Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển V

18/04/201313:15(Xem: 4398)
Quyển V

Theravàda
(Thượng-tọa bộ)

Chú Giải Luật Thiện Kiến

Samantapàsàdikà Nàma Vinayatthakathà

Hán dịch: Tăng-già-bạt-đà-la(Sanghabhadra)
Việt dịch: Tỳ kheo Tâm-Hạnh(Caràna-citto Bhikkhu)

Phật Lịch 2543 (1999)
--- o0o ---

Quyển thứ năm

-ooOoo-

Về câu: Từ bỏ khổ và lạc.

Hỏi: - Từ bỏ khổ và lạc nghĩa là gì?

Ðáp: - Trong tứ thiền, không còn tâm khổ và lạc, còn gọi là vứt bỏ cả tên khổ và lạc.

Hỏi: - Trong tứ thiền, khi nào không còn tâm khổ và lạc?

Ðáp: - Ngay khi bắt đầu bước vào tứ thiền là không còn.

Hỏi: - Ở đâu không còn khổ về thân?

Ðáp: - Như trong kinh nói: Phật bảo các Tỳ-kheo, ly dục được thanh tịnh rồi, thì vào sơ thiền, ở đây khổ bị diệt hết.

Hỏi: - Ở đâu diệt sạch cả tâm khổ và lạc?

Ðáp: - Trong sự tu tập viên mãn.

Phật bảo các Tỳ-kheo: Trong tứ thiền, khổ lạc hoàn toàn bị diệt hết; ngay khi bắt đầu bước vào đệ tứ thiền thì hỷ hoàn toàn bị diệt không còn gì. Trong sơ thiền, niệm và tư chưa hết nên có tâm khổ. Khi diệt hết niệm và tư thì khổ không còn. Cũng vậy, trong nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, tuần tự diệt các chi, bắt đầu là niệm. Hỷ được diệt tận khi bắt đầu vào tứ thiền. Lạc trong thiền thứ tư, vì an trú vào xả (thanh tịnh hoàn toàn nhờ xả) nên lạc không thể phát sinh được nữa. Do đó, trong thiền thứ tư, khổ bị diệt tận không còn, nên gọi là không khổ, không lạc. Pháp xả này rất vi tế, không thể dùng ý mà nắm bắt được. Vì sao? Như có con bò dữ, người chăn bò không thể bắt giữ được, nên phải làm chuồng và lùa cả bầy vào trong, rồi cho từng con đi ra, tuần tự đến con bò dữ này thì bắt giữ được nó. Phật cũng như vậy, trước tiên giữ lấy lạc để có tất cả các pháp, sau đó tuần tự loại trừ đi, (và chỉ ra) đây là không khổ, không lạc, không tâm khổ, không tâm lạc và đây là cảm thọ không khổ không lạc.

Hỏi: - Không khổ không lạc này có giữ được không?

Ðáp: - Không thể giữ được.

Hỏi: - Nhưng theo như câu ở trên thì tại sao nói giữ được?

Ðáp: - Nhờ tên mà biết được tướng, cũng như bắt giữ được vậy; tướng trên ngôn ngữ như vậy, hãy tự biết lấy. Như trong kinh văn nói có bốn duyên mà vị trưởng lão nhờ đó đạt đến giải thoát do không khổ không lạc. Ðó là nhờ định (nên loại bỏ hỷ và ưu ở thiền thứ ba) và hoàn toàn không còn khổ, lạc thì trú thiền thứ tư. Trưởng lão, đây là bốn duyên không khổ không lạc được gọi là giải thoát nhờ vào định. Cũng như, ngay khi ở đạo lộ thứ ba (đưa đến tam thiền), tà kiến... là các pháp đã diệt từ đầu, đó là sự khen ngợi về đạo lộ thứ ba; sự việc ở trên cũng như vậy.

Hỏi: - Các pháp ấy như thế nào?

Ðáp: - Ðứng đầu là sân nhuế, ngu si... tuần tự biết theo như vậy. Cũng như trong tứ thiền, bắt đầu bằng tâm khổ lạc, từ lạc sinh ra dục; từ khổ sinh ra sân nhuế. Khi sân nhuế sinh ra thì tiêu diệt tâm lạc. Thiền thứ tư đã quá xa chúng nên gọi là không khổ không lạc.

Hỏi: - Tướng trạng của không khổ không lạc như thế nào?

Ðáp: - Là trạng thái hoàn toàn không còn lạc và khổ.

Hỏi: - Vị của nó như thế nào?

Ðáp: - Không còn vị đắng của khổ và vị ngọt của lạc, còn gọi là không có đáp ứng.

Về câu: Xả niệm (thức) thanh tịnh.

Hỏi: - Xả niệm thanh tịnh là gì?

Ðáp: - Xả nghĩa là khiến cho thức được thanh tịnh. Ðây là trong thiền thứ tư, niệm hoàn toàn thanh tịnh. Niệm đã thanh tịnh là xả hết ba niệm đã có, hoàn toàn nhờ vào tác dụng của xả chứ không phải nhờ vào pháp nào cả. Thế nên, trong luật này nói về xả niệm thanh tịnh ví như trăng bị mây che nên ánh sáng không tỏ rạng. Sau khi mây tan hết, ánh trăng chiếu trong sáng. Ở đây, tư lạc cũng vậy, xả hết tư và lạc thì niệm liền thanh tịnh.

Hỏi: - Trong ba thiền ở trước đó (xả niệm thanh tịnh) không?

Ðáp: - Có.

Hỏi: - Vì sao không thoát khỏi niệm?

Ðáp: - Vì ở trước bị tư che lấp nên không thoát được. Lại nữa, xả trong tứ thiền thì niệm như ban đêm, xả như mặt trăng tròn, khi chúng họp nhau thì mặt trăng sáng tỏ.

Như vậy, sơ thiền có năm chi, tứ thiền có ba chi là xả, niệm, nhất tâm. Nói rộng có ba, tóm lại có hai, như trong kinh đã nói.

Hỏi: - Hai chi (xả và nhất tâm ) phát sinh khi nào?

Ðáp: - Hai chi này phát sinh trong thiền thứ tư.

Hết phần đệ tứ thiền.

Trong Tứ thiền này, có người muốn thực hiện quán địa, có người muốn nhất tâm, có người muốn thông địa, có người muốn diệt-đế-địa, có người muốn nhập sinh. Nhập vào ái-tận nghĩa là cầu nhất tâm.

Vào thiền định như thế nào để được nhất tâm? (Ai với ý muốn) ta an trú trong an lạc suốt một ngày, nên tu tập bằng ca-tư-na (krtsna-kasina-biến xứ - Hán-nhất thiết nhập) thì sẽ phát sinh tám loại định. Người nào ra khỏi định rồi mà vẫn nhất tâm với tuệ quán như trước (trong đối tượng quán của mình), đây gọi là quán địa. Lại có người thành tựu tám loại định rồi, đi vào sự thông suốt các thiền địa, sau khi xuất định có thể biến hiện các thần thông từ một thân hóa ra ngàn vạn thân... được biết theo thứ tự như vậy; nên gọi là nhờ thiền nên đạt thông địa. Lại có người sau khi có tám loại định, an trú vào diệt tận định. Thời gian bảy ngày trong diệt tận định này, theo thế gian gọi là Niết-bàn. Ta cho rằng giữ sự an lạc trong bảy ngày này chính là diệt-đế-địa. Có người đắc tám loại định nhưng không thích thú về thiền định này, với ý nghĩ rằng ta muốn sinh lên cõi Phạm thiên; đây gọi là vào sinh địa. Dưới cây Bồ đề, đức Phật nhập vào định của thiền thứ tư, xuất khỏi định này, quán địa này của Như Lai cũng được gọi là thông địa, cũng gọi là nhập vào diệt-đế-địa, thể nhập vào tất cả pháp thế gian và pháp thánh lợi.

Pháp sư nói: - Lược nói như vậy, về thứ tự của thiền thứ tư tự biết lấy. Với pháp này, vào định của thiền thứ tư, bằng định nhất tâm hoàn toàn nên gọi là tịnh; như trong luật có nói: Xả niệm thanh tịnh.

Hỏi: - Thế nào là tịnh?

Ðáp: - Trắng tinh không còn đen, cũng gọi là quang minh, nhờ vào lạc ly dục, thoát ly hoàn toàn các phiền não, tâm trở nên thanh tịnh trong sáng và tùy thuận sự điều phục. Vì sao? Vì đã được huấn luyện đến mức độ cực kỳ mềm dẻo. Như trong kinh có nói: Nếu tâm đã mềm dẻo thì tùy thuận theo sự điều phục. Ví như vàng nguội được tuần tự luyện cho mềm dẻo thì có thể tùy theo ý muốn mà làm các loại trang sức, đập không bị rạn nứt. Tâm cũng như vậy, tùy thuận sự điều phục. Trong kinh nói rằng Phật bảo các Tỳ-kheo, ta không thấy một pháp nào như tâm, phải huấn luyện nhiều lần mới mềm dẻo, tùy thuận sự sai khiến đạt đến chỗ cực tịnh như vậy gọi là bất động, tinh tấn không còn giải đãi, luôn luôn nhất tâm không còn trạo cử, có trí tuệ kiên cố không bị vô minh che lấp, thường xuyên chánh niệm không bị thất niệm làm nhơ bẩn, quang minh sáng suốt không bị phiền não ngăn che. Ðược pháp này bảo vệ thì không bị loạn động. Tâm này đi vào tám chi thì theo sự tiếp thu mà phân biệt rõ các pháp. Nhờ bốn định của bốn thiền mà được nhất tâm, đưa đến xa lìa các triền cái, tâm không còn cấu trược. Vượt qua niệm tư, tâm được thanh tịnh, phát sinh trí tuệ. Do đó, các triền cái không thể che lấp được tâm. Do không còn niệm nên đạt đến bất động. Khử sạch phiền não cũng gọi là bất động. Ðoạn này được nói trong kinh, hãy tự xem lấy.

Túc-mạng-trí được phát sinh từ thông địa. Túc nghĩa là ấm của đời quá khứ. Trú nghĩa là ở nhà này nhà kia, chết ở nhà này nhà kia, rồi lại sinh vào nhà này nhà kia, rời khỏi nhà này sinh vào nhà kia. Bằng trí tuệ của mình mà biết rõ tất cả từng giai đoạn đời trước; gọi là tự biết túc mạng đời quá khứ. Như trong luật văn có nói: Biết (phân biệt) túc mạng trí nghĩa là nhờ phân biệt mà biết chỗ ở của các thân mạng trong quá khứ, biết sự thọ sinh hoặc một đời, hai đời, luân chuyển như vậy, nhờ tâm biết nên phân biệt. Như Phật đã đến bờ bên kia (pàrami), không còn phải điều phục tâm mà phân biệt rõ hết. Kẻ mới học thì làm rồi mới phân biệt được. Tôi sẽ nói sơ lược, muốn biết rõ xin đọc (Thanh) Tịnh-đạo Tỳ-bà-sa (Visuddhimagga), ở đây nói theo trong luật.

Hỏi: - Thế nào là một đời?

Ðáp: - Một quá trình từ khi (hữu tình) vào thai đến khi chết, gọi là một đời. Tuần tự như vậy cho đến vô số đời.Tam-bạt-kiếp (samvattakappa), Hán dịch kiếp-hoại-diệt.

Hỏi: - Thế nào là vô số kiếp-hoại-diệt?

Ðáp: - (Kiếp) tuần tự bị diệt dần gọi là kiếp-hoại-diệt.

[Tỳ-bạt-di (vivatta) kiếp, Hán dịch là kiếp thành -- người dịch]

Hỏi: - Thế nào là Tỳ-bạt-sất-di-kiếp (vivattatthàyi-kiếp trụ).

Ðáp: - Tuần tự sinh trưởng, gọi là kiếp trụ.

Kiếp hoại được thuộc vào kiếp không (tam-bạt-xoa-di-kiếp-samvattatthàyi), lấy từ kiếp không, thì kiếp thành được thuộc vào kiếp trụ. Với những kiếp này, tâm đều phân biệt rõ. Như trong kinh văn nói: Phật bảo các Tỳ-kheo rằng có bốn a-tăng-kỳ kiếp. Ðó là tam-bạt-trá, tam-bạt-xoa-di, tỳ-bạt-trá, tỳ-bạt-xoa-di [samvatta (hoại), samvattathàyi (không), vivatta (thành), vivattathàyi (trụ)]. Kiếp hoại là gì? Có ba kiếp hoại, đó là hỏa hoại, thủy hoại, phong hoại. Có ba cõi bị hoại là A-ba-sa-la-thiên (Quang âm), Tu-bà-khẩn-na-thiên (Thiểu tịnh), Ty-hiếp-phá-la-thiên (Quảng quả) (Abhassarà, Subhakinhà, Vehapphalà).

Khi hỏa kiếp hoại xuất hiện, từ cõi Quang âm trở xuống bị lửa cháy hết. Khi thủy kiếp hoại xuất hiện, từ cõi Tiểu tịnh trở xuống bị chìm mất trong nước lớn. Khi phong kiếp hoại xuất hiện, từ cõi Tỳ-hiếp-phá-la-thiên trở xuống bị tàn phá bay sạch. Rộng cho đến một cảnh giới của Phật.

Pháp sư hỏi: - Cảnh giới của Phật là gì?

Ðáp: - Là cảnh giới sinh, cảnh giới uy lực, cảnh giới được biết đến (Jàtikkhetta, Anakkhetta, Visayakheta).

Hỏi: - Cảnh giới sinh... là gì?

Cảnh giới sinh là trong mười ngàn thế giới, nếu khi có đức Phật giáng sinh thì cả mười ngàn thế giới đều chấn động. Cảnh giới uy lực là uy đức của Phật bao trùm đến trăm ức thế giới. Trong này, nếu Phật thuyết các kinh bảo hộ như kinh Tam bảo, Kinh Tụ, kinh Ngọn cờ, kinh Cầu an, kinh Khổng tước (Ratanaparitta, Khandhaparitta, Dhajaggaparitta, Atànàtiyaparitta, Moraparitta), (phi nhân nào) nghe mà không phục tùng thì bị gió dữ thổi bay ra tận ngoài trăm ức thế giới. Cảnh giới được biết đến là Ngài biết rất rộng không thể đo lường được. Do đó khi một ba cảnh giới của Phật là cảnh giới uy lực bị diệt thì cảnh giới sinh cũng bị băng hoại. Và khi thế giới ấy được hình thành thì cảnh giới kia cũng được thành lập. Trong thanh tịnh đạo có nói rõ, hãy tự xem biết.

Như vậy, dưới cây Bồ đề, Phật chứng Nhất thiết trí, biết rõ không phải chỉ một kiếp, hai kiếp, mà biết rõ tận đến kiếp hoại.

Hỏi: - Thuận theo chỗ sinh là gì?

Ðáp: - Khi kiếp hoại xảy ra, hữu tình hoặc sinh lên trời hoặc sinh cõi người bằng hóa sinh, thai sinh hoặc thấp sinh. Theo thứ tự như vậy, Ngài đều biết rõ đây là họ của Ta, tên cha mẹ của Ta, tên Ta, thuộc họ Ca-Diếp, họ Bà-la-môn, hoặc Sát-đế-lỵ với khổ vui như vậy, hình sắc trắng đen như vậy, ăn uống với các loại ngũ cốc như vậy, các loại trái cây với vị ngọt hương thơm như vậy, với hành động của thân miệng ý tạo nghiệp như vậy, tuổi thọ dài ngắn như vậy, từ cõi người đến thiên giới thứ nhất, lên tận Phạm thiên. Tuần tự luân chuyển thọ sinh như vậy, cho đến sinh lên cõi trời Ðâu-suất (Tusitabhavana) với địa vị nhất sinh bổ xứ, Ta đồng họ với chư Thiên tại cõi Ðâu-suất thiên, tên là Tư-Ða-Khai-Ða (setaketu - Hán dịch Bạch-kỳ-thiên - Vị trời tên cờ trắng), thân màu hoàng kim, ăn uống cam lộ, hưởng thụ khoái lạc chư thiên, sống lâu đến 57 ức 6 vạn tuổi thế gian. Từ thiên cung, ta giáng hạ thác sinh vào thai Ma-da trong cung vua Bạch-tịnh-phạn. Ta biết rõ tất cả nơi sinh ở các đời sống trong quá khứ với những tên họ, hình dáng xấu đẹp, sang hèn giàu nghèo.

Pháp sư hỏi: - Chỉ có Phật hay người khác cũng biết?

Ðáp: - Cả người khác, Bích-Chi-Phật, Thanh-văn, ngoại đạo, phạm chí, đều có thể phân biệt được. Ngoại đạo, phạm chí chỉ biết trong phạm vi bốn mươi kiếp, vì trí tuệ của họ cạn hẹp nên không thể biết xa hơn, chỉ biết sự thọ sinh mà thôi, không biết tất cả các việc khác. Vì sao? Vì trí tuệ yếu kém. Có 80 bậc đại A-la-hán biết được 10 ngàn kiếp. Có hai thượng thủ A-la-hán biết được một A-tăng-kỳ kiếp và 10 ngàn kiếp. Bích-Chi-Phật biết một A-tăng-kỳ kiếp và 10 ngàn kiếp. Những vị này chỉ biết tùy theo năng lực của mình. Ðức Phật thì biết vô cùng tận. Ngoại đạo phạm chí chỉ biết theo sự tiếp nối các uẩn, nếu muốn biết vượt giai đoạn thì không thể được. Ví như người mù, khi đi phải theo từng bước, không thể có trường hợp đi vượt bước. Thanh-văn biết được cả hai đầu (sinh và kết sinh); Ðộc giác cũng vậy. Chư Phật biết theo ý muốn, biết hết sự lên xuống qua lại trong vô số kiếp. Này Bà-la-môn! Ðây là sự biết của Ta.

Phật bảo Bà-la-môn: - Dưới cây Bồ đề, Ta chứng đắc trí tuệ vô thượng, biết được vô số kiếp trong quá khứ. Nhờ đâu mà Ta diệt sạch vô minh, được trí tuệ sáng suốt như hiện nay? Tất cả đều nhờ vào sự tinh tấn không tiếc thân mạng mà đạt được; như gà con dùng mỏ phá vỏ trứng.

Phật bảo Bà-la-môn: Trí túc mạng của Ta là mỏ, vô minh che phủ nhiều đời là vỏ. Ta dùng mỏ trí này phá tan vỏ vô minh mà thoát ra ngoài nên Ta được gọi là Vô-thượng-trí. Bằng trí túc mạng, Ta cũng biết đời sống của (hữu tình) khác, bằng trí tuệ biết sự đọa sinh của chúng sinh, nên gọi là biết về đọa sinh. Với thiên nhãn, Như Lai vừa quán sát chúng sinh là biết ngay vì đã viên mãn Balamật. Người khác muốn biết như vậy, cần phải tu tập. Ðây là nói lược, muốn biết hãy xem ở Thanh tịnh đạo Tỳ-bà-sa.

Hỏi: - Thánh nghĩa là gì?

Ðáp: - Vị thấy bằng mắt thịt nhưng không khác mắt thánh, nhờ thực hành các thiện pháp mà thiên nhân thành tựu mắt này, không lệ thuộc mắt thịt, sạch các trần cấu, thấy được rất xa. Thế nên, trong luật có nói rằng quán sát bằng thánh nhãn. Tuệ nhãn đạt được do tinh tấn, cũng nhu thánh nhãn không khác. Vì sao? Vì sau khi chứng thánh mới đạt được nên gọi tuệ nhãn là thánh nhãn. Vì sao? Vì tự thân sống theo thánh, được quang minh của bậc thánh. Tâm được sáng suốt nên quan sát rất xa, xuyên qua đá vách như (nhìn) qua ánh sáng trong suốt. Thế nên, với tuệ nhãn thanh tịnh thấy rõ chúng sinh chết đi, thọ sinh. Ngoại đạo, phạm chí vì thấy chết mà không thấy sinh nên sinh ra đoạn kiến. Lại có ngoại đạo thấy sinh mà không thấy chết nên sinh ra thường kiến (yo hi cutimattam eva passati na upapàtam so ucchdaditthin ganhàti) với chín cõi chứng sinh cư trú, đức Phật thấy rõ cả thường kiến lẫn đoạn kiến nên trong luật có nói rằng dùng tuệ nhãn thấy chúng sinh chết và sinh.

Cực tịnh nghĩa là Như Lai không còn 11 phiền não nên gọi là cực tịnh. Như trong kinh có nói: Phật dạy A-Nậu-Lâu-Ðà (Anuruddha) rằng nghi ngờ là tâm phiền não dùng trí tuệ mà khử đi. Tâm không được hộ trì là phiền não. Tâm thùy và tâm miên là phiền não, tâm mừng sợ, tâm kiêu căng, tâm quá tinh tấn, tâm quá mềm yếu, tâm nhiều lời, tâm không biết phân biệt, tâm cực quán sắc... Với các tâm phiền não như vậy, này A-Nậu-Lâu-Ðà, đây là 11 phiền não. Với hết sức tinh tấn, Như Lai đã viễn ly các phiền não này. Nếu Ta chỉ thấy sắc thì không thấy sáng, thấy sáng thì không thấy sắc. Với bước đầu như vậy, Như Lai đã vượt qua 11 phiền não, nên vượt qua mắt người. Thế nên, trong luật có nói: Bằng mắt thánh thanh tịnh siêu việt mắt thịt thế gian để quán sát chúng sinh cũng như thấy bằng mắt thịt, thấy rõ sự chết và sinh của chúng sinh.

Pháp sư nói: - Phật thấy rõ từ khi mới sinh đến khi chết của chúng sinh không?

Ðáp: - Thấy từ khi sinh đến khi chết, không thấy có trung gian [(giữa hai đời) không có trung ấm -- người dịch]. Trong luật cũng thuyết minh như vậy.

Hỏi: - Hạ tiện là gì?

Ðáp: - Vì ngu si hành động theo pháp ác; lại nữa sống bần cùng cũng là tiện và bị người khinh ghét.

Hỏi: - Quý trọng là gì?

Ðáp: - Thọ sinh bằng tâm tuệ, nên gọi là quý trọng.

Tướng mạo xinh đẹp do không sân hận, tướng xấu xí do sân hận mà có.

Thiện đạo (sugata) là sinh vào cảnh giới thiện; nơi nhiều vàng bạc châu báu cũng gọi là đường thiện.

Ác đạo (duggata): do tham lam keo kiệt mà sinh vào cảnh giới bần cùng hạ tiện, còn gọi là đường ác.

Hạ tiện (Hina) là hằng ngày sự ăn uống bị thiếu thốn, không được cung cấp.

Như Lai biết rõ các hoạt động của chúng sinh tùy theo nghiệp của chúng. Quán sát chúng sinh chịu các khổ sở trong địa ngục, Như Lai suy nghĩ: Các chúng sinh này trồng cái gốc tội gì mà chịu khổ suốt ngày đêm ở địa ngục như vậy. Ngài biết rằng chúng sinh này vì gây ác nghiệp nên chịu quả khổ ấy.

Quán sát lên cõi trời, thấy chư thiên du ngoạn vui chơi trong vườn Ly-đà (Nandavana), My-sa (Myssakavana), Ba-lưu-sa-ka (Phàrusakavana), Như Lai suy nghĩ: Những chúng sinh này làm những phước nghiệp gì mà sinh đến cõi ấy hưởng thụ phước lạc cõi thiên. Ngài biết chúng do tạo các thiện nghiệp nên được phước báo này.

Ðây là sự biết rõ nghiệp trong hiện tại và biết rõ quả báo tương ứng trong tương lai. Ðắc đại thần thông, Như Lai biết rõ với thánh nhãn.

Về câu: Gây nghiệp ác về thân (Kàyaduccarita).

Hỏi: - Gây ác nghiệp về thân là gì?

Ðáp: - Ác là tạp uế bất tịnh, với thân là nghiệp ác như vậy, Như Lai đều biết rõ.

Miệng, ý gây ác nghiệp cũng như vậy.

Về câu: Hủy báng người thiện.

Hỏi: - Người thiện là gì?

Ðáp: - Phật, Bích-Chi-Phật, Thanh-văn cho đến kẻ thế tục áo trắng (gihi) chứng quả Tu-đà-hoàn đều gọi là người thiện.

Hỏi: - Hủy báng là gì?

Ðáp: - Mắng chửi hủy diệt các thiện pháp, gọi là lời hủy báng. Lại nữa, nếu nói rằng Phật, Bích-Chi-Phật, Thanh-văn đều là pháp ác trái với chánh pháp, không có thiền định, không có pháp Niết-bàn, không có đạo và quả của pháp. Với lời nói hủy báng như vậy, kẻ biết hay không biết mà nói, đều là kẻ hủy báng người thiện. Những kẻ tạo nghiệp nặng này, thì cửa trời đóng lại và cửa địa ngục mở đón họ.

Pháp sư nói: - Tôi sẽ chứng minh việc này. Trú xứ nọ có hai Tỳ-kheo; một lớn tuổi (thera), một nhỏ tuổi (Daharabhikkhu). Cùng đi vào làng, đến nhà kia, vị lớn được một phần cháo nóng lỏng (ulunkamatta unhàyagu) nên suy nghĩ: Bụng ta bị trúng phong, cháo nàycon nóng, nếu ăn vào ngay thì hết bệnh ấy.

Bấy giờ, vị Tỳ-kheo lớn tuổi ngồi húp cháo nóng trên khúc gỗ làm ngạch cửa (ummàra) của ai đó vứt bên đường. Thấy vị kia ngồi trên khúc gỗ, húp cạn cháo, vị Tỳ-kheo nhỏ tuổi mắng: - Ông già ngu độn (mahallaka) làm tôi xấu hổ quá.

Sau khi dùng cháo, trở về chùa, vị lớn tuổi hỏi vị nhỏ: - Trưỡng lão! Trong Phật pháp này, thầy có đạt được gì không?

Ðáp: - Có, con chứng Tu-đà-hoàn đạo.

Lão Tỳ-kheo nói: - Nếu vậy, đừng mong cầu đạo quả gì khác được. Vì sao? Vì thầy phỉ báng vị Tỳ-kheo ái-tận (lậu tận).

Nghe nói như vậy, vị Tỳ-kheo nhỏ sám hối: - Thưa đại đức! Con đã có hành động bất thiện đối với đại đức, xin cho con sám hối.

Ðược vị kia cho sám hối, nên vị này hoan hỷ từ giã.

Pháp sư nói: - Người nào mắng chửi bậc thánh, nếu là đại Tỳ-kheo thì sám hối như sau: - Trưởng lão, tôi xin sám hối với trưởng lão, xin trưởng lão chấp nhận cho. Nếu là vị nhỏ hơn thì lạy sát đất, chắp tay thưa: - Ðại đức! Ðây là lỗi của con, xin sám hối với đại đức, mong đại đức chấp thuận cho. Nếu vị kia không chấp nhận, thì vị này phải đi ngay đến gặp các Tỳ-kheo ở chỗ khác hay chùa khác, nếu gặp vị lớn tuổi, thì đảnh lễ sát chân, chắp tay thưa: - Ðại đức, con có lỗi như vậy, xin đại đức ghi nhận cho; nếu gặp vị nhỏ tuổi, thì nói: - Trưởng lão, tôi có lỗi như vậy, tôi xin sám hối, xin trưởng lão chấp thuận cho. Nếu vị kia đã nhập Niết-bàn, thì đến sám hối nơi vị ấy nhập Niết-bàn (Parinibbutamanacatthàna). Sau khi sám hối như vậy thì cửa đường trời và cửa niết-bàn vẫn rộng mở như khi chưa phạm lỗi.

Về câu: Tà kiến (Micchàditthika)

Hỏi: - Tà kiến là gì?

Ðáp: - Kiến thức điên đảo là tà kiến, sau khi chấp nhận hành động tà kiến, lại còn truyền dạy người khác, bằng lời nói ác phỉ báng bậc thánh và ác nghiệp về ý cũng thuộc về tà kiến. Ðã chấp thuận tà kiến thì tất cả hành động ác đều theo hướng tà kiến và hành động đại ác này đưa đến tội cực nặng. Như trong kinh văn có nói: - Phật bảo Xá-Lỵ-Phất: Tỳ-kheo giữ giới trọn vẹn, có định tuệ đầy đủ, thì tự mình đạt được chánh kiến, và dạy bảo người khác cũng được như vậy. Này Xá-Lỵ-Phất, tà kiến cũng vậy, không rời thân miệng ý thì như người cầm viên đất ném đi cũng không thoát khỏi đất được, gây tà kiến ác nghiệp không thoát khỏi địanguc. Tại sao? Vì tà kiến gây tội rất nặng. Trong kinh văn cũng có nói: Phật bảo các Tỳ-kheo: Ta thấy các nghiệp ác không gì hơn tà kiến vì nó tạo ra tội lỗi đưa đến quả báo cực nặng.

Về câu: Ðưa đến thân chết (Kàyassa Bheda).

Hỏi: - Thân chết là gì?

Ðáp: - Chết là cùng với tội bị đọa địa ngục không có lúc thoát ra, cũng gọi là bốn đại tan rã, cũng gọi là sẽ tái sinh.

Pháp sư nói: - Nếu chọn lấy địa ngục thì đóng chặt con đường đến cõi trời và cửa giải thoát. Lại nữa, nếu gọi là ác đạo thì bao gồm cả ngạ quỉ, súc sinh, A-tu-la. Nói đến địa ngục (apàya) thì bắt đầu là A-tỳ (avìci), trắng hay đen thế nào hãy tự biết lấy. Nói đến thiện đạo thì loài người cũng là thiện đạo.

Hỏi: - Trời có nghĩa gì?

Ðáp: - Sắc, thanh, hương, vị hơn cõi người nên gọi là trời.

Biết rõ (Vijjà-minh) là biết bằng mắt, những phần khác hãy tự biết lấy.

Ðã nói lược xong về phẩm Thánh-nhãn.

Biết rõ vô minh che đậy túc mạng ở quá khứ, dùng mỏ túc mạng trí mổ vỡ tan vỏ vô minh che đậy, đồng thời biết rõ sự đọa lạc trong hiện tại.

Lậu tận trí là trí đạt được nhờ diệt sạch các lậu bởi A-la-hán đạo.

Quá-hạ-trí tâm (samàhita citta-tâm đẳng dẫn, thắng định) là tâm quán sát. Tâm quán này biết rõ khổ, ngay tại đây diệt tận và không còn tiếp tục, vì biết rõ hoàn toàn về tướng mạo và bản chất của khổ-đế. Lại nữa, quán khổ-đế từ tập-đế phát sinh, đây là tập-đế. Lại nữa, quán khổ diệt, đây là diệt-đế. Quán sát con đường đưa đến khổ-diệt là quán đạo-đế. Như vậy là biết rõ hoàn toàn về tướng mạo của bốn Thánh đế một cách như thật. Do đó, đức Phật nói: Ta biết bốn đế bằng thấy như thật, biết như thật.

Về dục lậu:

Từ dục lậu thoát ra, đây chỉ cho quả, căn cứ vào kết quả mà tuyên bố ta đã giải thoát rồi. Từ lâu, dục lậu che đậy tâm hiểu biết, này nhờ quán sát nên biết rõ ta không còn tái sinh nữa. Thế nên trong luật có nói: Phật bảo Bà-la-môn rằng: - Ta không còn sinh nữa.

Pháp sư hỏi: - Ðó là quá khứ không sinh, hiện tại không sinh hay tương lai không sinh? Nếu nói quá khứ sinh, thì sự sinh trong quá khứ đã diệt; nếu nói hiện tại sinh thì sự sinh trong hiện tại dã sinh; nếu nói tương lai sinh thì sự sinh trong tương lai chưa đến, vậy có gì là sinh?

Ðáp: - Ðoạn trừ cái nhân nên gọi là không sinh.

Trú (Vusita) là trú trong phạm hạnh. Phạm hạnh (Brahmacariya) là người thiện cùng cộng trú trong bảy chi học giới. Ðây là Phật chỉ cho người xuất gia.

Việc đã xong (kata karanìya) nghĩa là đối với Bốn đế, bốn-đạo đã hoàn tất. Thế nên, Phật bảo Bà-la-môn rằng: - Việc làm của Ta đã hoàn tất không còn phải làm trở lại nữa.

Hỏi: - Thế nào là không trở lại nữa?

Ðáp: - Các phiền não lậu hoặc không còn phát sinh đến với Ta nữa. Vì không còn phát sinh nữa nên chẳng còn tinh cần (để diệt). Như Lai đã biết rõ như vậy nên gọi là lậu-tận-trí. Vì sao? Vì Như Lai muốn khai thị cho Bà-la-môn. Ðức Phật đã đắc ba đạt-trí, trí về quá khứ, hiện tại, vị lai.

Pháp sư nói: - Có phải là chẳng nên tự xưng với lời như vậy, vì như vậy là Như Lai tự khen mình phải không?

Ðáp: - Phật vì thương mến thế gian và Bà-la-môn ... nên nói rằng Ta là thánh nhân. Ta là tối-thắng Vô-thượng-tôn, biết hết tất cả; Ta không lạy người khác.

Nghe những lời Phật giảng dạy như vậy, Bà-la-môn hoan hỷ, sám hối ngay trước Phật rằng: - Sa-môn Cù-Ðàm có những thánh lợi mỹ mãn như vậy. Con thật không biết đúng về sa-môn Cù-Ðàm là bậc đã có đầy đủ công đức.

Sau khi tự khiển trách mình và được nghe giáo pháp, Bà-la-môn khen ngợi: Lành thay! Lành thay! Con được sa-môn Cù-Ðàm chỉ dạy cho pháp vị.

Pháp sư hỏi: - Vì sao khen hai lần lành thay?

Kệ nói:

Diệt được sân, vội khen,
Ân cần mừng và sợ,
Vừa tin, vừa hối hận,
Nên nói lại hai lần.

Tại sao ở đây khen ngợi? - Nghe Phật thuyết pháp, Bà-la-môn hoan hỷ, không biết lấy gì cảm tạ nên khen ngợi.

Pháp sư nói: - Bà-la-môn đang có ý nghĩ: Pháp được Phật thuyết minh có ý nghĩa sâu xa, lời lẽ hay đẹp, khéo vào thẳng lòng người và sinh đại từ bi, rất thích thú.

Do đó, Bà-la-môn thưa với Phật: - Con như bát bị úp, nay nghe được giáo pháp của Phật dạy, cho bát ngữa ra tiếp nhận cam lộ. Như châu báu bị người lấy cỏ cây che phủ, có người chỉ cho nên biết chỗ. Như kẻ lạc đường, được người nắm tay chỉ cho đường đúng. Như trong chỗ tối tăm, có người cho đèn đuốc sáng nên thấy rõ đường đi. Con cũng như vậy.

Pháp sư nói: - Tôi sẽ giải thích vì sao Bà-la-môn nói như vậy. Tâm Bà-la-môn như bát bị úp nên không tiếp nhận được cam lộ, nay được Phật chỉ dạy làm cho nhận được. Vì sao? Như bị cây cỏ che đậy, thời gian sau Phật Ca-Diếp, tà kiến như là cây cỏ che đậy chánh pháp mà không có người chỉ bày. Ngày nay, nhờ đức Phật chỉ rõ nên mới biết được.

Người lạc đường mê. Bị ngoại đạo tà kiến dẫn đường, nên trong diệu đạo mà mê hoặc mà không thấy được thiện đạo. Ðức Phật dùng giáo pháp là bàn tay chỉ dẫn làm cho thoát ra. Như kẻ ngu si bị tối tăm không thấy rõ ba cõi. Ðức Phật ban bố giáo pháp là đèn đuốc làm cho sáng rõ. Sau khi khen ngợi, với tâm thanh tịnh, Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã thưa với Thế Tôn: - Từ nay, con xin quy y sa-môn Cù-đàm.

Quy y nghĩa là tùy theo, y chỉ; biết được Phật thì diệt phiền não.

Thứ đến quy y Pháp, quy y Tăng.

Qui y Pháp nghĩa là Pháp mà Như Lai đã từng thực hành không bị đọa địa ngục, nên người nào tùy thuận thọ trì pháp này thì không bị đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Pháp nghĩa là tiếp nhận sự thật, có nghĩa là thánh-đạo Niết-bàn. Ðạo nghĩa là pháp, như trong kinh nói: Phật bảo các Tỳ-kheo: Pháp vô lậu (Dhammàsankhata) có tám chi đạo lộ ở trên các pháp.

Pháp sư nói: - Tôi xin nói lược; có Bà-la-môn tên Xa-Ða-Ma-Na-Bà (Chattamànavaka-vimàna) ca vịnh khen Phật với bài kệ:

Pháp trừ dục, ly dục,
Bất động không sầu ưu
Thơm ngon, vượt thế gian,
Rất tốt, phân biệt rõ
Tối thượng trên các pháp,
Nên quy y pháp này.
Bố thí bậc Bốn hướng,
Nếu phân biệt có tám,
Tối thượng trong hàng Tăng,
Chứng đắc quả báo lớn,
Ai qui y nơi này,
Ðáng gọi Ưu-bà-tắc.

(ràgaviràgam anejam asokam dhamman asankhatam appatikùlam madhuram imam pagunam suvibhattam dhammam imam saranattham upehi, yattha ca dinnamahapphalam àhu catusu sucisu purisayugesu, attha ca puggaladhammadasè te, sangham imam saranatham upehi).

Bà-la-môn thưa: - Xin Phật biết cho, con đã thọ trì ba quy y.

Pháp sư nói: - Nếu giải thích ba quy y ở đâu thì càng phiền phức thêm ra, vị nào muốn biết rõ hãy tra cứu ở A-tỳ-đạt-ma Tỳ-bà-sa (papancasudani, majjhimatthakathà, Bhayabheravasuttavannanà, sumangalavilàsini, Dìghatthakathà).

Bà-la-môn thưa: - Xin sa-môn Cù-đàm biết con đã làm vị ưu-bà-tắc (upàsaka); xin ngài gọi con là Ưu-bà-tắc.

Hỏi: - Ưu-bà-tắc là gì? Ai là ưu-bà-tắc? Ai không phải là ưu-bà-tắc? Có giới nào là ưu-bà-tắc Có tâm nào là ưu-bà-tắc? Vì sao được gọi là ưu-bà-tắc? Vì sao không được gọi là ưu-bà-tắc?

Pháp sư nói: - Ý nghĩa này rất nhiều, không thể nói hết ở đây, hãy xem ở Tu-đà-ny Tỳ-bà-sa (papancasudani, majjhimatthakathà).

- Từ nay về sau cho đến trọn đời, con không theo vị đạo sư khác, xin Phật biết rõ cho. Nếu có người dùng dao chém đầu con để sai khiến con nói nghịch lại Phật Pháp Tăng thì con cũng không bao giờ nói như vậy dù phải bị rơi đầu xuống đất.

Ðem cả thân mạng tùy thuận Như Lai, muốn cúng dường nên Bà-la-môn thưa: - Xin đức Như Lai nhận lời mời của con, tiền an cư ba tháng mùa hạ cùng chúng Tỳ-kheo tại vùng Tỳ-lan-nhã. Con đã là vị ưu-bà-tắc, xin Như Lai thương tưởng con, nhận lời con mời an cư tại Tỳ-lan-nhã.

Như Lai im lặng nhận lời.

Pháp sư hỏi:- Vì sao Phật không đáp lời mời của Bà-la-môn.

Ðáp: - Ứng với cách trả lời bằng thân hay miệng của thế gian, Thế Tôn đáp bằng tâm chấp nhận vì lân mẫn Bà-la-môn.

Câu: Biết rõ Phật nhận lời.

Hỏi: - Thế nào là nhận lời?

Ðáp: - Nếu không nhận lời thì sẽ đáp lại bằng thân hay lời nói. Thế Tôn im lặng với nhan sắc vui vẻ nên biết rõ Ngài nhận lời.

Bà-la-môn rời chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh ba vòng, làm lễ Phật khắp bốn hướng rồi từ giã. Chắp hai tay để trên đầu, đi lùi đến khi không còn thấy Như Lai, ông ta lại làm lễ lần nữa rồi mới đi hướng về phía trước.

Khi ấy, tại vùng Tỳ-lan-nhã bị đói kém nặng đúng vào thời gian đức Phật nhận lời tiền an cư ba tháng của Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã.

Ðói kém nghĩa là thức ăn uống bị khan hiếm. Nếu người không có tín tâm rất thanh tịnh thì dù có thức ăn uống họ cũng không cho, cũng gọi là khan hiếm. Vùng Tỳ-lan-nhã không phải như vậy, vì hoa màu ngũ cốc không kết hạt.

Hỏi: - Hai nghi nghĩa là gì?

Ðáp: - Hai nghi là hai loại tâm nghi.

Hỏi: - Hai loại tâm nghi là gì?

Ðáp: - Tâm nghi nghĩa là về sự khất thực trong ba tháng hạ này, nghi ngờ chẳng biết được hay không, hoặc nghi có thể sống được hay không. Ðây là hai loại tâm nghi ngờ.

Xương trắng (setatthika) nghĩa là người bần cùng hạ tiện không xin ăn được bị chết đói nên bỏ thây ngổn ngang khắp nơi. Có nơi còn nói ngũ cốc không trổ hoa kết hạt thì bạc trắng như xương, nên gọi là xương trắng. Như cây thẻ. Khi lúa vừa trổ đòng đòng bị hạn hán thân gốc thẳng đơ như cây thẻ, nên gọi là thẻ. Có thuyết nói khác, khi đói kém dùng thẻ để mua thức ăn uống nên gọi là thẻ. Vì sao? Khi đến chợ, kẻ mạnh vào được, người yếu không chen được thì kêu la bên ngoài. Thấy những người yếu như vậy nên người bán gạo sinh tâm bình đẳng, mở cửa cho vào và để ngồi theo thứ tự, nhận chi phí (để mua của họ) trước, sau đó đưa gạo. Họ đếm bằng thẻ tùy theo số lượng người nhiều ít. Các Tỳ-kheo suy nghĩ: Trong lúc đói kém này phải tính toán bằng thẻ.

Các Tỳ-kheo đi qua bảy tám tụ lạc nhưng chỉ được cho chút ít hay không được chút lương thực nào cả.

Khi ấy, có đoàn buôn từ phương Bắc, đem theo 500 con ngựa, định đem về Nam bán vì sẽ có lãi đến hai ba lần. Ði qua các nước, tuần tự họ đến vùng Tỳ-lan-nhã và ở lại bốn tháng mùa hạ.

Hỏi: Vì sao đoàn buôn ngựa không đi tiếp mà ở lại bốn tháng?

Ðáp: - Vì trời mưa nhiều, đường ngựa đi không thông nên lập trại ngựa và làm nhà với hàng rào vây quanh ở ngoại thành.

Khi các Tỳ-kheo đến chỗ đoàn buôn để khất thực, mỗi người được năm thăng lúc ngựa.

Hỏi: - Họ cho các Tỳ-kheo lúa vì có lòng tin hay không?

Ðáp: - Vì lòng tin. Hàng ngày vào tụ lạc, người buôn ngựa thấy các Tỳ-kheo đi khất thực trở về với bát không. Thấy vậy, người buôn trở về kể lại sự việc này cho đồng bạn nghe. Họ suy nghĩ: Các Tỳ-kheo khất thực thật cực khổ nhưng không được gì cả, hãy cùng nhau tính toán xem, nếu đoàn buôn chúng ta cung cấp các vị ấy (bằng khẩu phần) hằng ngày e rằng phần ăn sáng của chúng ta bị thiếu hụt vậy nên giảm phần ăn của ngựa, mỗi con năm thăng để cho các Tỳ-kheo. Ðược phần lúa ngựa này, họ không còn mệt nhọc nữa mà ngựa của chúng ta cũng không hại gì.

Sau khi tính toán như vậy, đến gặp các Tỳ-kheo, sau khi làm lễ, các thương khách thưa: - Các đại đức! Xin nhận phần lúa ngựa của chúng con. Hàng ngày mỗi người được năm thăng và thực phẩm tạp khác, tùy ý các ngài làm thức ăn.

Do đó, trong luật có nói: - Hàng ngày, vào buổi sáng các Tỳ-kheo mặc y mang bát đi khất thực lúa.

Hỏi: - Buổi sáng là gì?

Ðáp: - Từ sáng sớm đến giữa trưa là buổi sáng.

Mặc y phục nghĩa là dùng ca-sa che thân. Ði khất thực (pindapàta) nghĩa là khất thực ở vùng Tỳ-lan-nhã không được, phải đi qua các tụ lạc nhưng không có ai đón tiếp.

Mang lúa trở về chùa (patthapatthapulakam àràmamharitvà) nghĩa là sau khi đi khất thực khắp nơi, được lúa đem về, họ phải tự bỏ vào cối giã ra để dùng. Tỳ-kheo già không có tịnh nhân, lại không có người khác làm hộ, phải đích thân giả nát ra làm cơm. Có khi tám đến mười vị cùng làm, rồi chia nhau dùng. Nhận lấy phần của Như Lai, hiền giả A-Nan chà vỏ bằng tay. Với trí tuệ của mình, A-Nan làm thức ăn rất thơm ngon, có cả chất cam lộ của chư thiên cho vào.

Sau khi dùng thức ăn này, đức Phật nhập chánh định và sau đó không phải khất thực nữa.

Hỏi: - Khi ấy, đại đức A-Nan có hầu Phật không?

Ðáp: - Có.

Sau khi rời khỏi gốc cây Bồ đề, trong hai mươi năm, thị giả của Phật không phải một vị. Khi thì đại đức Na-Già (Nàgasamàla), hoặc đại đức Na-Kỳ-Ða (Nàgita), hoặc đại đức Di-Kỳ-Da (Meghiya), hoặc đại đức Ưu-Bà-Già (Upavàna), hoặc đại đức Sa-Già-Ða (Sàgata), hoặc đại đức Tu-Na-Ma-Ða (Sunakkhatta Licchaviputta). Các vị đại đức này tùy ý làm thị giả, vui thì đến, không vui thì đi, có khi đi luôn.

Ðại đức A-Nan đến hầu, hỏi: - Trong nước bị đói kém, tại sao không có người nào làm công đức bằng cách chia bớt một phần thức ăn nhỏ để cúng dường chúng tăng; lại có Bà-la-môn thỉnh Thế Tôn tiền an cư ba tháng mùa hạ nhưng lại không cúng dường.

Tại sao? Vì bị thiên ma (mara) Ba-tuần che khuất trong một do-tuần, làm cho nhân dân không có chí tâm cúng dường. Sau khi che khuất, ma bỏ đi.

Hỏi: - Như Lai không biết hay sao?

Ðáp: - Lành thay! Vì Phật muốn chế giới thuyết pháp.

Phật bảo A-Nan: - Người lành các ông đã làm việc thù thắng rồi, các Tỳ-kheo trong tương lai sẽ tìm gạo trong lúa.

Pháp sư nói: - Tôi chưa hiểu được ý nghĩa này. Vậy là Như Lai nói như thế này: - Này A-Nan! Người lành các ông trong lúc đói kém, khất thực khó khăn mà biết tri túc để hộ trì chánh pháp; thế nên gọi là thắng. Trong lúc đói kém mà chế ngự được tâm tham nên gọi là thắng. Trong những tụ lạc khác ngũ cốc đầy đủ, hoa quả thơm ngon rất nhiều mà họ không đi đến. Trong chúng cũng không có người nào suy nghĩ sân hận hay nói ra lời thán oán: Tại sao phải ở đây, tại sao Thế Tôn không đi đến những nơi kia để dễ có thức ăn uống? Hoàn toàn họ không có nói lên lời này và cũng không oán hận. Vì sao Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã thỉnh chúng ta an cư ở đây mà không cúng dường? Họ lại không có tâm xấu suy nghĩ mong cầu lợi dưỡng ở nơi khác, cùng không khen ngợi nhau rằng người này đắc đạo để mọi người biết với hy vọng cúng dường bằng những lời như vậy. Họ đều im lặng bớt ăn, nhất tâm sống y chỉ theo Phật, nên gọi là thắng.

Hỏi: - Họ có biết ma ngăn che không?

Ðáp: - Biết.

Hỏi: - Vì sao Như Lai không đến an cư ở thành Vương xá hay các nước khác mà đến nơi này?

Ðáp: - Nói gì đến thành Vương xá, dù đi đến vùng Uất-đơn-việt (Uttarakuru), hay cõi trời Ðao-lỵ (Tidasapura), ma vương cũng sẽ đến ngăn che, không thể tránh né. Vì sao? Trong năm này ma ương rất tức giận, Như Lai đã quán sát khắp, chỉ có thể nhờ vào người buôn ngựa ở Tỳ-lan-nhã để an cư.

Hỏi: - Ðã ngăn che người khác được, vì sao ma vương không ngăn che người buôn ngựa để làm cho Phật và chúng tăng không có lương thực?

Ðáp: - Cũng có thể ngăn được, nhưng sau khi ma vương đi rồi, đoàn buôn ngựa mới đến, thế nên không bị ngăn.

Hỏi: - Tại sao ma vương lại không ngăn đoàn buôn ngựa?

Ðáp: - Không thể ngăn khắp hết được.

Pháp sư nói: - Có bốn trường hợp, ma không thể ngăn chận. Một, cúng dường vào buổi sáng; Hai là thuốc thang không thiếu; Ba là tuổi thọ của Như Lai; Bốn là ánh áng của Như Lai. Ánh sáng của nhật nguyệt và phạm thiên chiếu đến chổ Như Lai thì mất tác dụng. Thế nên, ma vương dùng các phương tiện nhưng không thể ngăn che được.

Lúc nọ, Phật nghe tiếng giả cối vì sau khi được lúa đem về, các Tỳ-kheo giả trong cối nên có tiếng. Biết rõ nhưng Phật cố hỏi.

Biết mà không hỏi hay biết mà cố hỏi nghĩa là khi biết có nhân duyên lợi cho chúng sinh nên Phật cố hỏi; bằng không lợi ích thì biết mà cố ý không hỏi.

Hỏi đúng lúc nghĩa là nếu cần hỏi phải hỏi đúng lúc. Không hỏi nghĩa là Như Lai biết phi thời nên không hỏi. Có nghĩa thì hỏi, không có nghĩa thì không hỏi. Hỏi có hai trường hợp: Một là vì muốn thuyết pháp; Hai là vì việc chế giới khinh hay trọng cho các đệ tử Thanh-văn.

Phật hỏi: - Này A-Nan! Tiếng động gì vậy?

Ðáp: - Ðấy là tiếng các Tỳ-kheo giả gạo.

Phật dạy: - Lành thay! Lành thay! Này A-Nan ...

Vì sao Phật khen ngợi? Vì trong tương lai các Tỳ-kheo ở trong các chùa, việc ăn uống dễ có, sinh kiêu mạn nói rằng thức ăn thô dỡ hoặc chín quá, cứng quá, nát quá, chua mặn quá. Những lời nói như vậy là muốn tìm sự ngon dỡ trong thức ăn.

Phật bảo A-Nan: - Người thiện các ông nên làm nhân duyên thiện pháp cho Tỳ-kheo trong tương lai. Nhờ vào những pháp của các ông, các Tỳ-kheo trong tương lai khi được thức ăn uống dù ngon hay dỡ cũng không có ý ham hay bỏ. Ngày xưa, khi đức Pháp vương ở đời, các bậc đại A-la-hán còn ăn lúa ngựa, huống chi nay được ăn uống thế này mà chúng ta chê bai khinh bạc.

-ooOoo-

Phẩm Ðại Mục-Kiền-Liên

Khi ấy, Ðại Mục-Kiền-Liên (Mahàmoggallàna). Ðại có nghĩa là thần thông trí tuệ rất lớn trong hàng Thanh-văn. Mục-Kiền-Liên là họ (gotta). Bạch Phật nghĩa là thưa với Thế Tôn.

Hỏi: - Vì sao thưa với Thế Tôn?

Ðáp: - Sau khi xuất gia được bảy ngày, Ðại Mục-Kiền-Liên liền chứng đắc Ba-la-mật của Thanh-văn (Sàvakapàramì) lại được Thế Tôn khen ngợi là vị có thần thông đệ nhất. Vì có năng lực thần thông nên Mục-Kiền-Liên suy nghĩ: Vùng Tỳ-lan-nhã quá đói kém, các Tỳ-kheo khất thực không được nên rất cực khổ. Ta nên lật ngược đất lên lấy chất bổ trong đất cúng dường Tỳ-kheo tăng.

Tôn giả lại suy nghĩ: Nếu ta làm như vậy mà không thưa với Thế Tôn thì chính là muốn cùng sánh thần lực với Như Lai, thật trái với pháp của ta.

Sau khi suy nghĩ như vậy, tôn giả bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn! Khi mặt đất mới hình thành có chất béo bổ như bơ như mật. Lành thay Thế Tôn! Con muốn lật ngược đất lên lấy chất bổ này cúng dường chúng tăng.

Lật lại nghĩa là lấy phần dưới để lên trên. Vì sao? Vì chúng tăng vậy. Không muốn cho phép, để làm cho Mục-Kiền-Liên rống lên tiếng rống sư tử (Sìhanàda) nên Phật hỏi: - Này Mục-Kiền-Liên! Tất cả chúng sinh và thành phố làng xóm đều ở trên đất, mà đất thì không thể treo lơ lửng trên hư không, vậy làm sao ông làm được?

Mục-Kiền-Liên đáp: - Thế Tôn! Con dùng một tay hóa ra mặt đất đỡ lấy thành phố làng xóm cùng tất cả chúng sinh, còn một tay đỡ lấy chúng sinh dựa vào mặt đất.

Phật đáp:- Thôi đi Mục-Kiền-Liên (alam moggallàna).

Hỏi: - Vì sao Thế Tôn không cho Mục-Kiền-Liên lật ngược mặt đất?

Ðáp: - Vì thương xót chúng sinh phải bị sống ngược. Vì hoặc có người được, hoặc nói không, như nói rằng trú xứ, thành phố của chúng ta cùng nhau thay đổi kỳ lạ, đây không phải là thành phố, làng xóm, ruộng vườn, ao hồ của chúng ta.

Pháp sư nói: - Chỉ có thần lực mới làm được, chẳng phải người không thần lực, mà sự đói kém không phải chỉ (xảy ra) một lần, nếu gặp đói kém nữa thì có được ai như Mục-Kiền-Liên. Trong tương lai, đệ tử Thanh-văn ít có thần lực. Khi các vị này vào làng xóm khất thực, mọi người trông thấy nói: Khi Phật còn tại thế, đệ tử Thanh-văn trì giới đầy đủ nên có thần lực, gặp khi đói kém thì lật ngược mặt đất lấy chất bổ dưỡng để dâng cho chúng tăng. Ngày nay, chúng tăng trì giới không đầy đủ vì nếu giữ đầy đủ thì (có thần lực như trước) không khác. Do đó, họ không cho chút nào cả. Có kẻ còn sinh tà kiến điên đảo, khinh mạn bậc thánh. Do khinh mạn như vậy nên sau khi chết họ bị đọa địa ngục. Thế nên, Thế Tôn bảo với Mục-Kiền-Liên không nên lật ngược đất.

Sau khi đến xin Phật lật ngược đất nhưng không được, Mục-Kiền-Liên lại xin việc khác: Lành thay ...

Thế Tôn dạy: Thôi đi.

Pháp sư nói: - Tiếp theo lời lành thay như trước đã nói, hãy tự biết lấy. Nhưng có điểm nhỏ khác nhau. Ðó là Mục-Kiền-Liên muốn đưa vùng đất Uất-đan-việt vào vùng đất Diêm-phù-lỵ.

Hỏi: - Còn biển thì sao?

Ðáp: - Biển như vũng nước chân trâu, chỉ một bước là vượt qua, để các Tỳ-kheo được ăn uống như ở các tụ lạc (phong phú) khác. (Nitthità mahàmoggallànassa sìhanàdakathà).


Phẩm Xá-Lỵ-Phất.

Ưu-Ba-Ly (Upàli) muốn chứng minh căn bản của luật tạng. Khi ấy, trong sự yên tịnh, Xá-Lỵ-Phất suy nghĩ ...

Hỏi: - Thế nào là yên tịnh?

Ðáp: - Yên tịnh không tiếng động, cũng gọi là nhất tâm tịch tịnh.

(tiếp trên)... vì sao Phật pháp được tồn tại lâu dài... từ Phật Tỳ-Bà-Thi đến chỗ đáp... ý nghia các phần khác hãy tự tìm hiểu.

Hỏi: - Tại sao Xá-Lỵ-Phất không dùng thần lực của mình quán sát để biết mà lại đi bạch Phật?

Ðáp: - Không được, nếu Xá-Lỵ-Phất dùng thần lực của mình để quán sát thì biết rõ sự tồn tại dài hay ngắn của chư Phật nhưng nếu phân biệt các nhân duyên của chư Phật thì không thể thông suốt được. Ðại đức Ðại Liên Hoa nói có thể được. Vì sao? Vì có 16 loại trí của bậc thương đại A-la-hán. Nhưng theo lý này cũng không khó vì muốn y chỉ đức Như Lai, muốn biểu hiện Thế Tôn là bậc trên nên đến thưa hỏi Phật.

Phật đáp: - Này Xá-Lỵ-Phất ... (các phần sau đọc theo văn luật thì rõ).

Nhân duyên là gì? - Nghĩa này dễ hiểu.

Câu nói: Phật bảo Xá-Lỵ-Phất rằng Phật Tỳ-Bà-Thi... là lời nói đầu. Chư Phật không có biếng nhác, đối với một người, hai, ba người cho đến chúng sinh khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới mà có những tâm niệm khác nhau, như là với chúng sinh này ít nên nói lược, chúng sinh này lớn nhiều nên nói rộng, cũng không thuyết pháp một cách cao thấp mà chỉ thuyết pháp một cách bình đẳng cho tất cả. Như sư tử vương bảy ngày đi kiếm ăn một lần, sắp bắt chúng sinh thì bất kỳ lớn nhỏ, đều rống lên trước khi bắt. Vì sao? Nếu trước khi bắt chúng sinh mà sư tử không rống lớn thì tâm khinh suất có thể sẩy con mồi. Do đó, sư tử phải rống để chúng sinh sợ hãi rồi mới bắt. Ðức Phật cũng vậy, đối với tất cả chúng sinh không kể lớn nhỏ đều được ân cần thuyết pháp. Nếu nói lược, có khi chúng sinh không chuyên tâm tu tập. Vì sao? Vì Như Lai tôn trọng pháp vậy. Hiện nay, pháp của đức Thế Tôn của ta giảng thuyết, như nước trong biển lớn chỉ có một vị; (pháp) chư Phật trong quá khứ cũng như vậy. Nhưng tâm chúng sinh khi ấy dễ dạy bảo nên chỉ thuyết một kệ để hiểu bốn đế. Vì vậy, chư Phật quá khứ cũng không thuyết nhiều về kệ pháp tu chứng phải không? [ (tasmà na vitthàrena dhammam desesum) (dhamma=sutta geyya?)].

Pháp sư nói: - Câu trước đã trình bày rồi, không nói lại nữa.

Về câu: - Không chế giới cho Thanh-văn.

Hỏi: - Tại sao chư Phật quá khứ không chế giới cho đệ tử Thanh-văn?

Ðáp: - Vì các đệ tử Thanh-văn không phạm lỗi nên (chư Phật) không chế quy định cụ thể về Ba-la-đề-mộc-xoa (ànàpàtimokkha), cũng không thuyết giới mỗi nữa tháng, cho đến sáu năm. Sau sáu năm, mới có thuyết những lời khuyên dạy về Ba-la-đề-mộc-xoa (ovàdapàtimokkha). Những lời này được Như Lai thuyết ra chứ không để cho Thanh-văn thuyết.

Khi ấy tại vườn Kiều-Ma Lộc-Dã, thành Bàn-đầu-ma-đề Vương-xá (Bandhumati ràjadhàni khemo Migadàyo), thuộc đất Diêm-phù-lỵ là trú xứ của đức Phật Tỳ-Bà-Thi (Vipassi), các Tỳ-kheo tập họp lại hết, đức Phật bố tát (Uposatha) với chúng tăng; ba người, hai người, một người cũng bố tát. Ngày xưa, đất Diêm-phù-lỵ có tám vạn bốn ngàn chùa, mỗi chùa có đến mười vạn hai mươi vạn Tỳ-kheo nhưng sống yên tịnh không ồn ào. Khi ấy, muốn nghe Phật thuyết pháp, thiên nhân phải tính toán số năm, cứ sáu năm tập họp tăng chúng một lần và họ đến gặp Phật để nghe Ngài thuyết giới. Bấy giờ, các Tỳ-kheo nào có thần lực thì tự đến, vị nào không có thần lực thì được chư thiên đến thưa rằng: Ðã đến lúc bố tát và họ chuẩn bị y bát. Nương theo thần lực chư thiên, đến giảng đường bố tát, các Tỳ-kheo làm lễ sát chân đức Phật.

Biết chúng tăng đã tập hợp, đức Phật Tỳ-Bà-Thi giảng thuyết kệ khuyên dạy về Ba-la-đề-mộc-xoa.

Nhẫn nhục đạo đệ nhất,
Niết-bàn giác tối thượng,
Xuất gia não hại người,
Không xứng danh sa-môn.
Không làm các điều ác,
Thực hành các pháp lành,
Tự thanh tịnh tâm ý,
Là lời chư Phật dạy.
Không gây phiền, nói lỗi,
Không phá hoại việc người,
Làm đúng giới được dạy,
Ăn uống biết vừa đủ,
Ít muốn với tất cả
Thường ưa nơi yên tịnh.
Là lời chư Phật dạy.

Bằng phương pháp này, tất cả chư Phật quá khứ dùng kệ này để khuyên dạy về Ba-la-đề-mộc-xoa. Tuổi thọ của chư Phật có dài ngắn nên sự giảng dạy này cũng có dài ngắn. Chư Phật từ dưới cây Bồ đề chế giới cho đệ tử Thanh-văn. Về những qui định cụ thể về Ba-la-đề-mộc-xoa này, (thường kỳ) không phải Như Lai thuyết giới mà do các đệ tử Thanh-văn thuyết giới. Thế nên, đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni của chúng ta, từ khi (thành đạo) dưới cây Bồ đề đến 20 năm sau đều chỉ giảng thuyết khuyên dạy về Ba-la-đề-mộc-xoa.

Vào một lúc nọ, tại giảng đường mẹ Mi-Già-La (Migàramàtu) ở Tăng-già-lam Phú-bà (Pubbàràma), sau khi các Tỳ-kheo an tọa, Phật bảo các Tỳ-kheo: - Từ nay về sau Ta không tác pháp bố tát, Ta không thuyết giáo giới Ba-la-đề-mộc-xoa nữa, các ông hãy tự thuyết. Vì sao? Như Lai không bố tát thuyết giới Ba-la-đề-mộc-xoa giữa chúng không thanh tịnh.

Từ đó đến nay, Thanh-văn đệ tử thuyết những qui định về Ba-la-đề-mộc-xoa. Do đó trong luật nói: Phật bảo Xá-Lỵ-Phất: - Chư Phật quá khứ không thuyết những qui định cụ thể về Ba-la-đề-mộc-xoa mà chỉ thuyết giáo giới về Ba-la-đề-mộc-xoa. Ba Phật Tỳ-Bà-Thi... không thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa nên sau khi các vị ấy nhập Niết-bàn, các đệ tử Thanh-văn cũng nhập Niết-bàn, các đệ tử Thanh-văn vào thời gian cuối cùng thì khác nhau về dòng họ, về tên, hoặc họ Cù-đàm (Gotama), hoặc họ Mục-Kiền-Liên, hoặc tên Phật Vô-Ðức, hoặc tên Ðàm Vô-Ðức. Từ đẳng cấp khác nhau (jacca), hoặc Bà-la-môn (Bràhmana), hoặc cư sĩ, hoặc sát lỵ (Khattiya), lại khác nhau về gia đình hoặc giàu, hoặc nghèo, hoặc hạ tiện. Do xuất gia từ những gia đình khác nhau, đẳng cấp khác nhau mà tu phạm hạnh, do vào chánh pháp với tên họ giòng tộc khác nhau nên họ vẫn giữ theo ý riêng của mình, không tùy thuận hoàn toàn theo Phật pháp. Do đó, Phật pháp không tồn tại lâu dài.

Hỏi: - Các Tỳ-kheo không tinh cần tu tập, nên làm cho chánh pháp mau suy tàn phải không?

Ðáp: - Các đại đức trước đây làm (như vậy) cũng đã không hay rồi, huống chi chúng ta không chịu giữ gìn pháp tạng, chính là khiến cho chánh pháp của Phật mau hoại diệt.

(Hoa) không được xỏ lại bằng tơ, có gió thổi, bị bay tứ tản. Xỏ nghĩa là kết lại. Cũng như các loại hoa nếu không được kết lại, có gió thổi thì bị bay tứ tản; Phật pháp cũng như vậy.

Về câu: Không chế giới vì trước phải dùng tâm quán sát sau mới giáo giới các Thanh-văn.

Hỏi: - Việc này nghĩa là gì?

Ðáp: - Chư Phật quá khứ, quán sát tâm Thanh-văn trước, sau đó mới giáo giới. Ðối với các Thanh-văn dễ hiểu được nghĩa lý thì Phật cũng không nói rộng.

Rừng khủng bố (bhimsanaka vanasanda) nghĩa là ai vào rừng này thì phát sinh sợ hãi.

Về câu: - Như vậy các ông hãy tư duy. Có ba tư duy mà thứ nhất là xuất gia. Câu: Các ông phải chuyên tâm tư duy thế này, đừng nên tư duy thế này nghĩa là có ba ác pháp, thứ nhất là tư duy về dục. Các ông cẩn thận chớ tư duy về pháp trên, mà phải luôn ghi nhớ trong tâm, quán sát vô thường, khổ, không, vô ngã. Tâm luôn ghi nhớ không tư duy như thế này: tư duy vô thường là thường, bất tịnh là tịnh. Các ông không nên tư duy như vậy, đây là điều các ông phải từ bỏ. Các ông phải từ bỏ các pháp ác, phải tu tập các thiện pháp, đã có thì làm cho tăng trưởng, từ đó phiền não không phát sinh và tâm được giải thoát. Do tâm không chấp thủ phiền não nên giải thoát, cũng gọi là do diệt nên không sinh (phiền não), nhờ diệt nên không còn (phiền não). Thế nên trong luật có nói: Do không (còn) sinh phiền não nên tâm được giải thoát.

Tất cả đều chứng A-la-hán. Cung như hoa sen, đồng loạt nở rộ khi mặt trời mọc.

Về câu: Này Xá-Lỵ-Phất, ngày xưa tại rừng khủng bố, người nào chưa ly dục mà vào rừng này thì dựng tóc gáy vì hiện tượng dữ tợn trong rừng.

Về câu: Xá-Lỵ-Phất do nhân duyên này.

Pháp sư nói: - Ý nghĩa câu này dễ, hãy tự biết lấy.

Không tồn tại lâu dài, Phật Tỳ-Bà-Thi sống tám vạn tuổi, chúng Thanh-văn cũng như vậy. Từ khi đức Phật ra đời, cho đến vị Thanh-văn cuối cùng, Phật pháp trú ở đời một trăm ngàn sáu vạn năm. Ðức Phật Thi-Khí (Sikhi) sống bảy vạn năm, chúng Thanh-văn cũng sống như vậy. Ðức Phật Duy-Vệ (Vessabhu) sống sáu vạn năm, chúng Thanh-văn cũng sống như vậy. Tuổi thọ hai vị Phật sau đến vị Thanh-văn cuối cùng, Phật pháp trú ở đời một trăm ngàn bốn mươi hai mười vạn năm. Do tuần tự giảm dần nên Phật pháp không tồn tại lâu dài.

Nghe Phật pháp của ba vị Phật không tồn tại lâu dài, ý muốn hỏi giáo pháp vị Phật nào tồn tại lâu dài nên Xá-Lỵ-Phất thưa: - Bạch Thế Tôn! Vì sao Phật pháp tồn tại lâu dài so với tuổi thọ chư Phật?

Ðáp: - Phật Câu-Na-Vệ (Kakusandha) sống bốn vạn năm, Phật Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni (Konàgamana) sống ba vạn năm, Phật Ca-Diếp sống hai vạn năm, Phật Thích-Ca Mâu-Ny sống một trăm năm; tuổi thọ của đệ tử Thanh-văn cũng như vậy. Thế nên Phật pháp tồi tại lâu dài, như Ta bậc Thế Tôn ngày này nếu lấy một nửa tuổi thọ Phật Ca-Diếp (Kassapa) là một vạn năm, thì có thể xuất thế, nhưng khi ấy quán sát chúng sinh các căn chưa thuần thục; cho đến tuổi thọ năm ngàn năm thì xuất thế..., cho đến tuổi thọ 500 năm thì xuất thế nhưng vẫn chưa có chúng sinh mà căn thuần thục, cho đến một trăm năm mới có chúng sinh có thể độ được. Thế nên Phật ra đời vào lúc tuổi thọ ngắn ngủi, chúng Thanh-văn đệ tử cũng như vậy nhưng Phật pháp tồn tại lâu dài. Pháp ba vị Phật trước đều diệt theo tuổi thọ (của Phật), nên gọi là không tồn tại lâu dài. Ba vị Phật sau, Phật tuy diệt độ nhưng Phật pháp vẫn còn ở thế gian, nên gọi là tồn tại lâu dài.

Khi nghe Phật dạy như vậy, muốn cho Phật pháp tồn tại lâu dài nên Xá-Lỵ-Phất bạch Phật: Cầu xin đức Thế Tôn chế giới cho các đệ tử Thanh-văn.

Như trong luật nói: Sau khi xuất định, Xá-Lỵ-Phất ... những câu sau tuần tự hiểu lấy.

Phật bảo Xá-Lỵ-Phất: - Thôi, thôi, chưa đến lúc.

Xá-Lỵ-Phất lại bạch Phật: - Thế Tôn! Cầu xin Ngài chế giới cho các đệ tử Thanh-văn.

Phật bảo Xá-Lỵ-Phất: - Thôi, thôi, pháp này không phải cảnh giới mà Thanh-văn, Duyên giác có thể biết được, chỉ có Phật với Phật mới có thể biết được, vì cấu nhiễm chưa phát sinh.

Hỏi: - Cấu nhiễm làm gì?

Ðáp: - Chỗ cấu làm cho phát sinh lỗi lầm từ hiện tại đến đời sau nên gọi là cấu nhiễm.

Về câu: Chưa chế giới cho Thanh-văn.

Hỏi: - Vì sao chưa chế giới cho Thanh-văn?

Ðáp: - Nếu chưa có hữu lậu mà Như Lai chế giới thì chúng sinh sinh ý tưởng phỉ báng rằng sa-môn Cù-đàm cũng như các đệ tử Thanh-văn đều là giòng họ quí tộc, hoặc là vương vị, mà từ bỏ tài sản, cung điện, vợ con, quyến thuộc của họ, không tiếc thân mạng, đều sống tri túc, không còn mong cầu điều gì ở thế gian, vậy sao Cù-Ðàm lại dùng giới luật Ba-la-đề-mộc-xoa để trói buộc họ. Vì ý nghĩ Cù-đàm thật chưa khéo phân biệt người thế gian nên họ nói như vậy. Nếu Ta chế giới, người thế gian cũng không có tâm kính trọng. Như thấy người mới sinh mụt nhọt, tuy có ung nhọt nhưng chưa to lớn làm mủ, thầy thuốc chưa trị bệnh giỏi đã vội phá ra. Sau khi phá, máu chảy ra lênh láng nên bệnh nhân rất đau đớn, phải dùng thuốc đắp vào vết thương mới bình phục. Thầy thuốc nói: - Ta đã trị bệnh cho ông, hãy trả công.

Bệnh nhân đáp: - Này thầy thuốc ngu si, nếu đúng ta có bệnh thì ông trị cho, nhưng ta không có bệnh lại cố phá thịt, làm cho chảy máu, khiến rất đau khổ, lại còn đòi trả công, chẳng phải là điên cuồng hay sao!

Ðối với đệ tử Thanh-văn cũng như vậy, nếu bị chế giới trước thì sinh hủy báng: Tôi không có tội sao lại bị chế giới. Thế nên Như Lai không chế giới trước.

Về câu: Nếu hữu lậu phát sinh.

Hỏi: - Thế nào là lậu phát sinh?

Ðáp: - Nếu trong chúng, có lậu phát sinh, khi ấy Như Lai sẽ chế giới cho các đệ tử, qui định về Ba-la-đề-mộc-xoa. Cũng như thầy thuốc giỏi, tùy bệnh cho thuốc để mau hết bệnh thì được ban thưởng nhiều và khen ngợi: Ðây là bậc y vương giỏi, khéo trị hết bệnh cho tôi. Như Lai cũng như vậy, tùy theo sự vi phạm mà chế giới nên họ hoan hỷ thọ trì, không có oán trách. Do đó, trong luật có nói rằng: Thôi thôi, này Xá-Lỵ-Phất! Nếu có pháp hữu lậu phát sinh, sau đó Như Lai mới chế giới.

Pháp sư nói: - Các câu khác, hãy tự biết lấy.

Trong Phật pháp, ai (vi phạm về) cho người xuất gia đầu tiên, là Ưu-Ba-Tư-Ca (upasena) con trai của Băng-Kiện-Ða (Vangantaputta). Sự chế giới này nhân vì Ưu-Ba-Tư-Ca chưa đủ mười tuổi hạ mà đã độ đệ tử và truyền cho giới cụ túc. Ưu-Ba-Tư-Na hai tuổi hạ và đệ tử một tuổi hạ. Do sự việc diễn tiến như vậy nên Phật chế giới: - Này các Tỳ-kheo, từ nay về sau, ai chưa đủ mười tuổi hạ mà được truyền giới cụ túc cho đệ tử, thì phạm tội Ðột-cát-la (dukkata).

Sau khi Phật chế giới này, có Tỳ-kheo đủ mười hạ (Vasa) hay hơn mười hạ, nhưng ngu si không trí tuệ mà lại truyền giới cụ túc cho đệ tử. Nhân đó, Phật lại chế giới, Phật bảo các Tỳ-kheo rằng người nào không có trí tuệ mà truyền giới cụ túc cho người khác, bị tội đột-cát-la.

Phật cho phép người có trí tuệ, đủ hoặc hơn mười tuổi hạ, biết cách dạy bảo thì được phép truyền giới cụ túc cho đệ tử.

Chưa có nhiều nghĩa là trong tăng chúng số lượng các vị già trẻ chưa nhiều, phóng xá cũng chưa lớn. Khi tăng chúng đông sẽ có người phạm pháp hữu lậu. Nhân đó, Như Lai mới chế giới:

- Tỳ-kheo nào cùng người chưa thọ giới cụ túc ngủ chung, quá hai đến ba đêm, Tỳ-kheo ấy phạm tội Ba-dật-đề (Pàcittiya).

- Tỳ-kheo nào mà năm nào cũng độ đệ tử thì phạm tội Ba-dật-đề.

- Tỳ-kheo ny nào mà năm nào cũng độ đệ tử thì phạm tội Ba-dật-đề.

Ðã nói rõ như vậy, ông hãy tự biết.

Ðại lợi dưỡng, nếu khi tăng chúng được lợi dưỡng nhiều thì phát sinh pháp hữu lậu, bấy giờ Như Lai sẽ chế giới:

- Tỳ kheo nào tự tay cho thức ăn uống... đến nam hay nữ ngoại đạo lõa hình (Acelaka) thì phạm tội Ba-dật-đề.

Chưa đa văn (chú trọng về văn tự) là khi trong tăng chưa có đa văn; nếu trong tăng, có Tỳ-kheo đa văn thì sinh lậu pháp. Ai dọc tụng thông suốt từ một A-hàm đến năm A-hàm (panca àgamà, samp.panca nikàya) nhưng với tâm không chân chính nên nói ra ý nghĩa điên đảo, trái với luật nói là luật, trái với pháp nói là pháp. Do đó Phật chế giới: - Tỳ-kheo nào nói thế này: Tôi đã biết rõ về pháp... (mà trái pháp luật như trên) của Phật dạy. Tỳ-kheo nào nói lời như vậy thì phạm tội Ba-dật-đề. Ðối với sa di có lời nói ấy, cũng xử như vậy. Vì sao Ta chế giới cho các đệ tử, đó là Như Lai căn cứ vào pháp hữu lậu.

Hỏi: - Thế nào là lậu?

Ðáp: - Là giặc cướp.

Hỏi: - Giặc cướp là gì?

Ðáp: - Kẻ phạm giới trong Phật pháp chính là giặc cướp.

Hỏi: - Sao gọi họ là giặc cướp?

Ðáp: - Kẻ phi sa-môn tự xưng ta là sa-môn, cướp vật dụng của bốn chúng.

Thế nên trong luật nói: - Chưa có pháp hữu lậu thì chưa có kẻ cướp này, cũng nói chưa có người phạm giới thì không có tội.

Nói không phiền não cũng gọi là không hoạn nạn. Người không phạm giới thì không bị nhiễm pháp đen (Niràdinava, apagatakàlaka). Pháp đen cũng gọi là phá giới. Nói chúng tăng không phá (giới) là cực kỳ thanh tịnh. Sống rất quang minh là sống trên đất chân thật (sàre patitthita). Ai có giới, định, tuệ, giải thoát là sống trên đất chân thật.

Pháp sư nói: - Tôi sẽ tuần tự trình bày, khi tiền an cư ba tháng hạ ở vùng Tỳ-lan-nhã, với năm trăm Tỳ-kheo mà vị chứng quả nhỏ nhất là Tu-đà-hoàn đạo (sotàpanna).

Hỏi: - Tu đà hoàn đạo là gì?

Ðáp: - Tu đà hoàn có nghĩa là dòng nước (lưu).

Hỏi: - Dòng nước là nghĩa gì?

Ðáp: - Ðạo lộ, ai đã đi vào dòng nước đạo lộ này gọi là Tu-đà-hoàn đạo. Như kinh văn nói: Phật hỏi Xá-Lỵ-Phất, Tu đà hoàn, sao gọi là Tu đà hoàn?

Xá-Lỵ-Phất đáp: - Thưa Thế Tôn! Ðó là quán thông tám đường: chánh kiến, chánh tư, chánh khẩu, chánh hạnh, chánh sinh, chánh cần, chánh thức, chánh tam muội.

Lại hỏi: - Thế nào là vị Tu đà hoàn?

Ðáp: - Người nào nhờ quán thông tám đường này nên đi đến thiện đạo, gọi là vị Tu đà hoàn, như tên như vậy, họ như vậy (nên gọi như vậy), nhân đạo lộ này mà gọi quả như vậy nên gọi là Tu đà hoàn, hãy tự biết lấy.

Pháp không đọa lạc (avinipàtadhamma). Không thể nói rằng vị Tu đà hoàn mà còn đọa lạc địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Vì sao? Vì đã đoạn trừ phiền não.

Nhờ đạo lộ này nên đi đến Bồ đề (Sambodhi paràyana) nghĩa là cả ba đạo lộ trước đều quyết định đạt đến giác ngộ, vì có đạo lộ.

Như vậy, đại trí Xá-Lỵ-Phất trả lời Như Lai xong.

Sau khi an cư ba tháng tại Tỳ-lan-nhã và tự tứ xong, Phật bảo A-Nan rằng...

- Bảo là nói bằng lời.

...nên biết là từ lâu Phật pháp đã có pháp này, tức là chư Như Lai trong quá khứ đã bảo như vậy. Vị nào đã nhận biệt-thỉnh của người khác xong thì được phép ra đi. Các Thanh-văn đệ tử khác được thỉnh hay không đều được ra đi.

Phật vì thương tưởng chúng sinh nên muốn đi đến các nước khác.

Câu: Phật đi đến các nước khác. Phật tùy ý tự tại đi lại trong ba cảnh giới (mandala) là đại, trung và tiểu.

Hỏi: - Thế nào là đại cảnh giới?

Ðáp: - Là phạm vi rộng 900 do-tuần.

Hỏi: - Thế nào là trung cảnh giới?

Ðáp: - Là phạm vi 600 do-tuần.

Hỏi: - Thế nào là tiểu cảnh giới?

Ðáp: - Là phạm vi 100 do-tuần.

Khi Phật muốn đi lại trong đại cảnh giới, thì sau khi an cư xong, vào một ngày thuộc tháng chín, cùng các Tỳ-kheo vây quanh lên đường, tuần tự đi đến từng tụ lạc để giáo hóa thuyết pháp, thọ nhận các thức ăn uống, hóa độ những người đáng được hóa độ, làm cho những người chưa được hóa độ được phúc lợi. Sau chín tháng du hành, đến ba tháng an cư mùa hạ, nếu nhiều Tỳ-kheo chưa hành pháp thiền định xong, Như Lai không đại tự tứ mà đợi tiểu tự tứ, đến ngày 15 tháng 9 Ngài lại ra đi.

Ði lại trong trung cảnh giới là du hành trong tám tháng.

Ði lại trong hạ cảnh giới là trước hết Phật quán sát có chúng sinh căn thuần thục thì ở lại, căn chưa thành thục thì ra đi, đến một ngày trong tháng 11 cùng các Tỳ-kheo vây quanh lên đường và du hành trong bảy tháng. Ngài đi khắp nơi trong ba cảnh giới này vì muốn giáo hóa để chúng sinh thoát ly phiền não, đắc bốn đạo quả. Như người hái hoa đi khắp trong núi, thấy các loại hoa nở tươi tốt thì hái mang đi, Như Lai cũng vậy. Ngài lại có Phật sự khác như sáng sớm nhập định, rồi hoan hỷ xuất thiền, dùng đại từ bi quán sát mười phương thế giới. Ai đáng được độ thì được Như Lai đến độ. Ngài lại có những Phật sự khác như có những người từ nước khác mới đến, được Như Lai thăm hỏi và thuyết pháp.

Với nhân duyên hiện nay là sắp có sự chế giới. Ðây là đạo pháp vô thượng của chư Phật.

Hỏi: - Thế nào là pháp của Thanh-văn?

Khi Phật còn tại thế, có hai trường hợp tập chúng trễ; đó là sau ngày đầu tiên nhập hạ (tập chúng) để nhận đề mục thiền định; hai là sau ngày mãn hạ an cư, (tập họp chúng) để trình sự chứng đắc. Ðây là pháp của Thanh-văn. Nhu trong luật nói: Phật bảo A-Nan, hãy cùng nhau đi đến. Ðến là chỉ cho đến Bà-la-môn biệt thỉnh. Riêng là nói với họ rằng đã an cư xong, chúng tôi đang muốn du hành đến nước khác.

Khi ấy, vào sáng sớm, Phật mặc ca-sa, chỉnh trang y phục lên đường, với A-Nan theo hầu, cùng đi đến cửa thành. Sau khi vào thành, Ngài phóng ánh sáng lớn chiếu khắp đường sá, ngỏ hẻm, nhà cửa trong thành làm cho cảnh vật trở thành như khối vàng. Với hào quang năm màu vàng rực như điện, đức Phật đi đến nhà Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã và đứng ngay trước cửa.

Thấy hào quang rực rỡ của Phật chiếu đến, mọi người vội vào báo với Bà-la-môn: - Sa-môn Cù-đàm đã đến trước cửa.

Nghe tin Phật đến, Bà-la-môn bừng tỉnh ngộ ra, vội vàng bố trí chỗ ngồi bằng nệm và đích thân ra nghênh đón, bạch Thế Tôn: Xin mời Ngài đi vào bằng lối này.

Sau đó, Phật vào nhà và an tọa. Ý muốn ngồi gần Phật nhưng không có cách nào, Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã đành đứng vòng tay hầu bên Phật.

Pháp sư nói: - Những câu sau hãy tự hiểu lấy.

Bà-la-môn bạch Phật: - Thưa Thế Tôn! Con chưa làm những điều đáng phải làm.

Pháp sư nói: - Ðây là Bà-la-môn muốn nêu lên sự việc đã hứa cúng dường Như Lai trước đây.

Bà-la-môn thưa: - Trước đây, con có thỉnh Như Lai ba tháng an cư, đúng ra hàng ngày con phải đem cơm cháo, thức ăn, trái ngọt, nước uống đến cúng dường Thế Tôn. Nhưng vì ngu si quên mất nên chưa cúng dường một chút nào chứ chẳng phải con không cúng. Con chưa được dâng cúng vì là kẻ thế tục áo trắng bận bịu nhiều công việc, lại bị sân hận ngu si chèn ép đến mê loạn làm cho con quên mất nên chưa dâng cúng.

Pháp sư nói: - Tại sao Bà-la-môn nói như vậy? Vì không biết bị ma vương làm cho mê hoặc nên ông ta tự trách mình do bận công việc của thế tục nên quên Thế Tôn. Do đó, ông ta lại suy nghĩ rằng ta thỉnh an cư Phật ba tháng để cúng dường, nhung chưa dâng gì cả, vậy ta nên dùng hết phẩm vật dự định trong ba tháng đem cúng dường trong một ngày (và thưa rằng): Cầu mong Thế Tôn thương tưởng mà nhận sự cúng dường vào ngày mai. Bà-la-môn thỉnh Như Lai xin được cúng dường trọn vẹn vào ngày mai.

Quán sát tâm ý rất hoan hỷ của Bà-la-môn, đức Phật thương tưởng suy nghĩ: Nếu Ta không nhận lời thì Bà-la-môn này sẽ sinh tâm xấu với suy nghĩ rằng: Sa-môn Cù-Ðàm vì không được cúng dường suốt trong ba tháng được thỉnh nên nay oán hận không nhận lời thỉnh của ta nữa. Do đó ông ta sẽ nói rằng Sa-môn Cù-đàm không phải là bậc Nhất thiết trí, không biết nhẫn nại; hoặc sẽ nói những lời tương tự như vậy để khinh khi Như Lai thì phải chịu quả báo của tội nặng. Do đó, ta nên nhận lời mời của ông ta.

Luật Thiện Kiến Tỳ-Bà-Sa

-Quyển thứ năm-

--- o0o ---


Chân thành cám ơn Cư sĩ Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử bộ luật này (Trang nhà Quảng Đức, 05-2002)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567