rốt cuộc, nó vẫn là số lượng, cùng với thời không vô tận mà so sánh, vẫn rất ngắn ngủi. Tám vạn đại kiếp cũng qua nhanh, khi mất định lực vẫn bị đọa xuống sáu cõi luân hồi, không được cứu cánh. “Ba cõi đều khổ”, không hề có những ngày tháng tốt đẹp, muốn trải qua ngày tháng tốt đẹp, chúng ta hãy hướng đến, xem thế giới Tây Phương Cực Lạc kỳ diệu dường nào.

11-20-2009 11:23:46

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/05/2011(Xem: 8467)
Lâu nay, nhiều người được đọc một bài viết nhan đề: “Lời tự thú của một Sư Cô”[1] được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới thông tin điện tử và báo giấy tiếng Việt toàn cầu. Đây là lời “tự thú” của một nữ tu sĩ Phật giáo, 50 tuổi đời và có hơn 30 năm tuổi đạo. Tuy lai lịch thực hư của tác giả chưa được xác định rõ ràng, nhưng người viết đã nói lên hai vấn đề được đề cập khá rộng rãi và thường xuyên trong sinh hoạt đạo Phật từ xa xưa đến bây giờ: Trí tuệ và Pháp môn... Đạo là con đường mà đạo Phật là con đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
01/05/2011(Xem: 6417)
Tây phương Cực lạc là cảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnh là vô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
30/04/2011(Xem: 7888)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chất và tinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
23/03/2011(Xem: 4302)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
18/03/2011(Xem: 8588)
Khi một hành giả tu Tịnh độ chuyển hoá tận gốc rễ tham ái, hận thù và si mê, gieo trồng vạn thiện công đức: phụng sự xã hội và con người trên tinh thần vô ngã vị tha thì việc sanh về Tây phương không cònquan trọng nữa. Lúc ấy, hành giả đang sống trong cõi Ta Bà với chất lượng cuộc sống của Tịnh độ. Nói cách khác, với chất liệu và chất lượng cuộc sống như vừa nêu, hành giả có mặt ở đâu thì nơi đó được xem là Tịnhđộ trần thế. Sau khi phân tích kinh, tác giả đã khẳng định không có yếu tố tha lực trong kinh A-di-đà, dầu chỉ là nghĩa ám chỉ
18/01/2011(Xem: 2966)
Sáng nay trên những con đường còn băng giá Tôi chợt thấy mùa xuân trên vạn cánh sen hồng tía… Tôi say sưa ngắm nhìn cảnh tượng sáng ngời trứơc mắt tôi, những cành cây trơ trụi của mùa đông bây giờ đã khóac lên mình những hoa lá trắng mềm mại. Cả cảnh vật như chìm trong mầu sáng tinh khôi của mùa đông băng giá. Trong giây phút đó mọi vât dường như ngừng lại, như từ vô thủy chưa bao giờ thay đổi. Dù thực hay mộng ảo, giửa cỏi này hay cỏi kia có gì khác không? Giòng tâm tư tôi không ngừng tại đó, vẩn cuồn cuộn, vẩn trôi chẩy như từ kiếp nào, giửa bờ thực hư đó, theo thói quen của cuộc sống hiện tại tôi đưa tay nhấn nút, bổng lời đối đáp giữa Jhon Blofeld và thiền sư Hư Vân vang lên
17/01/2011(Xem: 2855)
Chúng ta thấu hiều Tịnh Độ này như thế nào hiện nay? Có phải thật sự có một nơi chốn đặc biệt khác hơn thế giới này mà chúng ta đi đến sau khi chết, một cõi Tịnh Độ của hòa bình và an lạc? Có phải những người thông thường, phần lớn tin rằng sự tín thành trì danh Niệm Phật sẽ bảo đảm cho sự thâm nhập vào một loại Tịnh Độ nào đấy sau khi chết – bất cứ nơi nào có thể là? Có lẻ những người Phật tử thông minh, theo sự hướng dẫn của Thân Loan Thánh Nhân thấu hiểu rằng Tịnh Độ hoàn toàn không phải là một nơi chốn thật sự, mà căn bản là một biểu tượng cho một thể trạng khác biệt của tâm thức, nhưng một khái niệm như thế có gây sự chú ý và có thể được chấp nhận bởi những hành giả thông thường của Tịnh Độ Chân Tông hay không?
31/12/2010(Xem: 2463)
1/ Tịnh Độ tông là Đại thừa. Ngoài ba kinh chuyên dạy về Tịnh độ của Phật A Di Đà (Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và Kinh A Di Đà tiểu bản)thì nhiều kinh của Đại thừa như Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Bi Hoa….và các luận Đại thừa Khởi Tín, Luận Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí giả….và các Bồ tát khởi xướng các tông chính của Đại thừa như Trung Đạo, Duy thức và Mật giáo đều có chỉ dạy và hâm mộ Tịnh Độ.
04/12/2010(Xem: 2549)
Đại thừa Phật giáo đối với việc tự cầu giác ngộ của Tiểu thừa Phật giáo mà nói, thì chẳng những tự độ mà còn chuyên chở hết thảy chúng sinh đến Niết Bàn giác ngạn.
11/11/2010(Xem: 4188)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới. Đây là một vấn đề trọng đại, là “một đại sự nhân duyên” mà Phật nói trong kinh Pháp Hoa; đức Thế tôn trong rất nhiều kinh luận Đại thừa không kể là trên lý luận hoặc phương pháp không có chỗ nào không lấy đó làm mục tiêu tối hậu. Nhưng Phật pháp truyền đến ngày nay, y cứ theo cách ghi chép của người Trung quốc đã trải qua ba ngàn năm, và theo cách tính của các nước khác thì cũng trên hai ngàn năm trăm năm. Pháp truyền qua thời gian dài như thế sẽ không tránh khỏi sanh ra tệ đoan.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567