Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp Tu Cho Người Đơn Sơ

26/09/202408:43(Xem: 657)
Pháp Tu Cho Người Đơn Sơ


trai luc hoa

PHÁP TU CHO NGƯỜI ĐƠN SƠ

Nguyên Giác

Bài này sẽ viết về một chủ đề: cách tu nào đơn giản nhất cho những người có tâm hồn rất mực đơn sơ. Thí dụ, người chưa biết chữ, hoặc những người mới học buổi sáng và quên liền vào buổi chiều, hoặc những người đã từng học thiên kinh vạn quyển nhưng bây giờ bắt đầu lãng trí, thậm chí không còn nhớ tới nửa bài Tâm Kinh. Câu hỏi là, pháp giải thoát có thể truyền dạy như thế nào cho những người không hiểu, hoặc không nhớ tận tường những khái niệm như định, như huệ, như bát nhã, và vân vân.

Vâng, đơn sơ. Độc giả đang đọc những dòng chữ từ một người đang tự rơi vào cõi đơn sơ, đã vài năm vào lứa tuổi xưa nay hiếm, tự thấy sức khỏe suy trầm và trí nhớ mệt mỏi, vừa mới đậu xe phía đông mà cứ nhớ là phải tìm xe ở phía tây. Người viết dùng chữ “đơn sơ” là để tránh những chữ bất nhã, thí dụ các chữ như “mau quên” hay là “khờ khạo” hay là “kém trí” và vân vân. Thêm nữa, có rất nhiều người không còn đủ sức khỏe để ngồi thiền, hay phải quá bận rộn mưu sinh tới mức không thể tụng kinh hay ngồi thiền. Do vậy, cần tìm những pháp nào cực kỳ đơn giản, đơn sơ. Khi nói tới tám mươi bốn ngàn cửa pháp, không lẽ không có cửa cho người đơn sơ.

Khi nói tới pháp cho người đơn sơ, người viết nghĩ ngay tới một trường hợp trong Pháp Cú. Trong Kinh Pháp Cú Tích Truyện có kể về trường hợp bài Kệ 25, về một nhà sư rất khờ, rất kém trí nhớ, tên là Culapanthaka, người có tiền kiếp từng chế nhạo một nhà sư là đần độn, nên Culapanthaka sinh ra là một kẻ đần độn trong kiếp hiện tại. Thậm chí vào tăng đoàn của Đức Phật Thích Ca rồi, học trong 4 tháng mà không thuộc nổi một bài kệ. Một hôm, Đức Phật đưa một mảnh vải sạch cho Culapanthaka và bảo vị sư chậm trí này ngồi đó, dùng mảnh vải lau bụi, lặp lại lặp lại chữ "Rajoharanam," có nghĩa là "tẩy sạch bất tịnh." Rất nhanh, tấm vải trở nên dơ bẩn. Nhìn thấy sự thay đổi của tấm vải, Culapanthaka nhận ra bản chất vô thường của tất cả các pháp hữu vi. Như thế, pháp này là quán vô thường.

Tuyệt vời của pháp này là nhìn thấy sự chuyển biến vô thường, tự nhiên tâm không còn chấp giữ cái gì là “ta” và “của ta” nữa, tức là, cũng chứng ngộ vô ngã. Khi nhìn các pháp chỉ như đám mây tụ và tán, đến rồi đi, khi thấy tập khởi và tan rã của các pháp trong thân tâm mình và người, tất nhiên sẽ không dính vào chút nào của tham sân si mạn nghi. Và cũng sẽ không dính vào bất kỳ cái gì của hôm qua, hôm nay (và dĩ nhiên là cả ngày mai) bởi vì tất cả đều bị trận gió vô thường thổi sạch hết.

Cái hay của pháp quán sát vô thường là không dính vào “thường” (thuyết vĩnh cửu) hay “đoạn” (thuyết hư vô). Bởi vì, nói ẩn dụ theo Thiền Tông Trung Hoa, người quán vô thường sẽ thấy tâm mình y hệt như tánh sáng chiếu của gương sáng, nơi đó hình ảnh hiện ra rồi biến mất, liên tục tới rồi đi, liên tục vô thường như thế, nhưng tánh sáng chiếu của gương vẫn còn đó, bât kể ảnh có tới hay ảnh đã đi. Nói là tánh sáng chiếu, nhưng cũng là tánh rỗng không của gương tâm.

Nếu chỉ nói là hãy quán sát vô thường kiểu đơn giản như thế, sẽ có một số người hỏi rằng Kinh nào dạy như thế. Nên thấy rằng rất nhiều Kinh dạy quán sát vô thường, đa số đều rất phức tạp. Càng đọc nhiều, càng rối trí, càng khó nhớ. Trong đó, có lẽ đơn giản nhất là Kinh SN 22.12, bản dịch của Thầy Minh Châu trọn bản kinh là:

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sāvatthi… Tại đấy… —Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường…, thọ là vô thường…, tưởng là vô thường … các hành là vô thường…, thức là vô thường. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức … Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.” (1)

Một pháp cho người đơn sơ tương tự là “niệm vô niệm.” Trong bản văn Phổ khuyến toạ thiền nghi (Fukanzazengi) của Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen) dài khoảng 2 hay 3 trang giấy, nói về pháp tu Thiền Tào Động, nhưng tóm tắt có thể chỉ là vài chữ. Ngài Đạo Nguyên viết: "Hãy niệm vô niệm. Làm sao ngươi niệm vô niệm? Không nghĩ ngợi tư lường. Điều này tự thân là nghệ thuật cốt tuỷ của tọa thiền." (Bản Anh dịch của San Francisco Zen Center: Think not-thinking. How do you think not-thinking? Non-thinking. This in itself is the essential art of zazen.)

Lời dạy đó cũng là lời Lục Tổ Huệ Năng dạy Thượng Tọa Minh trong Kinh Pháp Bảo Đàn. Cũng là lời dạy trong rất nhiều Kinh Nikaya và A Hàm. Vô niệm không có nghĩa là “mất ý thức” hay bị “trôi vào thất niệm” – nhưng vô niệm trong Thiền Tông là sự tỉnh thức thường trực và thấy rằng ý thức của mình trong trụ vào đâu hết. Kinh Nikaya gọi là thức như tia sáng mặt trời rọi vào nhà và không nghiêng về các bức tường đông, tây, nam, bắc. Đức Phật nói trong Kinh SN 12.64, về ý nghĩa vô niệm, nghĩa là “không có thức an trú”, theo bản dịch Thầy Minh Châu, rằng:

"…có bốn loại đồ ăn đưa đến sự tồn tại hay sự chấp thủ tái sanh của các loài hữu tình hay các loài chúng sanh. Thế nào là bốn? Đoàn thực thô hoặc tế, xúc thực là thứ hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ tư.

...[...] này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực không có tham, không có hỷ, không có ái… Này các Tỷ-kheo, nếu đối với xúc thực… Này các Tỷ-kheo, nếu đối với tư niệm thực… Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú. Chỗ nào không có thức an trú, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có não." (2)

Không có thức an trú (như Kinh SN 12.64 vừa dẫn), hay vô niệm (như ngài Huệ Năng và Đạo Nguyên dạy) là phiên bản khác của Kinh Bahiya Sutta (Ud 1.10) trong đó Đức Phật dạy ngài Bahiya là “Hãy để cái được thấy chỉ là cái được thấy, hãy để cái được nghe chỉ là cái được nghe… thì là giải thoát.” Đó chính là vô niệm, không nghĩ thiện và cũng không nghĩ ác, không ưa và cũng không ghét. Trong Thiền Việt Nam được Thầy Thích Phước Hậu ghi trong một bài thơ rằng Thầy đã quên hết ngàn vạn kinh điển, và rồi “Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như.” Hay là, tâm của bạn sẽ không nắm giữ bất kỳ một cái gì của cõi này. Thế là đủ.

Vô niệm trong ý nghĩa đoạn tận thức chỉ có nghĩa là thấy cái “thức hữu vi” tự biến mất theo duyên khởi, để sẽ hiển lộ cái tánh biết, cái thức vô vi, cái không hình tướng, cái vô tận vô biên vẫn bao trùm thế giới này. Thiền Tông ẩn dụ rằng, thức sanh diệt, hay tưởng sanh diệt, hay niệm sanh diệt, cũng như sóng sinh khởi rồi biến mất, nhưng nước không hề biến mất, vì nước chính là “thức không đặc tướng” vẫn không hề sanh diệt. Trong Kinh DN 11, Đức Phật nói về đoạn tận thức hữu vi để giải thoát, như sau, bản dịch của Thầy Minh Châu:

“Này Tỷ-kheo, câu hỏi phải nói như sau: “Chỗ nào mà địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, dài ngắn, tế, thô, tịnh, bất tịnh không có chân đứng? Chỗ nào cả danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn?” và đây là câu trả lời cho câu hỏi này:

“Thức là không thể thấy, vô biên, biến thông hết thảy xứ. Ở đây, địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại không có chân đứng. Ở đây, cũng vậy dài, ngắn, tế, thô, tịnh và bất tịnh. Ở đây danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn. Khi thức diệt, ở đây mọi thứ đều diệt tận”.

Thế Tôn thuyết như vậy. Kevaddha, cư sĩ trẻ tuổi hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.” (3)

Tuy nhiên, nên thấy rằng, khi học Phật, cần phải có nền tảng căn bản nhất. Nền tảng căn bản phải có trước khi thực hành pháp phải là: phải tin vào Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), phải quy y, phải thọ giới, phải tin luật nhân quả, phải tin rằng bố thí sẽ đưa tới quả lành. Nếu bạn chưa trọn lòng tin vào luật nhân quả, sẽ tới một lúc có thể rơi vào tà kiến.

Để có thể tin vào luật nhân quả, bạn nên đọc, nghiền ngẫm kỹ Kinh MN 135, nơi đây chúng ta chỉ dẫn ra một phần, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

“Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được trường thọ. Con đường ấy đưa đến trường thọ, này Thanh niên, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình....

... Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông có bố thí cho Sa-môn hay cho Bà-la-môn các đồ ăn uống … ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc. Do nghiệp ấy … thiện thú … nhiều tài sản. Con đường đưa đến nhiều tài sản nhỏ … ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc.

... Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi đến Sa-môn hay Bà-la-môn, có hỏi: “Thưa Tôn giả, thế nào là thiện? Thế nào là bất thiện … lợi ích, an lạc lâu dài? Do nghiệp ấy … thiện thú … đầy đủ trí tuệ. Con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ … lợi ích, an lạc lâu dài?” (4)

Trên đường tu, Đức Phật khuyến tấn chúng ta là hãy bố thí. Thậm chí, cũng cần phải bố thí cho người phạm giới, người phàm phu, người theo ác giới, vì bố thí cho bất kỳ ai cũng đều có công đức. Đặc biệt, bạn có thể nói rằng bạn nghèo quá, không biết làm sao bố thí, hay là bạn quá bận nên không vào chùa làm công quả được. Không sao. Vậy thì bạn ngồi làm thơ hay viết truyện về Phật pháp gửi các nơi cũng là bố thí pháp. Hay là bạn mỗi ngày tìm một đoạn Kinh, hay một bài Kệ Kinh Pháp Cú, rồi bạn phóng lên Facebook… cũng là bố thí pháp, sẽ có vô lượng công đức.

Bạn hãy đọc tụng, nghiền ngẫm Kinh MN 142 (tương đương A Hàm là Kinh MA 180) để thấy được bố thí đem tới công đức vô lượng. Bản dịch Thầy Minh Châu trích như sau:

“Tại đây, này Ānanda, sau khi bố thí cho các loại bàng sanh, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm phần công đức. Sau khi bố thí cho những phàm phu theo ác giới, cúng dường này có hy vọng đem lại ngàn phần công đức. Sau khi bố thí cho các phàm phu gìn giữ giới luật, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm ngàn lần công đức. Sau khi bố thí cho các người ngoại học đã ly tham trong các dục vọng, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm ngàn ức lần công đức. Sau khi bố thí cho các vị trên con đường chứng quả Dự lưu, cúng dường này có hy vọng đem lại vô số vô lượng công đức. Còn nói gì đến những vị đã chứng quả Dự lưu? Còn nói gì đến những vị trên con đường chứng quả Nhất lai? Còn nói gì đến những vị đã chứng quả Nhất lai? Còn nói gì đến những vị trên con đường chứng quả Bất lai? Còn nói gì đến những vị đã chứng quả Bất lai? Còn nói gì đến những vị trên con đường chứng quả A-la-hán? Còn nói gì đến những vị đã chứng quả A-la-hán, đệ tử Như Lai? Còn nói gì đến những vị Độc Giác Phật? Còn nói gì đến các Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác?” (5)

Tuy nhiên, câu hỏi là, nên bố thí như thế nào. Kinh AN 5.148 ghi lời Đức Phật dạy cách bố thí, bản dịch Thầy Minh Châu trích như sau:

“Bố thí có lòng tin, bố thí có kính trọng, bố thí đúng thời, bố thí với tâm không gượng ép, bố thí không làm thương tổn mình và người...

...Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí không làm thương tổn mình và người, chỗ nào, chỗ nào, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và không một tai nạn nào từ đâu đến, đến với tài sản của người ấy, hoặc từ lửa, từ nước, từ vua, từ ăn trộm, từ các người thù địch hay từ các người thừa tự.” (6)

Bạn đừng nên nghĩ rằng bố thí chỉ để cầu phước, không dính gì tới chuyện tu. Đừng nghĩ như thế. Theo Phật Giáo Đại Thừa, bố thí với tâm quán sát tam luân không tịch (nhìn thấy người cho, người nhận, và cái được bố thí đều là không), thì sẽ giải thoát. Bên Tạng Pali cũng ghi rằng, bố thí là một pháp tu, và nếu bố thí đúng pháp thì sẽ đắc quả A Na Hàm (Bất Lai, còn gọi là Bất Hoàn). Bạn nên thực hiện pháp bố thí này hàng ngày, nếu có thể, thí dụ, khi đi làm, gặp một người ăn xin, bạn hãy cho họ một chút gì. Hay bất cứ khi nào bước ngang qua một ngôi chùa, bạn hãy rút tờ giấy bạc đưa vào thùng phước sương, với trong lòng không vướng bận lấn cấn gì hết. Bố thí như thế cũng là tu. Xin mời bạn đọc kỹ Kinh AN 7.52 để thấy rằng, người bố thí sẽ đắc quả Bất lai, không trở về cõi khổ này nữa. Kinh này, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích như sau:

“—Này Sàriputta, ở đây, ai bố thí không với tâm cầu mong, bố thí không với tâm trói buộc, bố thí không với mong cầu được chất chứa, bố thí không với ý nghĩ: “Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau”, bố thí không với ý nghĩ: “Lành thay, sự bố thí”, bố thí không với ý nghĩ: “Cái này đã được cho trong đời quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên”, bố thí không với ý nghĩ: “Ta nấu ăn, các người này không nấu ăn. Ta không xứng đáng là người nấu ăn, lại không bố thí cho người không nấu ăn”, bố thí không với ý nghĩ: “Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí này”, bố thí không với ý nghĩ: “Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên”. Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm. Do vị ấy bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên. Và khi vị ấy, nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này.” (7)

Đó là những pháp tu thích nghi với những người có tâm hồn đơn sơ, hay những người không được học nhiều chữ nghĩa, hay những người đã quên hầu hết những gì đã học và không còn nhớ các khái niệm căn bản như định, như huệ, như vân vân. Nơi đây, tâm hồn đơn sơ của bạn chỉ cần trọn lòng tin vào Tam Bảo, ráng sức giữ giới nghiêm túc, tin sâu nhân quả, thường trực quán sát vô thường, thường trực niệm vô niệm, và hàng ngày hãy tu đúng pháp bố thí. Hãy đơn sơ như thế. Đó là những gì môt người rất mực đời thường có thể làm được. Đức Phật nói, chỉ như thế, là đủ để chứng quả Bất lai.



GHI CHÚ:

(1) Kinh SN 22.12: https://suttacentral.net/sn22.12/vi/minh_chau

(2) Kinh SN 12.64: https://suttacentral.net/sn12.64/vi/minh_chau

(3) Kinh DN 11: https://suttacentral.net/dn11/vi/minh_chau

(4) Kinh MN 135: https://suttacentral.net/mn135/vi/minh_chau

(5) Kinh MN 142: https://suttacentral.net/mn142/vi/minh_chau

(6) Kinh AN 5.148: https://suttacentral.net/an5.148/vi/minh_chau

(7) Kinh AN 7.52: https://suttacentral.net/an7.52

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/10/2020(Xem: 4212)
Có lẽ bài viết này sẽ không đúng thời, đúng lúc vào hoàn cảnh hiện nay (riêng cho Việt Nam, các miền Bắc Trung Bộ từ Quảng Trị vào đến Thừa Thiên (Huế) nơi các vị Thầy khả kính của tôi đang chịu nhiều áp lực của thiên tai (sạt lỡ và lũ lụt trầm trọng hơn bao giờ hết, vượt lên trên những hậu quả của năm 1999 và hơn thế nữa... thế giới đang chịu nạn đại dịch Covid 19 hoành hành làm ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Nhưng hậu bối trộm nghĩ nếu mình không ráng tu học để được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi khi còn được may mắn có cơ hội làm người và có cơ hội giác ngộ hơn những động vật và loài cỏ đá vô tình, thì cũng uổng phí một đời...
03/09/2020(Xem: 4023)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư. Bản thân người viết không phải là một thẩm quyền nào; do vậy, nơi đây chỉ là một cố gắng trong khả năng hạn hẹp để đọc lại và ghi chép lại một số lời dạy từ kinh luận, hy vọng sẽ giúp làm sáng tỏ một số thắc mắc. Các chữ viết tắt trong bài này có thể đọc ở Đại Tạng Kinh (1) với các kinh: DN là Trường Bộ Kinh, MN là Trung Bộ Kinh, SN là Tương Ưng Bộ Kinh, AN là Tăng Chi Bộ Kinh, Sn là Kinh Tập trong Tiểu Bộ, Ud là Kinh Phật Tự Thuyết, SA là Tạp A Hàm,
17/07/2020(Xem: 7204)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
10/07/2020(Xem: 6417)
Thực tập thiền chánh niệm sẽ giúp cho chúng ta cảm nhận được sự an lạc trong từng giây phút của cuộc sống. Thiền cũng tăng sự tập trung, tăng hiệu quả của bộ nhớ, vượt qua áp lực và căng thẳng trong đời sống hằng ngày. Các lớp học gồm có: Lớp 1: LỚP SƠ CẤP ONLINE - Thời lượng 8 tuần vào lúc 4pm tới 5:30pm chiều thứ 7 hàng tuần. (For English class: Friday Evenings: 7pm to 8:30pm from July 17 to September 4, 2020) Lớp 2: LỚP TRUNG CẤP - Thời lượng 10 tuần vào lúc 8am tới 10am sáng Chủ Nhật hàng tuần. (For English class: Saturday Evenings: 6:30pm to 8:30pm from July 18 to September 19, 2020)
30/06/2020(Xem: 12607)
Đây là cuốn sách viết bằng song ngữ Anh-Việt của cư sĩ Nguyên Giác. Sách dày 319 trang vừa được Ananda Viet Foundation (Nam California) xuất bản. Cư sĩ Nguyên Giác tu học với một số thiền sư tiền bối nổi tiếng trước 1975 như Thích Tịch Chiếu, Thích Thường Chiếu, Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang. Cư sĩ Nguyên Giác say mê Thiền, nghiên cứu về Thiền, viết về Thiền và sống chết với Thiền. Ông đã xuất bản tám cuốn sách về Thiền. Nay ở tuổi 68, ông viết cuốn này vì sợ rồi đây sức khỏe suy yếu, không còn khả năng viết nữa. Tuy nhiên ước mơ lớn vẫn là để cho các nhà nghiên cứu ngoại quốc muốn tìm hiểu về Phật Giáo Việt Nam, nhất là Thiền, có tài liệu tham khảo vì hiện nay Anh Ngữ là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới.
10/12/2019(Xem: 5775)
“Thà như giọt mưa, vỡ trên tượng đá Thà như giọt mưa, khô trên tượng đá Thà như mưa gió, đến ôm tượng đá Có còn hơn không, Có còn hơn không …” Đó là những câu mở đầu bài thơ của một người làm thơ như ăn cơm, làm thơ như uống nước, làm thơ như thiền hành, làm thơ như tĩnh tọa, làm thơ như say ngủ …. Làm thơ mà như chưa từng nghĩ là mình làm thơ, huống chi, nhọc nhằn khoác vào mình những hư danh nhân thế.
02/12/2019(Xem: 5825)
Thiền Định, Một Phương Pháp Biến Cải Tâm Linh. Đức Đạt-lai Lạt-ma và Urgyen Sangharakshita
15/11/2019(Xem: 7142)
Cuộc sống của con người và vạn vật chung quanh biến đổi từng giờ từng phút theo không gian và thời gian. Không hề có bất kỳ sự kiện hay sự vật nào tồn tại vĩnh viễn. Giáo lý nhà Phật gọi tình trạng đó là Vô thường.
12/09/2019(Xem: 5272)
Bài này ghi lại một số lời dạy về Thiền Tông – để thấy rằng trong tận cùng, tất cả các phương tiện chư Tổ sử dụng khi truyền pháp chỉ là các bè pháp để lìa tham sân si, bằng cách nhận ra bản tâm vốn đã tròn đầy giới định huệ. Khi nhận ra sợi chỉ đỏ xuyên suốt các lời Đức Phật dạy qua nhiều thời kỳ khác nhau, sẽ thấy tất cả đều tương thông, trong tận cùng là không dị biệt, không trái nghịch giữa các truyền thống, dù là Nam Tông hay Bắc Tông. Với người đã sống được trong các pháp ấn vô thường, vô ngã… lúc đó không thấy còn bè pháp nào nữa, vì sẽ thấy tất cả các phương tiện tu học chỉ là sản phẩm của tâm quá khứ, chỉ là thêu dệt từ những ngũ uấn của ngày hôm qua và hôm kia, trong khi cái hiện tiền chảy xiết ngay bây giờ là cái dòng tịch lặng vô thường bất khả ngôn thuyết. Cũng y hệt như khi đã nắm được bâu áo tràng (cổ áo tràng), tự động chiếc áo sẽ xuôi một dòng, phẳng lì, không rời tay mình bất kể khi đi đứng nhanh hay chậm, lúc đó cũng chẳng bận tâm tới tay áo nghiêng về phía Nam
09/09/2019(Xem: 6608)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.Narayan Helen Liebenson là nữ giáo sư hướng dẫn tại Trung Tâm Thiền Cambridge Insight Meditation Center. Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche là người nắm giữ truyền thừa của truyền thống Bön Dzogchen tradition của Tây Tạng. Ông là tác giả của cuốn sách “Spontaneous Creativity: Meditations for Manifesting Your Positive Qualities” [Sự Sáng Tạo Tự Phát: Thiền Để Thể Hiện Phẩm Chất Tích Cực Của Bạn] (xuất bản năm 2018).Zenkei Blanche Hartman (1926-2016) là Pháp Sư Cao Cấp và là phụ nữ đầu tiên Trú Trì Trung Tâm Thiền San Francisco.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]