Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Quyển Thứ Tư

08/11/201413:29(Xem: 3626)
4. Quyển Thứ Tư

Mật Tạng Bộ 2 _ No.950 (Tr.211 _ Tr.220)

 

BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT

NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH

_QUYỂN THỨ TƯ_

 

 

Hán dịch: Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty_ Đặc Tiến Thí Hồng Lô Khanh_ Túc Quốc Công, thực ấp gồm ba ngàn hộ_ Ban áo tía tặng Tư Không, tên thụy là Đại Giám, tên hiệu chính là Đại Quảng Trí_Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ
 Phục hồi Phạn Chú: HUYỀN THANH

 

_PHẨM MẬT ẤN (chi khác)_

 

_Tay phải nắm ngón cái làm Quyền, gia trì năm chỗ, tên là Như Lai Giáp Ấn

 “Trong tất cả Phật Đảnh

Ấn này, oai đức lớn

Nếu lìa nơi Giáp Ấn

Hành Giả chẳng bền chắc

Như con người lõa thể

Cũng như nhà không người

Như nước không Đế Vương

Như rừng không cỏ xanh

Như ăn không bơ, muối

Như ao không có nước

Phạm Chí (Brahmāṇa) không Vi Đà (Veda)

Như tế lửa không bơ

Xe không người điều khiển

Như vậy, người tu hành

Nếu thiếu Giáp Trụ Ấn

Các Ma được dịp hại

Thảy đều chẳng thành tựu

Cẩn thận kết Giáp Trụ

Các Ma chẳng lấn bức

Mau chóng được Tất Địa”

Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, bộ, nhập-phạ la, hồng

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ  BHUḤ   JVALA  HŪṂ

“Người tu hành dùng đây

Thường gia trì thân mình

Ví như vua lâm trận

Mặc áo giáp, kiêu dũng

Như vậy, người tu hành

Mặc Giáp giống như vua

Ba thời nên hộ thân

Hay thành tất cả việc”

 

_Như Giáp Ấn lúc trước, tức gọi là Như Lai Đảnh Kế Đại Ấn, hay làm tất cả việc. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. A câu lỗ tra

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ AKṚṬ

 

_Dựa theo Đảnh Kế Ấn lúc trước, lui hợp ngón giữa, dựng thẳng ngón trỏ, để ở tai bên trái bên phải, là Như Lai Nhĩ Ấn

“Nếu thường gia ở tai

Ấn Chân Ngôn tương ứng

Tai người ấy không bệnh

Cho đến một trăm kiếp”

Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Hộc, ca

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HŪK

“Nếu có người tu hành

Đủ Nghi tu Luân Vương

Người ấy được Thiên Nhĩ

Ngôn âm được tối thắng”

 

_Tay trái như Giáp Ấn lúc trước, dựng cánh tay hướng về thân, là Như Lai Nha Đại Ấn, an ở chỗ răng bên cạnh cái miệng của mình

Phật Nha oai đức lớn

Ấn Chân Ngôn tương ứng

Người tu hành thành tựu

Chân Ngôn là:

“Úm, đát tha nghiệt đa, năng sắt-tra lê, hồng phán, sa-phạ ha

*)OṂ_  TATHĀGATA-DAṂṢṬRĪ  HŪṂ  PHAṬ  SVĀHĀ

 

_Dựa theo Giáp Trụ Ấn lúc trước, duỗi thẳng ngón giữa, co cánh tay rũ quyền xuống bên dưới, tên là Thọ Ký Ấn

“Thành biện tất cả việc

Do kết Ấn này nên

Hết thảy Phật quá khứ

Các Như Lai vị lai

Thảy đều cho Thọ Ký

Thế nên, người tu hành

Thường kết Ấn như vậy

Đắc được oai lực lớn

Nơi Phật Bồ Đề ấy

Thường được nơi Thọ Ký

Người kia thường tu hành

Cần phải chẳng phóng dật

Kết Thọ Ký Ấn này”

Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, hồng đặc-tông

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ  HŪṂ  TVAṂ

“Đại oai thành tựu nên

Người ác chẳng thể hại

Đủ tất cả cát tường

Giới, Quỹ Tắc, tinh tấn

Đủ niệm, đại cần dũng

Tất cả nơi sanh ra

Bền chặt đủ Thi La (Śīla: Giới thanh Lương)”

 

_Dựa theo Giáp Trụ Ấn lúc trước, hơi rụt ngón trỏ tại lòng bàn tay, dựng thẳng cánh tay hướng lên trên, là Như Lai Bạc Ấn, có oai lực lớn. Chân Ngôn là:  

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Bán nhạ, a hứ, phán tra, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ BHAÑJA  ĀHI  PHAṬ  SVĀHĀ

 

_Tức Ấn lúc trước an ở khoảng giữa hai cái vú, tên là Như Lai Nãi Ấn. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Bồng nga chỉ lễ phác

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ BHOGA  GṚHAḤ

 

_Tay phải đem ngón cái đè trên móng ngón giữa, ngón vô danh, ngón út. Dựng thẳng ngón trỏ, dẫn cánh tay dựng cao lên, là Như Lai Tràng Ấn. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Yết Tra

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_KAṬ

 

_Tức dùng Tràng Ấn lúc trước, rũ cánh tay hướng xuống dưới, là Như Lai Ngọa Ấn. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. A câu lỗ tra

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ AKṚṬ

 

_Dựa theo Ấn lúc trước, đem cánh tay để nằm ngang nơi ngực, là Như Lai Hành Ấn. Chân Ngôn là:  

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Hồng, nga mộng, úm

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HŪṂ  GAMĀṂ  OṂ

 

_Đem Ấn này an ở trong đầu, là Như Lai Đầu Câu Ấn. Chân Ngôn là:

Úm, mẫu la-đà nẵng nễ, sa-phạ ha

*)OṂ_ MŪRDHANANI  SVĀHĀ

 

_Tay phải đem ngón cái vịn trên móng ngón vô danh, ngón út; dựng thẳng ngón giữa ngón trỏ, là Như Lai Hiếp Ấn. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, hồng khước

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ  HŪṂ  KHAḤ

 

_Tay phải đem ngón cái đè trên móng ngón trỏ, ngón út; dựng thẳng ngón giữa ngón vô danh, là Như Lai Nhãn Ấn. Chân Ngôn là:

Nẵng mô tam mãn đà một đà nẫm. Úm, bát-ra tất địa, yết lê, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ  PRASIDDHI  KARE  SVÀHÀ

 

_Tức Nhãn Ấn lúc trước, hơi co ngón giữa ngón vô danh, là Như Lai Quang Võng Ấn. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, nhập-phạ lị ni, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ   JVALIṆI  SVĀHĀ

 

_Tay phải đem ngón cái đè trên móng ngón trỏ, dựng thẳng ba ngón còn lại rồi hơi co lại, là Như Lai Quang Diệm Ấn. Chân Ngôn là:

Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, hồng hồng ma ma, phán tra, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ HŪṂ HŪṂ  MAMA  PHAṬ  SVĀHĀ

 

_Dựa theo Quang Diệm Ấn lúc trước, duỗi ngón giữa khiến hơi co lại. Ngón út, ngón vô danh dựa theo lúc trước, là Như Lai Thần (cái môi) Ấn. Chân Ngôn là:   

Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. A a, phạ phạ, hám

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_  A  A  VA  VA  MAṂ  

 

_Tay phải đem ngón cái co vào trong lòng bàn tay, kèm giương 4 ngón còn lại, ngửa lòng bàn tay hướng lê trên , gọi là Như Lai Thiệt (cái lưỡi) Tướng Ấn. Chân Ngôn là:  

Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, nẵng la ni, bạn nhạ, hồng, phán tra, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ  DALANE  BHAÑJA  HŪṂ  PHAṬ  SVĀHĀ

 

_Ngửa hai lòng bàn tay, đem tay phải đè trên tay trái, an bên dưới rốn, là như Lai Tam Ma Địa Ấn. Chân Ngôn là:

Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, A để xá dã, vĩ yết-la di, sa-phạ ha

 *)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ   ADHIŚĀYA  VIKRAME  SVĀHĀ

 

_Dựa theo Định Ấn lúc trước, an ngang trái tim, là Nhất Thiết Như Lai Quá Khứ Vị Lai Hiện Tại Kim Cang Diệm Tâm Ấn. Chân Ngôn là:

Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Hồng, nhập-pha la, nhập-phạ la, khẩn tra-lân tổ

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HŪṂ  JVALA  JVALA  GANṬRĀṂTU

Kim Cang Thủ! Đây gọi là Kim Cang Diệm Nhất Thiết Tam Ma Địa Minh Vương không thể trái vượt. Tất cả Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà được địa vị Bồ Tát cũng không thể trái vượt, huống chi là hữu tình, bậc có oai đức khác.  

 

_Giương tay trái che ở dưới rốn, mở ngửa tay phải đè trên lưng tay trái, gọi là Như Lai Mã Âm Tàng Mật Ấn, Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, nỗ tra nỗ tra, sa phổ tra sa phổ tra, vĩ nại ra bá nễ, bát ra mạt na, thân na nễ, tần na nễ, hồng phán tra, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ DUṢṬA  DUṢṬA, SPHOṬA  SPHOṬA, VIDARA-PĀṆI  PRAMARDANA, CCHINDANA   BHINDANA, HŪṂ  PHAṬ  SVĀHĀ

 

_Tay phải nắm Quyền khiến chẳng hiện móng ngón tay, chỉ có móng ngón giữa hiện ra, gọi là Như Lai Tọa Xứ Ấn. Chân Ngôn là:  

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Ải ca lê nẵng, ca lê, hiến đà, chỉ đát lô na ra ma ni, đồ ni, sa-phạ ha”

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ EKA-LENA KARI GANDHA  CITRA-UDĀRA, MAṆI-DHĀRA  SVĀHĀ

 

_Dựa theo Ấn lúc trước, ló móng ngón trỏ ra, che da61i móng ngón giữa. Đấy gọi là Như Lai Bễ Ấn. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa mẫu đà nam. Úm, đô tha tả, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ DŪṢAYA  SVĀHĀ

 

_Dựa theo Ấn lúc trước, che dấu móng ngón trỏ, ló ra móng ngón vô danh. Đấy gọi là Phật Từ Tam Ma Địa Ấn

“Hay sanh Tâm Đại Từ (Mahā-maitra)

Hành giả trụ Từ Định (Maitra-samādhi)

Vì Hộ trì người ấy

Thế nên Như Lai nói

Đại Chân Ngôn Vương này

Thương xót các hữu tình

Sư tử, giặc đáng sợ

Trong đấu tranh bức bách

Chiến đấu nơi đáng sợ

Nên tụng Phật Từ Minh

Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Ma ha mỗi để lý-da, vĩ hạ lý nam (1) một đà mỗi để-lâm, nẵng ma tả minh (2) tam mẫu đát-ba ninh, bà da nẵng kê (3) ca la, hề   vĩ nghiệt-la, hề chế phạ (4) xả đốt-lỗ nan giả, ba la nhạ duệ (5) dã da, ma la mạt-lam, bà nghiệt nam (6) sa tái nễ-dã, ma la phạ hạ nam (7) đa na hàm, chỉ la đái-đa dĩ sử-dã minh (8) vĩ niệm tát phạ la-tha, sa địa kiếm (9) dã na-ma mạt-lam, tát phạ một đà nam (10) la-hạt đan giả, bỉ dã na ma mạt-lam (11) tát đạt ma tả giả, đế thệ nẵng (12) tát tông na thế minh, bá ba kiếm (13) đát nễ-dã tha (14) câu chưng nghĩ nễ (15) câu chưng nghĩ nễ (16) áng câu lý (17) mãng câu lý (18) ma lợi chế ba la nẵng (19) xả phạ lý (20) la khất-sái, la khất-sái, hàm (21) câu ma lý (20) thất-lý ma lý ninh (23) sa-phạ ha (24)

“Đây là Phật Từ Ấn

Tự Thể chư Phật

Nếu hay thường nhớ niệm

Hành Già làm nghiệp Thiện

Mọi kẻ khó điều phục

Muốn hại, gây chướng nạn

Mau chóng khởi Tâm Từ

Do oai lực Minh này”

 

_Liền dùng Ấn lúc trước, ấn móng ba ngón: trỏ, giữa, vô danh; ló móng ngón út, là Như Lai Vô Cấu Ấn. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Hồng. mẫu ra đà ninh, hộ lỗ, hồng phán tra, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HŪṂ  MŪRDHANE  HURU  HŪṂ  PHAṬ  SVĀHĀ

 

“Khi Hành Giả khiết thực (ăn uống)

Dùng Minh này gia trì

Trước tụng, sau đó ăn

Thsa6n tịnh, thịnh sức lửa

Các tội đều trong sạch

Đắcđược không ngăn ngại

Ở lúc ăn, hết thảy

Các chướng nạn dấy lên

Thảy đều khiển trừ hết

Dùng Phật Vô Cấu Ấn

 

_Dựa theo Ấn lúc trước, ẩn móng ngón út ấy, ló móng ngón cái ra, gọi là Như Lai Cam Lộ Ấn. Do kết Ấn này cho nên hay được Minh giải thoát. Như Lai Cam Lộ Chân Ngôn là:  

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, ấn nghĩ ninh, bộ đa ninh, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ AṄGAṆA  PŪTANA  SVĀHĀ

 

_Hai tay đều đưa ngón cái vào lòng bàn tay, nắm chặt lại làm Quyền, đem hai Quyền hợp nhau, gọi là Như Lai Sư Tử Hống Ấn

“Mọi loại việc kỳ đặc

Ý mong cầu đều làm

Do trì Đảnh Luân Vương

Hay thành biện tất cả”

Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, kiếp tì la, nhạ trí ra, hồng phán tra, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ KAPILA  JAṬILA  HŪṂ  PHAṬ  SVĀHĀ

 

_Chắp hai tay lại, giữa trống rỗng (hư tâm hợp chưởng). mười ngón tay bên phải đè bên trái trợ cài chéo nhau, gọi là Cát Tường Ấn cũng có tên là Sa-phạ sa-để ca Như Lai Cát Tường Ấn, hay thành tướng Đại Nhân.

Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Từ

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ JI

 

_Liền dùng ngay Ấn này

Đều mở mười ngón tay

Hợp ngón út, ngón cái

Còn lại đều hơi co

Ấn đấy như hoa sen

Tên là Liên Hoa Ấn

Như Lai Cát Khánh Ấn

Được Phước Đức, nghĩa lợi

Được phước vua, Phước khác

Phước hữu tình Địa Cư

Liền thành Đại Cát Tường

Hành Giả chẳng nên nghi”

Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, tô mạt-lộ hám-di, la khất-sái-minh, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ SUBRAHME  LAKṢMI   SVĀHĀ

“Thành tựu Phước chẳng hư

Được phước đức Đại Vương”

 

_Dựa theo Ấn lúc trước, như hoa sen chưa nở, nên kết ngang trái tim, tên là Bát Nhã Ba La Mật Ấn

“Minh này, oai đức lớn

Là mẹ tất cả Phật

Thường nói các Phật Đạo

Quá, hiện với vị lai

Tất cả các Phật Mẫu

Ấn đấy, oai lực lớn”

Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, du lỗ để, sa mật-lý để, vĩ nhạ duệ, sa-phạ ha

 *)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ ŚRŪTI  SMṚTI  VIJAYE  SVĀHĀ

Kim Cang Thủ! Bát Nhã Ba La Mật Minh này. Tất cả Phật, Bồ Tát, Bích Chi, Thanh Văn trong quá khứ, hiện tại, vị lai… tất cả đều tu Bát Nhã Ba La Mật, được thành Phật Thế Tôn đều từ Bát Nhã Ba La Mật sanh ra, đều tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thảy đều chứng Đại Bồ Đề.

 

_Dựa theo Ấn lúc trước, co song song hai ngón cái vào lòng bàn tay, là Như Lai Đại Bi Ấn, Chân Ngôn là:  

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, đát-lăng nghĩ ninh, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ TĀRĀṂGIṆI  HŪṂ  PHAṬ  SVĀHĀ

 

_Liền dùng Ấn lúc trước, đều co ngón cái vào lòng bàn tay, đều khiến trụ dính bên dưới gốc ngón út, đấy là Như Lai Tất Ấn. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, na-bộ nghĩ ninh, bát-ra niệp bả-đá, sa-phạ ha

 

_Dựa theo Tất Ấn lúc trước, đem hai ngón cái đều trụ ở gốc ngón vô danh, đấy gọi là Như Lai Khõa Ấn. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. A đát-lê, đát-lê, ốt đát-lê, phộc nhật-ra, mẫu khất-sử ni, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ A_ TĀRE  TĀRE  TUTTĀRE, JVALA  MOKṢAṆE  SVĀHĀ.

 

_Dựa theo Khõa Ấn lúc trước, đem hai ngón cái trụ dưới gốc ngón giữa, gọi là Như Lai Túc Ấn. Chân Ngôn là:

“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, phạ nhật-ra, thương câu la, bộ sử đế, na ra, nhập-phạ la, hồng, sa-phạ ha

*)NAMAḤ  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ VAJRA  SAṂKULA  BHŪṢITE  DHARA  JVALA  HŪṂ  SVĀHĀ.

 

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Kim Cang Thủ! Nhóm Đại Ấn này từ thân phần của tất cả Như Lai tuôn ra tướng Đại Trượng Phu trang nghiêm

Này Thiện Nam Tử! Nhóm Ấn đó là điều mà tất cả Như Lai đã nói, mỗi một Ấn dùng trăm ngàn câu chi Ấn làm quyến thuộc, đều từ chi phần của Như Lai sanh ra. Ở thời Mạt Pháp sau này, hữu tình ít Tuệ chẳng thể giết hết Phước Lợi ấy”

Nói Già Tha (Kệ Tụng) là:

“Nếu thành Minh Vương này

Vì lợi ích ấy nên

Nay Ta sẽ lược nói

Ông cần phải thọ trì

Khiến được rộng lưu bày

Ấn đó tên Đại Ấn

Có sức oai thần lớn

Khiến hữu tình Mạt Pháp

Tu trì nơi Thiện Phẩm

Nếu nhóm nam nữ thiện

Thường hay kết Ấn này

Gia trì nơi thân mình

Thành tựu Đại Chân Ngôn

Nhóm Luân Vương Phật Đảnh

Sẽ được vô lượng Phước

Rồi được trăm ngàn loại

Tất cả tội đều diệt

Tất cả Phật Bồ Tát

Thương xót đều yêu nhớ

Thường được Túc Mạng Trí

Các Căn đều tròn đủ

Tâm cũng chẳng sai lầm

Tất cả các nhóm Phật

Thảy đều cùng nhiếp thọ

Thọ mạng được lâu dài

Xa lìa các bệnh tật

Khiến chúng sanh tỏ rõ

Tế độ các nẻo ác

Thông Tuệ, đủ tinh tấn

Oai Đức thường cần dũng

Sẽ sanh vào Thắng Tộc

Đủ các kỹ nghệ khéo

Hay chữa các bệnh tật

Nay Ta chỉ lược nói

Tất cả Phật gia trì

Liền thành Đại Trượng Phu

Nếu thường trì Đại Ấn

Thường ở ngay thân mình

Xưng tên mà thọ trì

Xa lìa các chướng nạn

Các tội đều tiêu diệt

Các Phật Đảnh đều thành

Chứng được thân Như Lai”

Này Kim Cang Thủ! Tất cả Pháp kết Ấn Tướng của Đại Ấn chân thật của Như Lai Tộc, vì lợi ích cho hữu tình thuộc Phật Đảnh Bộ, nên nay Ta, Thích Ca Mâu Ni tuyên nói”

 

Bồ Đề Tràng Sở Thuyết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Kinh

CÁC PHÁP THÀNH TỰU

_PHẨM THỨ CHÍN_

 

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quán sát Đại Chúng, vì hữu tình đời vị lai bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Đời đương lai sau này: Hữu tình biếng nhác lười biếng, chẳng tin tấn nơi Thiện Pháp, không có nhàn rỗi, nhiễm dính tham ái, chẳng thể đối với Nguyện rộng lớn mà cầu thành tựu, thương xót, lợi ích cho hữu tình ấy. Hoặc Bà La Môn sanh ở Thắng Tộc, hoặc người thuộc Tộc Tính của Sát Lợi có niềm tin trong sạch với phát Tâm Bồ Đề, người yêu thích tu Chân Ngôn lợi ích cho nhóm hữu tình như vậy thì Ta vì họ lược nói Chân Ngôn Minh Vương, Công Đức của Phật Đảnh Chuyển Luân hay đập tan tất cả Trời, Rồng, Dược Xoa, A Tô La… điều phục hữu tình cũng hay khiến chết, khiến khô héo, khiến xua đuổi, khiến ghét ác, khiến cấm chỉ, khiến hư hoại, khiến đập tan… Tất cả Phật Bồ Tát đã khen ngợi Thần Lực oai đức lớn, khiến làm Tam Ma Địa không có gì so sánh bằng để tu hành, khiến siêu việt tất cả Ma Đạo, hiện bày tượng sắc hình của Thiên Trung Thiên Phật. ở vô lượng kiếp chẳng thể nói Đại Giáo Vương này, vô lượng trăm câu chi kiếp chẳng thể nói hết bờ mé của Công Đức ấy. Nay Ta lược chút phật mà nói. Kim Cang Thủ hãy lắng nghe! Khéo lắng nghe! Rất khéo lắng nghe! Tác ý cho thật khéo!”     

Khi ấy, Đức Phật nói Già Tha rằng:

“Ta nói phương tiện khác

Tất cả Phật đã nói

Lợi ích các hữu tình

Ở trăm nhiều vô lượng

Là nơi các Như Lai

Cũng đều nói như vậy”

 Nếu có người vừa mới tụng Chân Ngôn Vương này thì lìa được tất cả sợ hãi. Nếu hay thường tụng thì tất cả Ma thảy đều xa lìa. Tất cả tội, tất cả việc làm ác đều được tiêu diệt.

Như trên đã nói vẽ tượng, tùy ở trước mặt một Tượng, ba thời tắm gội, ba thời thay áo, ba thời dùng Nghi Quỹ tương ứng, tụng 26 lạc xoa biến. Sau khi biến số kết thúc, từ ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt bắt đầu, một ngày tụng 1008 biến cho đến khi trăng tròn đầy. Lấy hoa Tô Ma Na kết làm cái trướng, dùng Đàn Hương xoa tôn Mạn Đà La khoảng ba khuỷu tay. Dùng mọi loại hương xoa bôi, hoa, hương đốt, thức ăn uống. Dùng bơ làm đèn, thắp một ngàn chén đèn.

Vào ngày trăng tròn đầy của kỳ Bạch Nguyệt, có Tỳ Xá Khư (Viśākhā: Đê Tú) trực, kết Kim Cang Già Phu niệm tụng, cho đến khi hiện ra bốn loại tướng là: tiếng sấm trong mây (vân lôi thanh), trong Đạo Tràng: phan hoa lay động, tượng Phật phát ra ánh sáng, tượng Phật lay động. Thấy tướng như vậy thì nơi vật thành tựu ở bên trong, liền được thành tựu.

 

Nếu tụng một câu chi biến liền thành Tiên Hành, tụng hai câu chi biến thành Đại Tiên Hành, tụng ba câu chi biến hay thành biện tất cả việc, tụng bốn câu chi biến thì tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tô La, Ngiệt Lộ Trà, Khẩn Na La, Ma Hô La Già… đều được nhiếp phục, thành Đại Tất Địa.

Ở bên bờ sông Hằng, hoặc ở bờ biển, làm Tốt Đổ Ba (cái tháp) khoảng một gang tay của Đức Như Lai. Ở trước mỗi một Tốt Đổ Ba, đem hương hoa cúng dường, tụng 7 câu chi biến, tức cái tháp cuối cùng phóng ánh sáng. Phóng ánh sáng xong, ánh sáng ấy nhập vào thân của Hành Giả rồi ẩn mất, tức trong khoảng sát na, ở tất cả Thế Giới không có một hữu tình, Dược Xoa nào ngang bằng với người ấy được.

“Thiên Đế Thích mau đến

Phạm Thiên và quyến thuộc

Với Lạc Biến Hóa Thiên

Với Hóa Tự Tại khác

Tịnh Cư, Cứu Cánh Thiên

Kèm bậc oai đức lớn

Sát na tụ tập đến

Nơi người thành tựu ấy

Hết thảy các Trời, Rồng

Cảm hóa khiến điều phục

Khoảng sát na, Trời ấy

Tuôn mưa mọi loại hoa

Cho đến ngục Vô Gián

Thảy đều được trong mát”

 

Bấy giờ, người tu hành, khoảng sát na thì Chế Để (Caitye: tháp miếu) của Đức Như Lai phóng ánh sáng, sau đó thân của mình thành Đại Oai Đức, thành Đại Thần Thông. Ở trong Trời, ánh sáng oai đức như màu vàng đúc, dung mạo như tướng Đồng Tử 16 tuổi, được tất cả Như Lai nhiếp thọ, được Đại Trí Tuệ, tùy Ý Thân Thông như ý mau chóng như cơn gió, ánh sán g của thân lất át các Thiên Chúng khác.

Nếu có người nhìn thấy người thành tựu ấy, hoặc người thành tựu nhìn thấy kẻ kia thì thảy đều cùng nhau bay trên hư không, làm Đại Trì Minh Tiên Vương dùng vô lượng trăm ngàn Trì Minh (Vidya-dhāra) làm quyến thuộc, du lịch vô lượng Thế Giới, dùng ánh sáng của thân chiếu sáng tất cả người thành tựu.

Vừa mới suy nghĩ thì tất cả thảy đều thành biện, đi đến chỗ của Đế Thích thì được Đế Thích chia cho nửa tòa ngồi. không có ai ngang bằng được. Dung mạo dũng kiện, Trí Tuệ, oai đức không có ai ngang đồng được. Do nhân duyên này, đắc được phương tiện khéo léo của Bồ Tát, điều phục hữu tình đắc được khéo léo, trụ ở vô lượng Đại Kiếp thấy vô lượng Đức Phật hiện ra ở đời.

“Ở trong, Phật hiện ra

Đại Bất Tư Nghị ấy

Người Trời đều cúng dường

Đắc được thân tinh tấn

Trí Tuệ cũng như thế

Thần Thông cứu hữu tình

Ngang đồng Phật Luân Vương

Tu trì Thắng Chân Ngôn

Đều trừ diệt các tham

Đắc được Nhân Trung Tôn

 

Bí Mật Chủ! Tu hành phương tiện này, có Đức Như Lai tên là Bảo Hỏa từng làm thân người, với Bảo Tràng Như Lai, Quang Minh Tự Tại Vương Như Lai… vô lượng Như Lai của nhóm như vậy đều được thành tựu. Quán Tự Tại Bồ Tát, Bất Động Bộ Siêu Việt Bồ Tát, Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát… vô lượng Đại Bồ Tát của nhóm như vậy khi làm thân người thời đắc được thành tựu, cầu Đại Bồ Đề

Bí Mật Chủ! Như ông khi làm thân người thời từng tu Phật Nhãn Đại Minh này. Dùng Khổ Hạnh khó hành, dùng đại tinh tấn đắc được thành tựu. Vì thương xót Thế Gian cho nên Đức Kim Cang Tràng Như Lai hiện ra ở đời, khi Chánh Pháp mạt, lúc rất đáng sợ (đại bố úy)…như vậy Chân Ngôn Vương này đối với Vô Thượng Bồ Đề thì người có quyết định bền chắc được thành tựu.

_Nay Ta lại nói thành tựu sự nghiệp khác. Tùy chọn lấy một Tượng, ở trước tượng tụng 10 lạc xoa biến, Khi niệm tụng kết thúc thời vào ngày trăng đầy, một ngày một đêm chẳng ăn, đem hạt cả trắng (bạch giới tử) để ở trong nước, tụng 1008 biến, rưới vảy mười mười phương, liền thành kết Mạn Trà La Giới.  

Ở trước tượng, dùng mọi loại thức ăn uống cúng dường rộng lớn, ở trên lá sen để Ngưu Hoàng hoặc Hùng Hoàng, ngồi Kiết Già, hộ thân, gia trì vào thuốc niệm tụng, cho đến khi thành tựu ba tướng. Nếu hiện tướng ấm áp thì tất cả chúng sanh được điều phục, quy kính. Hiện tướng khói thì thành tựu An Đát Na. Nếu hiện tướng ánh sáng, lấy xoa bôi trên thân thì thân sáng như mặt trời mới mọc, hiện tướng 16 tuổi, tóc cuốn xoắn như vỏ ốc màu xanh biếc, có vô lượng Trì Minh Tiên vây quanh, liền thành Đại Trì Minh Tiên, sống lâu một Đại Kiếp

Phần Bạch Nguyệt của tháng Thần Thông (tháng 1, tháng 5, tháng 9): ba thời tắm gội, ba thời thay áo, y theo Nghi Quỹ ba thời tỏ bày Sám Hối, Tùy Hỷ, Khuyến Thỉnh, Phát Nguyện, Hồi Hướng. Một thời riêng tụng 1008 biến cho đến đêm trăng tròn đầy, một ngày một đêm chẳng ăn. Liền chọn lấy Ứng Lượng Tỳ Nại Gia (Vinaya: Giới Luật) của Bật Sô đã nói: tạo làm cái bát, Cà Sa, Tích Trượng… tùy chọn lấy một việc, một ngàn Tam Ba Đa (Samāpta: thành tựu, kết thúc) Hộ Ma. Ở trước  tượng làm mọi loại cúng dường rộng lớn, chọn lấy vật đã thành tựu để ở trong Đàn, hộ vật ấy, niệm tụng cho đến khi phát ra ánh sáng. Nếu là áo Cà Sa với Tăng Già Lê liền mặc vào. Cái bát với tích trượng liền dùng tay cầm nắm, tức liền bay lên hư không, thành Trì Minh Tiên, dạo đến cõi nước Phật khác, hay làm đại biến hóa, sống lâu một Đại Kiếp.

_Lại dùng lượng một gang tay của Đức Như Lai, làm ba mươi vạn cái Tốt Đổ Ba (cái tháp). Cịn một cây kiếm không có tỳ vết. Tùy chọn lấy một Tượng, trước tiên vào phần Bạch Nguyệt của tháng Thần Thông: ngày 8 hoặc ngày 15 làm Tam Ba Đa Hộ Ma, gia trì vào cây kiếm, ở trước tượng cúng dường rộng lớn, ngồi trên cái chiếu cỏ tranh. Dùng tay phải cầm cây kiếm mà trì niệm tụng, cho đến khi trong hư không phát ra tiếng, nói lời này “Đã thành tựu”. Sau đó, tượng ấy phóng ánh sáng, ánh sáng ấy chiếu soi Hành Giả, sau đó tiếng trống vang lên. Tức A Tô La Nữ vây quanh người tu hành dùng làm quyến thuộc. Tức bay lên hư không, thành Đại Trì Minh Vương Tiên, hay hiện mọi loại hình trạng, đi lại tự tại, hay quán sát Thế Giới khác không có ngăn ngại, sống lâu một Đại Kiếp.

_Lại ở trên đảnh núi cao, an tượng Phật. Ăn rễ, cọng, quả trái… tụng 21 vạn biến, sau đó dùng sắt Bổ Sa làm bánh xe, hoặc cái bát để cát. Nên khiến người thợ có các căn tròn đủ làm tượng. Làm xong, liền đến cung A Tô La, an trí Tượng Phật ở cửa cung, cùng với Trợ Bạn đối trước tượng, lúc đó tiêu đốt cây Khư Đà La để nhóm lửa. Ngồi trên cái chiếu cỏ tranh, dùng tay phải cầm bánh xe, lấy dầu hạt cải (giới tử du) hòa với lá Mộc Hoạn Hộ Ma 10 vạn biến thì tất cả then khóa của A Tô La bị phá hoại. Lại tụng 10 vạn biến Hộ Ma tức trong cung A Tô La bốc lửa sáng rực. Lần thứ ba tụng 10 vạn biến thì tất cả A Tô La Nữ ra bên ngoài hang, cầu xin người tu hành: “Bậc Cần Dũng Trượng Phu sai khiến chúng tôi làm việc gì?” Vào trong cung này thọ dụng Dục Lạc vi diệu, kèm theo Trợ Bạn cùng vào. Còn lại, người chưa vào Tam Muội Gia Đàn thì đừng cho vào, nếu đột nhiên đi vào thì kẻ ấy bị tổn hại mà chết, bởi vì người ấy chẳng biết Tam Muội Gia (Samaya)      

Vào ở trong cung, cầu cây kiếm thành tựu, bánh xe thành tựu hoặc vật thành tựu khác. Người ấy được vật đó thì làm Đại A Tô La Trì Minh Tiên Vương, làm chủ của hết thảy vật thành tựu trong cung A Tô La. Vị Trì Minh Tiên ấy có vô lượng A Tô La Nữ dùng làm quyến thuộc, du lịch Thế Giới này thành thân Đại A Tô La, cai quản tất cả A Tô La, được Đại A Tô La Vương lễ kính. Người ấy hay hóa ra mọi loại thân của Đại A Tô La, sống lâu một Đại Kiếp. Người đi theo vào đấy đều sống lâu một Kiếp.

Người thành tựu ấy vừa mới nhớ niệm tụng Luân Vương Chân Ngôn này thì bánh xe của Na La Diên kia bị phá hoại. Muốn được bánh xe ấy như cũ thì tùy theo ý được thành. Ở thời Giáo Pháp của Đức Ca Diệp Ba Phật Đẳng Giác thời có tên gọi là Trì Luân Minh Vương, được bánh xe thành tựu, cầm bánh xe mà đi ra. Dùng nhân duyên này mà gọi là Trì Luân Minh Vương, khiến hiện tại ở Thế Gian sanh nioe62m tin trong sạch sâu xa, làm Ư Bà Tắc Ca (cận sự nam) của Phật”.   

 

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói Già Tha (Kệ Tụng) là:

“Lại nói thành tựu khác

Phật trước kia đã nói

Ta ở thời xa xưa

Từng làm người buôn bán

Khổ nhọc, đại tinh tấn

Làm thành tựu vi diệu

Ngày nay, Ta tuyên nói

Ta tên là Lộ Ma

Là vua trong thành tựu

Ta ở Bản Sanh xưa

Vì các Bật Sô (Tỳ Kheo) nói

Thương xót các hữu tình”

  

_Lại như Quỹ Nghi lúc trước, ở bên bờ sông lớn, hoặc bên bờ biển lớn, làm 1008 cái Tốt Đổ Ba lớn bằng một gang tay của Như Lai. Đối trước cái tháp này, ở trước mỗi một tháp dùng hương hoa cúng dường, tụng Chân Ngôn mười vạn ba ngàn biến.

“Ngay lúc làm tháp thời

Được hiện tướng cát tường

Sắt Bổ Sa làm Luân (Cakra: bánh xe)

Khiến người thợ đoan nghiêm

Vành (vành bánh xe) bén không tỳ vết

Sáu căm ngắn một gang

Để ở trong Ngũ Tịnh

Tam Ba Đa Hộ Ma

_Phần Bạch (kỳ Bạch Nguyệt) tháng Thần Thông

Bạn tốt có Giới Hạnh

Nên tu như Kiếm Pháp (Pháp của cây kiếm)

Cho đến phát lửa sáng

Người Cát Tường Trì Minh

Liền thành các Nghiêm Cụ (vật dụng trang nghiêm)

Thân lớn dạo tự tại

Oai đức, đủ Thần Thông

Bạn tốt, Đại Trượng Phu

Du lịch các Thế Giới

Đại Lực trụ một kiếp

Làm Đạo Sư chúng sanh”

 

_Lại nói Pháp Đại Thành Tựu, Nên làm Pháp Tiên Hành, ở bên bờ sông lớn, hoặc bờ biển, để tượng Phật rồi đối trước mặt tụng một câu chi biến. Sau đó làm mười vạn sáu ngàn cái Tốt Đổ Ba, liền nhập vào Thành Tựu.

Lại nói Già Tha rằng:

“Chẳng chọn ngày với (Nakṣatra)

Cũng chẳng hạn Trai Giới

Lấy Nhiệp-Phạ (Śava:thi thể người chết chưa lâu) chưa hoại

Thành tựu Mê Đát La (Vetala)

Rửa sạch rồi nghiêm sức

Mão hoa với quần áo

Y Nghi cầu Tất Địa

Nhiếp Phạ (Śava) kia đứng dậy

Không sợ, y Nghi Quỹ

Bạn tốt, khéo tác ý

Hỏi việc Thiện, Bất Thiện

Thuốc Trường Sanh, Thủy Ngân

Pháp sang quý, ẩn hình

Tất cả các phương tiện

Đã hỏi, đều chỉ bày

Niệm tụng rất công phu

Luân Vương Đại Lực Minh

Liền làm Phụng Giáo Sứ

Hay cho các Tất Địa

Phụng Giáo đã thành xong

Đắc được các Tất Địa

Thường theo ở hai bên

Đại Lực mà du hành

_Hoặc ở trong miệng ấy (miệng của Nhiếp Phạ)

Nên để bột sắt mịn

Tức liền lè lưỡi ra

Dài dần như sen xanh

Dùng đao bén mà cắt

Người tu hành ân cần

Liền thành Kiếm Trì Minh

Thân màu mặt trời mọc

Liền đến đỉnh Tu Di (Tu Di phong)

Kèm bạn, bậc đại lực

Thiên Chúng thảy đều sợ

Tâm hoảng hốt kinh hãi

Vây quanh làm quyến thuộc

 

Đế Thích cho nửa tòa

Nghe oai đức Như Lai

Sáu mươi ngàn câu chi

Đều chịu làm quyến thuộc

Làm chủ các chúng ấy

Thảy đều đại oai dũng

Đại oai, đại sí thịnh

Đại Quyến Thuộc kỳ đặc

Loại của nhóm như vậy

Các Thiên Tử oai đức

Đến đâu (hành xứ) thường vây quanh

Oai lực như Đại Vương

Liền đến ở ngàn cõi

Dùng sức Đại Thần Thông

Lại động ngàn Di Lô (núi Tu Di)

Với động câu chi núi

Kèm ngàn Thiệm Bộ Châu

Với động trăm ngàn cung

Tất cả khiến lay động

Dùng ánh sáng chiếu soi

Ở trong các Địa Ngục

Dùng sức Đại Thần Thông

Ban cho thức ăn uống

Đắc được Trí vi diệu

Oai đức như Thiên Vương

Nghiêm thân đủ cát tường

Thiên Nữ đều vây quanh

Thân vi diệu, đại oai

Sắc thân như sen xanh

Sát Na đều du lịch

Vô lượng các Thế Giới

Sẽ trụ một ngàn kiếp

Thường cúng dường chư Phật

Kiếp Hỏa chẳng thể đốt

Cùng các Đại Quyến Thuộc

Liền đến Thế Giới khác

Mọi loại nhóm như vậy

Dùng Công Đức trang nghiêm

Ấy tức thành Bồ Tát

Cứu giúp các hữu tình

_Lại nữa, người trì tụng

Tăng niệm tụng gấp đôi

Nên làm Tốt Đổ Ba (tháp)

Mười vạn sáu ngàn cái

Theo khuỷu tay Như Lai

Ở trong miệng Nhiếp Phạ

Nên để bột báu mịn

Niệm tụng không gián đoạn

Tức ở ngay trên lưỡi

Hiện Chân Đa Ma Ni (Cintāmaṇi: Ngọc Như Ý)

Sáng rực, oai đức lớn

Ân cần làm gia hộ

Liền lấy báu kỳ đặc

Do được báu này nên

Liền thành Bảo Trì Minh

Tự tại làm Đại Vương

Trì Minh Tiên cầm kiếm

Thường hộ vệ người ấy

_Lại ở trong miệng, để

Cháo sữa hòa với bơ

Muốn đứng dậy, nôn ra

Hành Giả chẳng tạp loạn

Hứng lấy, để ngõa khí (vật bằng sành)

Hoặc bạc, đồng tôi luyện

Cùng với bạn gia trì

Cho bạn rồi cùng ăn

Liền thành oai đức lớn

Sống lâu một Đại Kiếp

Liền thành Trì Minh Tiên

_Hoặc tay an ở miệng

Hành Giả liền niệm tụng

Từ miệng ló hương triện

Hành Giả nên nắm Quyền

Như trước cầu thành tựu

Nếu tướng ấm áp hiện

Dùng Quyền nghĩ mọi người

Hữu tình với vô tình

Thảy đều được kính yêu

Dùng quyền chẳng nên nghĩ

Hoặc ứng trong miệng đó

Nếu được thấy lữa hiện

Thì người tu hành ấy

Tên là Quyền Trì Minh

_Tiếp, nói Đại Thành Tựu

Liền đến ao hoa sen

Nên làm Pháp Tiên Hành

Để tượng Phật ở vách (vách tường)

Hành Giả chẳng loạn tâm

Vì Phước lớn nên tu

Tâm buông xả, bố thí

Hoa sen tẩm Lạc, Mật

Cùng với tẩm nhóm bơ

Hô Ma năm lạc xoa

Tượng đó: động tay, mắt

Nên biết được thành tựu

Liền được làm Ấp Chủ

Xa lìa tất cả việc

_Hộ Ma mười vạn biến

Tức làm người Phước lớn

Hộ Ma hăm mốt (21) vạn

Làm các Địa La Nhạ (vua của đất đai)

Nói Chánh Pháp độ người

Thích buông xả, bố thí

 Tăng gấp đôi, trì tụng

Luân Vương Đại Oai Đức

Thành biện tất cả Nghiệp

Quyết định, đừng nghi ngờ

_Nay Ta lại lược nói

Pháp Luân Vương Thành Tựu

Xưa nay đã thành tựu

Tất cả các Phật Tử

Thánh Mạn Thù Thất Lợi

Đắc Đại Thế Bồ Tát

Hư Không Khố Bồ Tát

Ta cũng trì Minh này

Được lìa sợ sinh tử

Được gặp gỡ bạn lành

Đắc được các thành tựu

Ở trong đây, nói là

Phật Đảnh Thắng Chân Ngôn

Đương lai, người thành tựu

Hết thảy trong ba cõi

Không có ai ngang bằng

Vượt sắc tướng, oai lực

Như Phật ở Thế Gian

Thành tựu Đảnh Chân Ngôn

Không có ai hơn được

_Trước nói Pháp thành tựu

Trong Như Lai Thắng Kinh

Hết thảy các Ấn Khế

Trao cho Đức Thế Tôn

Làm thành Chân Ngôn Vương

Ấn đấy không gì bằng

Đại Lực, Đại Oai Đức

Đã nói Pháp thành tựu

Đại kỳ đặc hiếm có

Hết thảy mười Tự Tại

Thập Lực Tử đã nói

Nếu cùng đây tương ứng

Hay hoại cả Đế Thích

Huông chi hữu tình khác

Vì kẻ khó điều phục

Mà làm mọi loại Pháp

Nhóm chủng loại như vậy

Như Lai cho thành tựu

Dung Nghi Giáo Vương này

Tu tập cầu Tất Địa

Người chẳng thành, khiến thành

Huống chi cầu thành tựu

Do trong Giáo Vương này

Nhiếp nhập tất cả Pháp

Trong Pháp Nhãn chư Phật

Nói là tối thù thắng

 

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai lại quán sát tất cả Đại Chúng, dùng câu Già Tha bảo Kim Cang Thủ rằng:

“Phật trước, các Tiên Bảo Kế nói

Ở Khế Kinh đó, cảnh giác hết

Na La Di Nõa, Nhiếp Phạ La

Minh (Vidya) của Đống Nga Ma Đặng Già

Hết chút phần ấy, cảnh giới dạy

Chẳng phải Chánh Giáo Tam Muội Gia

Ta vì nhiễm y (tăng phục của Sa Môn) mà tuyên nói

Nơi ngu muội kia với đa văn

Keo kiệt, giận dữ, mỗi mỗi loại

Nơi các Chân Ngôn, các Giáo Pháp

Tà Kiến chẳng bằng các hữu tình

Người của Thế Gian Xuất Thế Gian

Phần nhiều, người ở Thế Gian này

Loại người thông triết (thông minh trí tuệ) các quỹ tài

Mạt Pháp (Saddharma-vipralopa) gây chướng, cầu Giác Đạo (con đường Chính Giác)

Thế nên tương ứng Tam Muội Gia

Gia Hạnh tu tập, cầu thành tựu

Còn ở trong mộng, không ái nhiễm

Trước, biết Chân Ngôn Tam Muội Gia

Nhóm Pháp Mạn Trà La sai biệt

Sau đó, trong Chân Ngôn Luật Nghi

Thân miệng ý nhân theo tương ứng

Dầu nói Chân Ngôn Giáo bí mật

Vẫn mượn Du Già Quán Hạnh thành

Ứng Phật Đảnh đó thường tu tập

Trong Chân Ngôn Giáo Pháp Thành Tựu

Chân Ngôn, tiền của các Khoáng Địa (đất mỏ)

Hết thảy phương sở của các đất

Ngòai ra, hết thảy chiêm toán (xem bói), luận

Phép vua, lý luận với viết vẽ

Y phương (phương thuốc), nghề khéo, nhóm như vậy

Thất cả đều là Thế Tôn nói

Điều phục hữu tình mà hiện bày

Chư Phật trong đây tác Thuyết này

Ba loại Tất Địa mà phân biệt

Pháp Chân Ngôn thanh tịnh xưa nay

Đắc được Nghi Quỹ với Ấn Khế

Ai ở tất cả, dấy ganh ghét

Nghĩa câu Chân Ngôn thảy đều không

Ganh ghét chiêu cảm các chướng nạn

Vướng nơi văn tự, Tâm do dự

Ấy làm Chân Ngôn nhiều phân biệt

Vướng nơi Chân Ngôn duyên cành lá

Chẳng nên cho Luật Nghi ác kia

Nơi Chiên Đà La cũng chẳng nói

Vì nhóm người ấy chẳng thành tựu

Truyền cho người ác, Luật Nghi ác

Pháp tức chẳng thành, hoại thân mình

Với họ, cận thận đừng nên nói

Ràng nhiễm tham dục ắt chẳng thành

Ấy thường vội vàng, chẳng được thành

Nơi việc vội vã không suy xét

Làm sao thành tựu cứu hữu tình

_Trụ A Lan Nhã  (Araṇya)với núi, đầm

Năm Trần giao tạp, ắt chẳng thành

Đang trụ Tịnh Niệm, tâm lưu tán

Nhóm Hành Giả ấy đều chẳng thành

Thế nên, cần phải chế phục Tâm

Ba loại chê bai, Như Lai nói

Cầu Pháp, hữu tình của đời khác

Tương ứng của người trụ Pháp

Tâm làm ba loại hủy báng ấy

Thế Gian không có tạo Thuyết này

Tự Tính mà đi (khứ), cũng chẳng đi (bất khứ)

Tự Tính nếu thành Chân Ngôn Vương

Tất cả thảy đều chẳng thành sao

Thế nên, Thế Gian có hai Luận

Tinh tấn cùng nhau, do nhân Phước

Bởi thế, chẳng nên sanh phỉ báng

Thế Gian: (hữu) không (vô) suy nghĩ là

Thánh Thiên bày mọi loại Quỹ Tắc

Trụ đời, thương xót các hữu tình

Không biết Tính kém, lỗi đã nhiễm

Ta nói đắc được Hạ Tất Địa

Tất cả chư Thiên nên cúng dường

Chẳng nên đến lễ, Ta đã nói

Bởi thế, chẳng nên sanh phỉ báng

Cũng chẳng chê trách với hiềm nghi

Trong vô lượng kiếp chẳng thể nói

Chân Ngôn tối thắng, Hạnh khôn sánh

Ta nói thứ tự Nghi ba Bộ

Trong Giáo đã nói nhiều chủng loại

Nên làm theo thứ tự, tu hành

Chân Ngôn Giáo Tâm Luân Vương Pháp”

 


Bồ Đề Tràng Sở Thuyết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Kinh

THẾ THÀNH TỰU

_PHẨM THỨ MƯỜI_

 

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai nhập vào Nhất Thiết Chân Ngôn Giáo Chiếu Diệu Nhập Bất Tư Nghị Phật Cảnh Giới Lực Du Hý Tam Ma Địa. Do nhập vào Tam Ma Địa đó, thời chư Phật Bồ Tát trong hằng hà sa số Thế Giới Phật cũng nhập vào Tam Ma Địa đó

Khi ấy, Kim Cang Thủ thấy Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhập vào Tam Ma Địa đó thì nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, ở trước mặt Đức Phật, cầm chày Kim Cang, quán nhìn Đức Phật Thế Tôn chẳng chớp mắt

Lúc đó, Đức Thế Tôn từ Tam Ma Địa đứng dậy với tất cả Đức Phật kia cũng từ Định xuất ra

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ Định đứng dậy xong, bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Này ông, Bí Mật Chủ! Ông hãy lắng nghe! Đại Giáo này là điều mà tất cả Như Lai đã tuyên nói, năm Phật Đảnh Vương phổ thông mà nói hay làm đại kỳ đặc vi diệu, lược nói chẳng rộng kèm với Chân Ngôn. Nếu có người thành tựu tu hành thì người ấy theo thứ tự như Giáo mà được thành tựu”

 

Đức Thế Tôn nói Thuyết đó xong, lại bảo Kim Cang Thủ: “Trước tiên, ứng với Nhất Thiết Phật Đảnh Vương Phổ Thông Chân Ngôn Cú Thù Thắng Tam Ma Địa nói Chân Ngôn Thân. Ta nói Phụng Thỉnh Chân Ngôn là:

Nẵng mô bà nga phạ đổ sắt-ni sa dã (1) ế hề hứ, bà nga vãn (2) đạt ma ra nhạ, bát-ra (3) để xế, ma ma ra-già (4) hiến đà (5) bổ sáp-ba (6) độ ba (7) mạt lân tả hàm giả tì (8) ra khất-sái (9) bát ra  để hạ đa (10) ma ra ba-ra khất-ra ma dã (11) sa-phạ ha

*)NAMO  BHAGAVATE  UṢṆĪṢĀYA_ EHYEHI  BHAGAVAṂ  DHARMA-RĀJA  PRATĪCHA  MAMA (xưng tên gọi …) ARGHAṂ  GANDHA PUṢPA  DHŪPA  BALIṂṢYA  MAÑCA ABHI-RAKṢA  APRATIHATA   VARA  BALA  KRAMĀYA  SVĀHĀ

Đây là Phổ Thông Nghênh Thỉnh Chân Ngôn, ở trong Át Già (Argha) nên để hoa màu trắng mà nghênh thỉnh

 

_Tiếp đến Hương Đẳng Chân Ngôn là:

“Nẵng mô bà nga phạ đổ sắt-ni sa dã (1) y hàm (2) hiến đạm (3) bổ-sáp cam (4) độ cam (5) mạt lâm (6) nễ bán giả (7) bát-ra để xa (8) ha ra ha ra (9) tát phạ một đà (10) địa sắt-sỉ đế (11) đạt ma ra nhạ (12) bát-ra để hạ đa dã (13) sa-phạ ha

*)NAMO  BHAGAVATE  UṢṆĪṢĀYA_ IMAṂ  GHANDHAṂ  PUṢPAM  DHŪPAṂ  BALIṂ  DĪPAṂ  CA  PRATĪCCHA  HARA  HARA, SARVA  BUDDHA-ADHIṢṬHITE  DHARMA-RĀJA  APRATIHATĀYA  SVĀHĀ

 

_Nghênh Thỉnh Hỏa Thiên Chân Ngôn là:

“Nẵng mô bà nga phạ đổ sắt-ni sa dã, ê hề hứ, đế nho ma lị ninh, ngân nẵng duệ, sa-phạ ha

*)NAMO  BHAGAVATE  UṢṆĪṢĀYA _ EHYEHI  TEJO-MĀLINĪ  AGNAYE  SVĀHĀ

Nếu Phát Khiển Hỏa Thiên thì gia thêm câu “dã hứ dã hứ” (YĀHI  YĀHI)

 

_Biện Sự Chân Ngôn là:

“Nẵng mô bà nga phạ đổ sắt-ni sa dã. Úm, tra-lỗ, mãn đà, sa-phạ ha

*)NAMO  BHAGAVATE  UṢṆIṢĀYA_ OṂ  ṬRŪṂ  BANDHA  SVĀHĀ

Chân Ngôn này, khi làm tất cả sự nghiệp thời nên dùng Hộ Thân, là Đại Chân Ngôn làm nghĩa lợi lớn, cũng gọi là Nhất Thiết Phật Đảnh Tâm Chân Ngôn

 

_Tồi Hoại Chân Ngôn là:

“Nẵng mô bà nga phạ đổ sắt-ni sa dã. Úm, vi chỉ ra nõa, độ nẵng độ nẵng, độ

*)NAMO  BHAGAVATE  UṢṆĪṢĀYA_ OṂ_ VIKĪRAṆA  DHUNA  DHUNA  DHUḤ

Đây gọi là Tồi Hoại Đại Minh Vương Phật Đảnh Chân Ngôn dùng trừ tất cà Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka). Nếu khi bị xâm não thời dùng Chân Ngôn này gia trì vào nước, rưới rốt đảnh đầu. Cũng dùng Hộ Thân, kết Phương Ngung Giới. Nên dùng ở nơi chốn của tất cả sự nghiệp

 

_Tồi Hủy Phật Đảnh Chân Ngôn là:

“Nẵng mô bà nga phạ đổ sắt-ni sa dã. Tát phạ vĩ cận-nẵng, vĩ đặc-võng sa nẵng, ca la dã, tra-lỗ tra dã, sa-phạ ha

*)NAMO  BHAGAVATE  UṢṆĪṢĀYA_ SARVA  VIGHNA  VIDHVAṂSANA  KARAYA  TRUṬAYA  SVĀHĀ

Dùng Chân Ngôn này hay làm trị phạt người ác khó điều phục, kèm hộ giúp Trợ Bạn thủ hộ phương góc. Dùng Đại Chân Ngôn của nhóm như vậy ở Luân Vương Mạn Trà La, bậc oai đức lớn tu Chân Ngôn Hạnh làm tất cả sự nghiệp   

Người tu hành, trước tiên nên tác cuy nghĩ này: “Nay Ta trong sạch ở cái thất niệm tụng này, đem hạt cải trắng (bạch giới tử) hòa với tro Hộ Ma, dùng Tồi Toái Phật Đảnh gia trì 108 biến. Hoặc dùng Biện Sự Sự Phật Đảnh ứng gia trì, rải tro với hạt cải ở cái thất niệm tụng, liền thành Tịnh Thất. Tức dùng Chân Ngôn này gia trì vào nước chứa đầy trong cái bình sạch 108 biến, rưới vảy bốn phương. Hoặc dùng Tự Chân Ngôn Tâm, hoặc dùng Tùy Tâm gia trì liến thành nơi chốn (xứ sở) nhiếp thọ. Dùng Tồi Hoại Phật Đảnh Chân Ngôn gia trì vào bốn cây cọc gỗ Khư Đà La (Khadira) 108 biến, rồi đóng ở bốn phương trong Tịnh Thất, tức thành kết Mạn Trà La Giới.

 

_Vô Năng Thắng Phật Đảnh Chân Ngôn:

“Nẵng mô bà nga phạ đổ sắt-ni sa dã, tát phạ đát-ra ba ra nhĩ đa dã. Úm, xa ma dã xa ma dã, phiến đế, nan đế, đạt ma ra nhạ, bà sử đế, ma ha vĩ nễ-dã, tát phạ ra-tha, sa đà ninh, sa-phạ ha

*)NAMO  BHAGAVATE  UṢṆĪṢĀYA_ SARVATRA  APARAJITĀYA _ OṂ  ŚAMAYA  ŚAMAYA  ŚĀNTI  DĀNTI  DHARMA-RĀJA  BHĀṢITE  MAHĀ-BODHI  SARVĀRTHA  SĀDHAYA  SVĀHĀ

Dùng Hiền Bình chứa đầy nước thơm, gia trì 108 biến. Người trì tụng dùng rưới rót lên đảnh của mình, lìa tất cả chướng Tỳ Na Dạ Ca

“Đây là Vô Năng Thắng

Phật Đảnh Đại Chân Ngôn

Hay dứt các chướng ngại

Thường làm nơi Tức Tai

Hay trừ các mộng ác”

 

Nay Ta nói Pháp tu hành Công Đức phổ thông của tất cả Đảnh Vương, chọn chút phần mà nói. Nếu vừa mới nghĩ nhớ đến, thành tự thân hộ trì. Tụng ba biến kết búi tóc ở đảnh. Dùng tro hoặc hạt cải trắng gia trì 7 biến để ở trên đầu thành Đại Gia Hộ.  Gia trì vào sợi sây 21 biến, thắt 21 gút rồi cột buộc ở trên cánh tay thì tất cả tai họa, nhóm bệnh nóng lạnh thảy đều tiêu diệt.

Nếu trụ Xa Ma Na (?Śama-śana) tụng 108 biến thì ở tất cả nơi đáng sợ được gia hộ. Tùy ý nên làm mua bán Ma Ha Mãng Sa (Mahā-māṃsa)

Lại dùng bơ Hộ Ma thì tất cả tai vạ ở tất cả nơi chốn đều được tiêu diệt

Khi lấy Phục Tàng (kho tàng bị che dấu), dùng bơ Hộ Ma 108 biến, thì lìa tất cả chướng nạn, hay hộ giúp Trợ Bạn

Hoặc lấy hạt cải trắng (bạch giới tử) Hộ Ma 108 biến thì tất cả các chướng thảy đều dứt trừ.

Biết chắc chỗ có Phục Tàng, dùng sữa Hộ Ma 108 biến, thì tuỳ ý lấy dùng không có chướng nạn.

Lại ở cửa hang A Tô La, tụng 30 vạn biến thì tất cả then khóa đều bị phá nát, hoặc dùng hạt cải (giới tử) hoà với Lỗ Địa La (Rudhira: máu), muối vụn… tụng 1008 biến Hộ Ma 21 ngày, một ngày 3 thời thì tất cả cung điện trong hang đều bị lửa đốt cháy rực. A Tô La Nữ bị thiêu đốt chạy ra cửa hang, thỉnh Hành Giả vào hang, trao cho thuốc trường sanh với nhóm vật thành tựu. Hoặc kết Luân Vương Phật Đảnh Ấn, đánh ném ở phía trước kẻ kia, thì kẻ ấy té nhào xuống đất.

Lại ăn Đại Mạch, uống sữa, tụng 30 vạn biến thì  được thuốc trường sanh

Lại khi Nguyệt Thực thời đừng nhìn mặt trăng, gia trì vào sữa 108 biến thì thành thuốc Đại Trường Niên.

Lại ở đảnh núi, khất thực, tụng 30 vạn biến. Đủ biến số xong,  ba ngày ba đêm chẳng ăn, thiêu đốt mè, lạc, bơ, mật ….cùng hòa chung đốt cây A Thấp-phạ tha dùng làm Hộ Ma, từ sáng sớm bắt đầu cho đến tối làm Hộ Ma, tức được làm La Nhạ (Rāja: vua).

Lại nơi đảnh núi, làm tháp Duyên Sanh Pháp Thân, hoặc làm tháp Xá Lợi. Ở trước thápXá Lợilấy một trăn ngàn hoa sen, mỗi một hoa tụng một biến hiến cúng tháp, tức được làm Ma Ha Mãn Nô Lý Chủ. Nếu chẳng thành tựu thì được làm Đại Ấp Chủ, Hương Đảng Chủ.

Lại có Pháp. Lầy hoa sen xoa bôi Bạch Đàn Hương rồi đi vào nước sông lớn ngập đến rốn, mỗi lần tụng một biến gia trì vào hoa sen rối hiến, hiến xong quăng vào trong nước, cho đến đủ  trăn ngàn số thì Đại Phục Tàng, nếu đem bố thí thì không có cạn hết

Lại người muốn được thành tựu Kính ái. Lấy hạt cải trắng (bạch giới tử) hoà với dầu mè, ba thời Hộ Ma, mãn bảy ngày tức được La Nhạ (Vua) với Tiểu Vương đều được kính yêu

Lại muốn khiến Bà La Môn kính yêu, lấy hoa màu trắng Hộ Ma, Sát Lợi dùng hoa màu đỏ, Tỳ Xá dùng hoa màu vàng, Thủ Đà dùng hoa màu đen, người Quả Phụ thì dùng muối, tất cả Đồng Nữ thì dùng Ma Sa (hạt đậu nhỏ của Bà La Môn), hoặc mè. Lấy hoa Yết La Vĩ La chưa nở, 7 ngày, một ngày ba thời Hộ Ma thì được tất cả mọi người kính yêu.

Lại lấy trấu hòa với Vĩ Sa (Viṣa: chất độc) hòa với lá Khổ Luyện làm Hộ Ma thì thành xua đuổi Thiết Đốt Lỗ (Śatrū: Oan gia)

Lại dùng hạt cải Hộ Ma thì đập tan Thiết Đốt Lỗ (Śatrū: Oan gia)

Lại dùng tro ở Thi Lâm Hộ Ma khiến cho  chết mất

Lại dùng dầu hạt cải Hộ Ma thì tất cả Bộ Đa Quỷ kính yêu

Lại dùng Uất Kim Hộ Ma thì tất cả Tất Xá Chi kính yêu

Lại kết Ấn, tụng Chân Ngôn, gia thêm chữ Phán (PHAṬ) thì tự hay trừ Quỷ Mỵ

Lại dùng lá Đổ La Tư thiêu đốt thì Quỷ Mỵ hiện xuống nói chuyện

Lại trong Chân Ngôn gia thêm chữ Nhược (JAḤ) thì khiến người bị trúng độc mê man, được sống trở lại

Lại trong câu Chân Ngôn gia thêm chữ Nặc thì chất độc chẳng lưu hành

Lại trong câu Chân Ngôn gia thêm chữ Mạc thì chế ngự được rắn độc

Lại lấy than ở Thi Ma Xá Na vẽ làm cái Đàn tròn, triệu rắn độc với Quỷ Mỵ đi đến rồi hay ngăn cấm (cấm chỉ)  

Lại trong câu Chân Ngôn gia thêm chữ Ma thì cấm khẩu

Lại trong câu Chân Ngôn gia thêm chữ Tức thì cấm sao ác (ác tinh)

Lại trong câu Chân Ngôn gia thêm chữ Tra (ṬA) thì đập tan loài có răng nanh bén nhọn. Gia thêm chữ Tốc khiến tổi hại chi phần. Gia thêm Để sắt-xá, để sắt-xá (TIṢṬA  TIṢṬA) thì cột trói Quỷ Mỵ. Gia thêm Yết tra, yết tra (KAṬA  KAṬA) tức bị cột trói. Gia thêm lạc khất-sa, lạc khất-sa (RAKṢA  RAKṢA) tức khiến hộ trì. Gia thêm mãn đà mãn đà (BANDHA  BANDHA)  hoặc gia thêm luận đà luận đà khiến cấm cổ họng  

Lại lúc Nhật Thực, hoặc lúc Nguyệt Thực, đem lông đuôi chim công (khổng tước vĩ) đối ở trước tượng, cúng dường, tụng Chân Ngôn gia trì vào lông đuôi chim công. Niệm tụng cho đến mặt trăng mặt trời trở lại như cũ. Cầm lấy lông đuôi chi công này khua múa thì hay hiện mọi loại huyễn hóa. Khiến cho người bị trúng độc được sống lại, hay thành biện mọi loại sự nghiệp.

Lại lấy muối hòa với mè Hộ Ma khiến cho Thiết Đốt Lỗ (oan gia) bị bệnh Quỷ Mỵ với bị sốt rét. Lại dùng Cồ Ma Di (phân bò) nặn hình người ấy, dùng dao chặt chi phần ấy thì người kia liền tùy theo chỗ đã chặt đứt mà bị tổn hại

Lại thiêu đốt tất cả loại củì, tất cả hoa, tất cả quả, tất cả loại nhựa cây…thì  khiến cho đều được mọi loại tài bảo đã mong cầu

Lại thiêu đốt mè Hộ Ma thì tài bảo đã mong cầu đều được

Lại thiêu đốt cỏ Khuất Lũ Hộ Ma thì khiến được tăng tuổi thọ

Lại Hộ Ma gạo tẻ (cánh mễ) thì được con

Lại thiêu đốt mật thì được tất cả mọi người kính yêu

Lại Hộ Ma thì được oai đức

Lại Hộ Ma sữa thì được Tức Tai

Lại Hộ Ma Lạc (váng sữa, cao sữa) thì được Tăng Ích

Lại 7 ngày, ba thời hòa bơ Hộ Ma tất cả vật thì được Đại Tất Địa

 

_Ta nói Pháp Đại Thành Tựu. Như Pháp Tiên Hành lúc trước, nơi đảnh núi có tháp Xá Lợi, ở trước tháp tụng 30 vạn biến, sau đó đối trước tượng, dùng hoa lúa gạo hòa với lạc, bơ, mật Hô Ma một ngàn biến, tức thành Pháp Tiên HànhPháp Tiên Hành này thông dụng cho tất cả cầu thành tựu.

Lại vào ở rừng lớn, chẳng ăn, tụng trăm ngàn biến. Đủ biến số xong liền kết búi tóc trên đầu, tức ẩn hình. Cởi búi tóc ấy thì liền hiện ra

Lại lên đảnh núi, hướng mặt về mặt trời, thường ăn sữa, đại mạch, tụng mười vạn biến. Đủ xong tức được ẩn hình.

Lại có Pháp. Tay trái nắm Quyền, tụng mười vạn biến, cuối cùng liền được An Đát Đãn Na

Lại ngay lúc Nhật Thực, lấy Kiếp Ba La (Kapala: đầu lâu) dùng tóc Ma Nỗ Sa (tóc người) làm toán tẩm mỡ Ma Liệt Sa rồi thiêu đốt, dùng xông ướp trong Kiếp Ba La, vét lấy bột màu đen, gia trì 108 biến, lấy chấm vào mắt thì được An Đát Đãn Na.

  

Lại lấy tim Ma Nỗ Sa (tim người) hòa với Ngưu Hoàng làm thành viên, dùng tam Kim (vàng, bạc, đồng) bọc lại. Hoặc phần Hắc Nguyệt, hoặc phần Bạch Nguyệt gia trì niệm tụng. Thuốc phát ra tiếng, để ở trong miệng, được An Đát Đãn Na

Lại lấy Ngư Hoàng gia trì, xoa bôi thân thì được Trì Minh thành tựu, cũng được Tối Thượng thành tựu.

Lại khi Nhật Nguyệt Thực, lấy bơ của con bò màu vàng để ở trong vật khí bằng đồng đã tôi luyện (thục đồng), dùng cây cốt bằng thục đồng khấy đảo, niệm tụng  cho đến khi hiện 3 tướng: Nếu Phí Nhãn (? Tướng ấm áp) thì được văn trì chẳng quên; tướng khói thì được An Đát Đãn Na; tướng lửa thì bay lên hư không. Như vậy, Hùng Hoàng, Hoàng Đan, nhóm vật thành tựu khác đều hiện ra ba loại tướng thành tựu.

Lại Tô Lộ Đan Nhạ Na một ngàn Tam Ba Đa Hộ Ma. Hoặc ở phần Hắc Bạch cầu thành tựu. Nếu có khói thì được An Đát Đãn Na.

Lại cây kiếm, bánh xe, bức tượng, cây gậy, da hươu đen, tất cả vật thành tựu đều Tam Ma Đa Hộ Ma. Y theo Giáo vẽ tượng lúc trước, hoặc không có tượng, hoặ trước tháp có Xá Lợi… lìa nơi đàm thoại không có ích, ở chỗ vắng lặng  nơi sông, núi. Nên tu ba loại thành tựu, ở trong tất cả thành tựu được làm thành tựu tối thắng .

Lại lấy Nhiếp Phạ (xác người chết chưa lâu) chẳng hoại. Trước tiên cho tắm gội, nghiêm sức. Dùng cây cọc Khư La đóng cột. Ở hai Nguyệt Hắc Bạch tùy chọn lấy một phần, nên dùng ngày tốt của kỳ Hắc Nguyệt, kèm với Trợ Bạn kháo làm Hộ Thần, ngồi trên ngực cái xác ấy, rót cháo sữa vào trong miệng Mê Đát La (Vetala), niệm tụng chẳng gián đoạn. Tức Mê Đát La muốn đứng dậy, liền nôn ra. Dùng vật khí bằng thục đồng hứng lấy rồi ăn, ắt tự thân được thành tựu.

Lại lấy bột vàng bỏ trong miệng Mê Đát La, tức nôn ra vật dụng trang nghiêm, tức được Trì Minh Tiên. Nếu dùng ột sắt bỏ trong miệng ấy. tức nôn ra cây kiếm.

Nếu để hạt cải trắng trong miệng ấy, tức nôn ra vật dụng trang nghiêm

Nếu để mè trong miệng ấy thì nôn ra cái cặp Bản Chân Ngôn Giáo Kinh, đều được Trì Minh thành tựu, bay trên hư không.

Lại dùng bàn tay đè cái miệng của Mê Đát La ấy, niệm tụng gia trì cho đến khi ba tướng hiện ra. Động đậy tức đều nói các việc mà ý đã mong cầu, trao cho thuốc trường sanh. Nếu đứng dậy tức thành Sứ Giả. Người Trì Minh ấy muốn đến nơi nào thì ngồi trên vai Mê Đát La ấy, tùy theo ý mà đi. Được Trì Minh Tiên”.

  

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng:

“Bí Mật Chủ! Ông nghe

Chẳng rộng mà lược nói

Phổ thông tu tất cả

Nhóm Phật Đảnh thành tựu

Chút ít, được lợi lớn

Trong đây, nói lời này

Hoa Yết Nễ Ca La

Với lấy nhị hoa sen

Tô Lỗ Đan Nhạ Na

Dùng Tam Kim (vàng, bạc, đồng) bọc lại

Nên làm thuốc viên này

Nên ở Nhật Nguyệt Thực

Được ba loại thành tựu

Thứ tự ấm, khói, lửa

Ấm ắt được Kính Ái

Khói ắt sẽ ẩn hình

Tướng lửa bay trên không

Cát Tường Đại Trì Minh

Như sấm động phát tiếng

Phan, hoa cùng lay động

Nên biết tướng thành tựu

Với tượng Phật lay động

_Nếu thấy chẳng tốt lành

Chẳng nên cầu thành tựu

Hiến hương xoa, hương, hoa

Mỗi mội cần phải làm

Pháp Tức Tai Hộ Ma

Cho đến ở bảy lần

Sau đó làm Thắng Pháp

Nên làm Tốt Đổ Ba (tháp)

Thêm Phước, cầu thành tựu

Thằn lằn với quạ kêu

Nên quán thành, chẳng thành

Sau đó cầu thành tựu

_Niệm tụng, dùng trước tiên

Kèm quy mạng được quả

Làm Phước vì hữu tình

Chân Ngôn ắt thành tựu

_Vì ngu phu ít Phước

Phần lớn là người này

Vì họ tăng thêm Phước

Thành Phật, Bi (Kāruṇa) làm gốc

Lợi ích các Thế Gian

Nên nói Chân Ngôn Giáo

_Hàng Thiên Vương, Đế Thích

Với Đại Oai Đức khác

Mới tụng, ở Thắng ấy

Với ở tại cung vua

Do tin được ứng nghiệm

Người thành tựu sẽ được

Đoan nghiêm mà thường làm

_Người thanh tịnh tu hành

Chẳng nên gượng nhiều việc

Do đây, Tâm tạp loạn

Như người của Thế Gian

Kém Tuệ không phương tiện

Nơi các hợp luyện Đạo

Thiếu Duyên chẳng hòa hợp

Các thuốc với Thủy Ngân

Do đảo hoại (sụp đổ băng hoại) chẳng thành

Ba loại vi tế nên

Tốn công chẳng được ích

_Nếu lấy nơi Phục Tàng

Ắt có Vua đáng sợ

Xem tướng ắt sanh nghi

Vi tế sanh do dự

Quả y thuật tăng trưởng

Nhiếp thọ thuốc trường sanh

Do trì Chân Ngôn nên

Ắt thảy đều đắc được

Nhóm Quả Báo sống lâu

Các kỹ thuật như vậy

Lo lỗi có vô lượng

Dùng đây, không chỗ được

Chẳng được Phước tối thắng

Ấy cũng chẳng được Phước

Do Tâm này trụ dính

Chân Ngôn dùng làm đầu

Ắt được Phước Đức lớn

Bồ Đề, quả tối thắng

Nghe, nghĩ với tu hành

Đắc được quả tối thắng

Nơi đấy, các Hiền Thánh

Luôn luôn thường qua lại

Thế nên cùng Du Già

Thành tựu Bản Sở Tôn

Vẫn ở tối thắng tập

Ta đã từng rộng nói

Thấy nay, điều đã nói

Cũng rộng, cũng lại lược”

 

BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH

_QUYỂN THỨ TƯ (Hết)_

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567