Tác giả: Achaan Naeb Mahàniranonda
Thiền viện Boonkanjanaram
Dịch giả: Pháp Thông
PHẦNI:
LÝ THUYẾT
IX. KHÁC BIỆT GIỮA THIỀN ĐỊNH VÀ THIỀN MINH SÁT
Thiền Định |
Thiền Minh Sát |
|
Bản chất |
Sự định tâm, tạo một cái tâm an lạc. | Trí tuệ. |
Đề mục |
Thuộc về chế định pháp (paññatti), như vòng kasina(đề mục thiền hình tròn). | Thuộc chân đế (paramattha), như Danh-Sắc trong Tứ Niệm Xứ |
Đặc tính |
Không dao động | Trí tuệ làm hiển lộ thực tánh pháp. |
Phận sự |
Đè nén năm triền cái (nivārana): dục, sân, trạo cử, hôn trầm, hoài nghi. | Hủy diệt vô minh (avijjā- không hiểu biết Tứ Thánh Đế). |
Quả |
Sự nhất tâm (ekaggata). | Có chánh kiến, thấy được thực tánh của danh, sắc |
Tác dụng |
Tâm không tham đắm ngũ dục, thọ hưởng an lạc trong định. Nhưng thọ lạc được chứng nghiệm lúc này, mặc dù lâu dài, thường đi kèm với tự ngã, do đó, vẫn còn si mê. | Sát-na định có Tứ Niệm Xứ là đối tượng, nhờ vậy tuệ minh sát có thể nảy sanh. Các cảm thọ được chứng nghiệm lúc này có thuộc tính vô thường, khổ, vô ngã. |
Lợi ích |
Trong kiếp hiện tại là có thể nhập vào Bát Định (Samapatti), đè nén được tham, sân và rất an lạc, kiếp vị lai có thể sanh vào cõi Phạm Thiên. |
Sự thủ tiêu các tích lũy nghiệp hay phiền não (asāvakkhaya- diệt lậu), do đó, sẽ không còn tái sanh (vivatta), tức Niết Bàn. Đây chính là lạc thực sự. |
Đối tượng - Căn |
Chỉ có mộtđối tượng duy nhất, và sửdụng hai căn một lúc, chẳng hạn như nhãn căn và ý căn khi đề mục là một vòng kasina, hoặc thân căn và ý căn trong trường hợp niệm hơi thở (anāpanasati). | Sử dụng cả sáu căn vàkhông cần đến một đốitượng đặc biệt nào cả. Chỉ quán sát danh và sắc để thấy ra tam tướng. Ngay cả các triền cái cũng có thể được dùng như một đối tượng - pháp tùy quán. |
Cá tính |
Theo Kinh điển, một hành giả khi chọn thực hành thiền định cần phải xác định xem cá tính của mình thuộc loại nào trong sáu loại như: tánh tham (rāgacarita) Sau đó, hành giả tham khảo Thanh Tịnh Đạo để chọn đề mục hợp với cá tánh của mình. Chẳng hạn, đối với người có tánh tham, đề mục bất tịnh (asubha) hay thân hành niệm (32 thể trược) được khuyên là nên sử dụng. |
Đức Phật dạy rằng, người hành minh sát cần phải xác định xem mình thuộc loại nào trong bốn cá tánhnhư, tánh tham ái(tanhācarita) +tuệ mạnh, tánh tham ái+ tuệ yếu, tánh tà kiến(diṭṭhicarita)+ tuệ mạnh, tánh tà kiến + tuệ yếu. Nên sử dụng một trong bốn đối tượng của Tứ Niệm Xứ phù hợp với cá tánh của mình. Chẳng hạn, nếu tham ái với tuệ mạnh thì nên dùng Thọ quán niệm xứ. Tuy nhiên, ngày nay, hầu hết mọi người đều có tham ái và tuệ yếu. Vì thế, trong pháp hành này, niệm thân, đặc biệt các oai nghi chính và phụ, nên sử dụng cho hành giả sơ cơ. Theo Đức Phật, A-la-hán đạo ngày nay chỉ có thể đạt đến do niệm thân mà thôi. |
Tính chất |
Là thiện pháp, nó có trước thời Đức Phật, nhưng vẫn còn nằm trong cái khổ của luân hồi. | Cũng là thiệnpháp, nhưng nằm ngoàivòng luân hồivà do Đức Phật khám phá. |