Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nẻo Vào Thiền Định

24/03/202409:54(Xem: 696)
Nẻo Vào Thiền Định


duc phat thanh dao

Nẻo Vào Thiền Định

Cúng dường mùa Phật Thành Đạo, Phật lịch 2567

Tỳ kheo Thích Thông Đạo trích đăng

https://thongdao.com/neo-vao-thien-dinh/

 




Kính bạch Thầy Thích Thông Triệt,

Con là Trần Duy Phô, Pháp danh Nguyên Thành, 61 tuổi. Con có duyên lành dự Khóa thiền Căn bản do Thầy giảng dạy tháng 2/2008 và Khóa Trung cấp Bát Nhã I do Sư Cô Triệt Như hướng dẫn tháng 8/2009 tại Sacramento, California. Với lòng tri ân sâu sắc Thầy và Tăng đoàn đã cho chúng con Pháp dừng tạp niệm, con kính trình lên Thầy bốn cảm nghiệm cá nhân trong thời gian dự Khóa Nhập thất Chuyên tu 10 ngày do Hội Thiền Tánh Không tổ chức tại Cedar Falls Center, núi San Bernadino, California, Hoa Kỳ, tháng 10/2009.


1. Dừng tạp niệm

Khóa tu bắt đầu từ 4:30 giờ sáng đến 9 giờ tối mỗi ngày. Phần lớn thời gian dùng để thực hành thiền định, xen kẻ là các Pháp thoại hướng dẫn của Thầy, hai thời tập khí công sáng tối, và ba bữa ăn trong vô ngôn. Thức ăn chay do người Mỹ nấu nhưng rất ngon miệng. Bếp ăn phục vụ hằng chục ngàn người mỗi năm, nhưng chỉ nấu chay, do Hội Bảo vệ Sinh vật Thiên nhiên bảo trợ.

Vào giờ thực hành cá nhân hay nghỉ ngơi, con thường một mình bước từng bước thật chậm trên các con đường vắng. Chân trái bước tới thì thở vào, thầm niệm KHÔNG. Chân phải bước tới thì thở ra, thầm niệm NÓI. Không để tạp niệm hiện lên giữa 2 chữ KHÔNG … NÓI. Thế mà vài tạp niệm, theo lối du kích, vẫn lén đến quấy rối. Lúc ấy con tự cảnh tỉnh: mình đã tạm rời vợ con, việc làm, bỏ thì giờ, tiền bạc để đến tận góc núi xa xôi nầy. Nếu vẫn để tạp niệm lôi kéo thì đến đây làm gì?

Dần dần rồi cũng có chút thuần thục, tạp niệm lắng dần. Sau đó, giữa niệm KHÔNG và NÓI, con kéo dài thêm vài ba hơi thở, vài ba bước chân. Cứ thế, nhiều khi bước đi, chẳng cần thầm nghĩ KHÔNG… NÓI, mà tâm vẫn lặng yên.

Trời thu dìu dịu, se lạnh, nhưng đã có áo ấm, găng tay, mũ len che kín. Cơn gió thoảng qua, những ngọn lá vàng cuốn tròn chạy lách tách trên đường nhựa. Chú sóc lẹ làng chụp bắt trái táo. Đôi chim sẽ sàng đáp xuống nhành cây. Không tiếng xe, không tiếng người, chỉ có tiếng lá thì thầm trong gió. Tuyệt diệu! Tịnh độ nếu không phải nơi đây, khi trời đất hòa nhịp với lòng người, vào giây phút này, thì còn tìm cầu đâu nữa?!

Sau một ngày rưỡi thực tập như vậy, chiều thứ Sáu 23/10/2009, con có niềm vui lớn. Trong 30 phút thiền tập chung tại hội trường, chỉ có 5 vọng niệm xẹt đến. Nghỉ xả hơi 5 phút. Rồi 25 phút ngồi thiền kế tiếp, không hề một niệm dấy lên, nước miếng ứa ra nhiều, thân thể nhẹ nhàng, chân không hề đau nhức mặc dù con đang bị bệnh gout gây rối.


2. Cảm nghiệm vị trí tánh giác

Sau khi có kinh nghiệm dừng tạp niệm, các buổi ngồi thiền kế tiếp, con không quá mệt nhọc đối phó với tạp niệm nữa. Nó đến thì nó đi. Nhờ vậy, khi vừa ngồi xuống, cảm giác khinh an liền đến. Thân, tâm, hơi thở cùng thư dãn. Sáng thứ Hai, 26/10, con cảm thấy hơi ấm trong người tăng lên, hai vành tai nóng dần. Con để ý (không phải chú ý) vào bán cầu não trái phía sau. Giây lát thì cảm nhận vùng đó trở nên ấm nóng. Cảm giác rất rõ ràng và kéo dài. Con nhớ lời Thầy Không Chiếu, ý ở đâu thì khí ở đó, và máu cũng tập trung về đó, cho nên có thể ứng dụng để chữa bệnh. Vì thế con để ý đến đầu gối bên phải đang bị đau vì gout. Liền đó, đầu gối phải của con nóng lên, da như căng phồng ra, cơn đau giảm dần, cùng lúc, bán cầu não trái phía sau trở nên mát mẻ.

Vậy là con cảm nghiệm được lời Thầy dạy về sự hiện hữu của vùng tánh giác ở bán cầu não trái phía sau gồm 4 tánh: (1) thấy, (2) nghe, (3) xúc chạm, (4) nhận thức biết không lời. Kinh nghiệm này không dùng quang tuyến X mà bằng tri giác bản thân. 


3. Phải chăng là “xả sanh hỷ lạc”

Sáng thứ Tư 28/10, sau Pháp thoại của Thầy về cách làm chủ tâm ngôn, có 30 phút ngồi thiền. Con ngồi thẳng lưng, thả lỏng cơ bắp, đầu hơi kéo lui phía sau một chút, mặt hướng thẳng tới trước, mắt khép hờ thoáng nhìn xuống sống mũi, đầu lưỡi chạm vào chân răng hàm dưới, thở vào thở ra không nói thầm trong trí, hơi thở nhẹ và sâu. Thân khinh an, nước miếng ứa ra nhiều. Bỗng nhiên con cảm thấy cơ thể nhẹ tênh, trong người khỏe khoắn, da mặt mát mẻ như có làn gió nhẹ thoảng qua. Cảm giác hỷ lạc rõ rệt gấp nhiều lần các lần khinh an trước. Tâm hoàn toàn rỗng lặng. Rồi con mở mắt nhìn ra rừng núi ngoài cửa sổ, thấy rõ màu xanh lá cây, thế núi trập trùng xa xa, biết rõ nhưng không dính mắc. Thời gian như ngưng đọng. Nửa giờ thiền định qua mau. Nghe chuông xả thiền, nhưng con vẫn ngồi thêm giây lát nữa.


4. Xác tín định qua đo điện não đồ

Sáng thứ Năm 29/10, đến lượt con đo điện não đồ. Có chút hồi hộp. Cả đời gieo duyên với Đạo, đây là lúc xem thử mình vào cửa được chưa. Kỹ thuật viên xuất sắc là anh Nam hướng dẫn từng bước một. Mỗi lần nghe Nam khẽ nhắc “tốt, buông nữa đi”, con nhận ra hơi thở mình chưa thả ra hết, liền kéo dài hơi thở ra thì thấy khỏe trong người. Hoặc nghe tiếng “buông” của Nam, con nhận ra mình còn vướng vào hơi thở vào, hơi thở ra, hoặc còn vướng vào việc ngồi thiền.

Kết quả đo điện não đồ vào định

Thật cảm động khi Nam cho xem và giải thích kết quả sóng não. Vệt màu đỏ của sóng beta rất nhỏ, chứng tỏ phần vọng tưởng chi phối bởi ý căn, ý thức và trí năng ở tiền tráng đã khá lặng yên. Ngược lại, dải sóng alpha màu vàng, theta màu xanh nhạt, và delta màu xanh da trời khá rộng. Có lúc sóng theta chiếm hết cả khung điện não đồ. Điều đó được diễn dịch là con đã vào định và có an lạc. Tuy nhiên con cũng hiểu là định chưa sâu vì các sóng còn nhiều giao động. Những giọt nước mắt cảm động trào dâng. Thế là đường con đi đã định hướng đúng.


Đánh giá kết quả

Con đạt được bốn dấu mốc tâm linh trên đây là nhờ có:

1. Cách dạy thiền định của Thầy rõ ràng, có kỹ thuật và chiêu thức phù hợp với tâm sinh lý học trò. Kết hợp thiền tập với khoa học hiện đại. Lời Thầy chính xác 100%: “Thay đổi thói quen nói lầm bầm trong não suốt ngày đêm bằng cách mở ra một đường mòn mới Không Nói trong não”. KHÔNG NÓI không những là một kỹ thuật “dụng tầm tắc tứ”, như câu niệm Phật, mà còn in sâu vào ký ức thành một mệnh lệnh: cắt ngay lập tức tạp niệm vừa dấy khởi.

2. Năng lượng hỗ trợ của Tăng đoàn rất hùng hậu. Hơn 80 thiền sinh từ nhiều nơi trên thế giới về tham dự. Đa số là những người hành thiền miên mật nhiều năm, kinh nghiệm vững chải, thể hiện qua nét mặt tươi sáng, ánh mắt từ hòa, đạo tình thắm thiết. Ban Tổ chức khóa tu chu đáo, vui vẻ, dù có vài sơ sót trong lần tổ chức đầu tiên. Địa điểm khóa tu quả là lý tưởng.

3. Bản thân con đã buông xả khi đến khóa tu nhờ đã sắp đặt việc nhà, thu xếp việc cần làm. Hoàn toàn chú tâm vào thiền tập, không chuyện trò lãng phí, không xem sách báo, không bận rộn kế hoạch nào cả, không đem theo laptop, tuy có đem cell phone nhưng không có sóng liên lạc.

4. Kiên nhẫn thực tập lại từ bước đầu theo giáo trình sắp xếp của Thầy là “định có tầm không tứ” với kỹ thuật KHÔNG NÓI. Chỉ khi bước căn bản này thành công mới qua bước hai là “thầm nhận biết trạng thái KHÔNG NÓI”, tức là nhập vào “định không tầm không tứ”. Trước đây vì nóng vội, chưa yên bước 1 mà con đã nhảy qua bước 2, thành ra dụng công đã lâu mà không kết quả. Tuy nhiên, công phu mấy chục năm trời học Phật, lạy Phật, tụng kinh, trì chú, niệm Phật, thiền tập, làm lành lánh dữ, tất cả không phải vô ích. Một khi tâm lặng yên thì các thiện pháp trên đây đồng loạt phát huy tác dụng thành một nội lực sung mãn giúp con tiến tới.

Kính bạch Thầy,

Con lớn lên trong hương trầm dịu ngọt xứ Huế, nơi ba pháp môn Thiền, Tịnh, Mật hòa quyện với nhau, hỗ trợ lẫn nhau như cái đỉnh 3 chân, và phước huệ song tu là thực tập hàng đầu. Nhờ vậy mà con không thấy có gì xung khắc trong các pháp tu của Phật. Hơn 13 năm qua, con và các bạn góp tay nhau giúp các em khuyết tật nghèo khổ sống đau thương tại tư gia ở vùng núi, vùng quê Việt Nam. Năm 2009, số tiền góp lại được trên $100,000. Việc thiện này cũng là cách tu tập của chúng con.

Giờ đây, được soi sáng từ Thiền học của Thầy, con một lần nữa đê đầu đảnh lễ tri ân. Đồng thời con cũng thành kính đảnh lễ Chư tôn Thiền đức Tăng Ni, quý Thiện hữu Tri thức đã trực tiếp hay gián tiếp trưởng dưỡng đạo tâm cho con. Con nguyện đem những điều Thầy dạy áp dụng vào cuộc sống đời thường. Nguyện tiếp tục cùng các đạo hữu dâng tặng niềm vui cho đời, giúp người bớt khổ, nhưng bằng chất liệu mới: Tuệ giác Thiền Tánh Không.

                                                                                                

Sacramento, Năm Mới 2010

                                                                                                      Nguyên Thành

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/04/2014(Xem: 6475)
Tôi thực sự thấy “sốc” khi nhận những bức ảnh từ một người bạn, qua mạng internet. Đó là một tập tin (file) dạng Power Point Show có tên We are so lucky – food and water. Pss (chúng ta may mắn biết bao, với thức ăn và nước) tả cái đói kinh hoàng và thảm khốc ở Châu Phi. Tập tin này mang theo thông điệp gồm nhiều câu văn ngắn cho từng slide.
13/04/2014(Xem: 10467)
Bối cảnh lịch sử của Phật giáo trước sự ra đời của phương pháp Thiền Tịnh song tu Trên phương diện Phật giáo sử, dễ dàng nhận thấy Thiền Tông và Tịnh Độ Tông xuất hiện trong khoảng thời gian trước và sau đời Tùy-Đường[1]; từ đó pháp niệm Phật Thiền hình thành và liên quan sự phát triển pháp Thiền Tịnh Song Tu. Vấn đề này, trước tiên cần tìm hiểu về ý nghĩa niệm Phật trong kinh điển Phật giáo Nguyên Thủy, cụ thể trong kinh A Hàm, kinh tạp A Hàm, kinh Tăng Chi và trong kinh điển Đại Thừa. Thời Phật tại thế đã dạy đệ tử xuất gia, tại gia về phương pháp niệm Phật như là phương thức quán niệm hỗ trợ cho pháp thiền định, bảo hộ đời sống an lành, đối trị mọi phiền não.
02/04/2014(Xem: 11495)
Nhân công trong những quốc gia bị trị của nhiều thế kỷ trước, phần lớn đều bị bóc lột, thậm chí còn bị đánh đập nếu làm sai hoặc không đủ số lượng mà chủ ấn định. Ngày nay, xã hội tiến bộ, số phận của người làm công được cải tiến. Nhưng nhiều hảng xưởng vẫn chưa thu hoạch được lợi nhuận như đã dự trù, vì nhiều yếu tố nội tại của công nhân và cách hành xử mà người chủ cần có.
26/03/2014(Xem: 10890)
Trị liệu ung thư bằng chánh niệm là một tập sách ghi chép lại kinh nghiệm của thầy Chân Pháp Đăng về quá trình trị liệu thành công căn bệnh ung thư ruột già của thầy mà không sử dụng những phương pháp y khoa hiện đại như hóa trị, xạ trị….
18/03/2014(Xem: 9911)
Luận Đại thừa Khởi tín của ngài Mã Minh nói: “Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp. Pháp giới Một tướng này tức là Pháp thân bình đẳng của chư Như Lai. Pháp thân này tất cả chúng sanh vốn có, nên gọi là Bản giác”. Luận nói tiếp: “Thế nên chúng sanh nào quán sát vô niệm thì chúng sanh đó đã hướng về Trí Phật”.
15/03/2014(Xem: 14521)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì. Trái lại nếu tôi tin, tôi có thể làm thì sớm muộn gì tôi cũng sẽ thành tựu như ý muốn”. Thánh Ghandi *
22/02/2014(Xem: 9334)
Nhân quả là đạo lý căn bản của người học Phật. Người tu, nhất là tu Thiền cần phải hiểu rõ, nhận kỹ điểm này, không để sảy chân sa đọa phải hối hận kiếp kiếp lâu dài. Bời người tu Thiền thường nghe nói: “Xưa nay không một vật”, thì nhân quả để ở chỗ nào? Nhân quả có hay không ?
20/02/2014(Xem: 9456)
Mùa đông năm 1991, tôi ra Vũng Tàu dưỡng bệnh ở nhờ thất Thích Ca của Quan Âm Phật đài. Trước cưả thất nhìn xuống mặt biển có cây bồ đề sum sê che rợp, râm mát cả thất. Tôi thường ra đứng dưới tàng cây nhìn xuống biển. Một hôm, tôi đứng nhìn ra biển thấy biển cả thênh thang sóng bủa trắng xóa, lúc đó có chú thị giả đứng bên cạnh, nhìn sang chú tôi hỏi: "Ðố chú nước có dậy sóng không?"
19/02/2014(Xem: 7558)
Thiền quán (Vipassana) chính xác nghĩa là gì ? Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉ (samatha) và Thiền quán (vipassana). Thiền chỉ ( Samatha), nghĩa là định tĩnh, được xem là một phương pháp nuôi dưỡng những trạng thái hành thiền thâm sâu mạnh mẽ gọi là nhập định ( Jhana). Thiền quán (Vipassana) - nghĩa đen là “ thấy rõ ”( minh sát), nhưng thường vẫn được phiên dịch là Thiền quán – được xem là một phương pháp sử dụng một
11/02/2014(Xem: 8230)
Pháp là Pháp môn, Chánh pháp của Phật. Bảo nói sơ lược có sáu nghĩa: Hiếm có, Thanh tịnh, Quý giá, Đẹp đẽ rực rỡ, Rất tốt, Thường chẳng đổi. Đàn trong chữ Tất Đàn nghĩa là bố thí rộng khắp. Pháp Bảo Đàn Kinh là đem kinh pháp hiếm có, quý báu, thanh tịnh, thường hằng chẳng biến đổi mà bố thí rộng khắp thế gian, giống như cơn mưa đúng lúc đúng thời thấm nhuần lợi ích khắp muôn loài, không đâu chẳng được mưa pháp rưới mát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]