Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Vipassana, Bốn Nền Tảng Chánh Niệm (sách pdf của TT Thích Nhật Từ)

18/06/202106:58(Xem: 9426)
Thiền Vipassana, Bốn Nền Tảng Chánh Niệm (sách pdf của TT Thích Nhật Từ)

Thien Vipassana_thich nhat tu
THÍCH NHẬT TỪ
THIỀN VIPASSANĀ:
BỐN NỀN TẢNG CHÁNH NIỆM
(Phân tích Kinh tứ niệm xứ)
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC


MỤC LỤC
Lời nói đầu 
Chương I: Những điều cần biết về thiền 
 1. Các kinh về tu thiền 
 2. Giá trị của thiền tứ niệm xứ 
 3. Địa điểm thực tập thiền 
 4. Cách ngồi thiền 
 5. Cách làm chủ tâm  
 6. Đối tượng quán chiếu trong tu thiền 
Chương II: Quán và làm chủ thân thể 
 1. Quán thân trên thân 
 2. Làm chủ hơi thở 
 3. Làm chủ đại oai nghi 
 4. Làm chủ tiểu oai nghi 
 5. Quán bốn yếu tố phổ quát (tứ đại
 6. Quán tử thi 
 7. Kết luận 
Chương III: Quán và làm chủ cảm xúc 
 1. Bản chất của cảm xúc 
 2. Thực tập “tôi cảm nhận hạnh phúc” 
 3. Thực tập “tôi cảm nhận khổ đau” 
 4. Thực tập “tôi cảm nhận không khổ đau, không hạnh phúc’ 
 5. Thực tập “tôi cảm nhận hạnh phúc thuộc về vật chất” 
 6. Thực tập “tôi cảm nhận hạnh phúc thuộc về tinh thần” 
 7. Thực tập “tôi cảm giác khổ đau thuộc về vật chất” 
 8. Thực tập “tôi cảm giác khổ đau thuộc về tinh thần” 
 9. Thực tập “tôi cảm giác không khổ đau, không hạnh phúc thuộc về vật chất” 
 10. Thực tập “tôi cảm giác không khổ đau, không hạnh  phúc thuộc về tinh thần” 
 11. Kết luận 
Chương IV: Quán và làm chủ tâm 
 1. Tổng quan về quán chiếu tâm 
 2. Khái niệm “tâm, ý và thức” 
 3. Biết rõ “tâm có tham hay không tham” 
 4. Biết rõ “tâm sân hay tâm không sân” 
 3. Biết rõ “tâm si và tâm không si” 
 4-5. Biết rõ “tâm chuyên chú, tâm tán loạn” và “tâm có định hay tâm không định” 
 6. Biết rõ “tâm quảng đại hay tâm nhỏ nhoi” 
 7. Nắm rõ “tâm hữu hạn hay tâm vô hạn” 
 8. Biết rõ “tâm giải thoát và tâm trói buộc” 
Chương V: Quán pháp 1: Giải phóng tâm khỏi các trói buộc 
 1. Khái quát tứ niệm xứ và quán niệm hơi thở 
 2. Cởi trói tâm khỏi tham ái 
 3. Cởi trói tâm khỏi sân hận 
 4. Cởi trói tâm khỏi hoài nghi 
 5. Cởi trói tâm khỏi hôn trầm và thùy miên 
 6. Cởi trói tâm khỏi sự dao động và tiếc nuối 
 7. Thay lời kết 
Chương VI: Quán pháp 2: Năm uẩnsáu giác quan và sáu đối tượng 
 1. Khái niệm “quán pháp trên pháp” 
 2. Quán và làm chủ “năm thủ uẩn” 
 3. Quán và làm chủ 6 giác quan, 6 đối tượng nhận thức 
 4. Kết luận 
Chương VII: Quán pháp 3: Bảy yếu tố giác ngộ (Thất giác chi
 1. Hai bài kinh hộ niệm cầu an 
 2. Chính niệm 
 3. Trạch pháp 
 4. Tinh tấn 
 5. Hỷ 
 6. Khinh an 
 7. Chính định 
 8. Buông xả 
Chương VIII: Quán pháp 4: Tứ thánh đế 
 1. Khái lược về bốn đối tượng quán niệm (Tứ niệm xứ
 2. Vai trò của tứ thánh đế 
 3. Chân lý Phật là trung đạo 
 4. Bước 1, thừa nhận khổ đau là hiện thực 
 5. Bước 2, truy tìm nguyên nhân khổ đau 
 6. Bước 3, trải nghiệm hạnh phúc, niết-bàn 
 7. Bước 4, thực hành bát chánh đạo 



tt nhat tu

LỜI NÓI ĐẦU

Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật.

Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng.

Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng “thân, thọ, tâm, pháp”, đồng thời, phải tinh tấn tỉnh giác (ātāpī) liên tục.

“Thiền quán” giúp hành giả thấu rõ các trạng thái vô thường (aniccalakkhaṇa), trạng thái khổ (dukkhalakkhaṇa) và trạng thái vô ngã (anattalakkhaṇa), hướng đến sự chấm dứt tham áiphiền nãođạt được các thánh quả và chứng đắc niết bàn.

Bốn đối tượng thiền quán gồm thân thểcảm giác, tâm và pháp.
Quán thân là đang nhận biết về thân (kāye kāyānupassī viharati) còn gọi là “quán thân trên thân” tức “thân hành niệm” (Kāyanupassanā satipaṭṭhāna, 身行念) hay “thân quán niệm xứ”. Hành giả thấy rõ thân thể (kāyānupassī) là tổ hợp được hình thành bởi đất, nước, lửa, gió, gồm 32 yếu tố trược uế, bị vô thường chi phối, nên thân thể này là phi-ngã.

Quán cảm thọ là đang nhận biết về cảm thọ (vedanāsu ve[1]danānupassī viharati) còn gọi là “quán thọ trên cảm thọ” tức “thọ hành niệm” (P. Vedanānupassanā satipaṭṭhāna, 受行 念), hay “thọ quán niệm xứ”. Có 9 loại cảm xúc mà người tu thiền cần làm chủ bao gồm: (i) Cảm xúc khổ đau, (ii) cảm xúc hạnh phúc, (iii) cảm xúc không khổ - vui, (iv) cảm xúc khổ đau hợp với ngũ dục, (v) cảm xúc hạnh phúc hợp với ngũ dục, (vi) cảm xúc không khổ - vui hợp với ngũ dục, (vii) cảm giác khổ đau không hợp với ngũ dục, (viii) cảm giác hạnh phúc không hợp với ngũ dục và (ix) cảm xúc không khổ - vui không hợp với ngũ dụcHành giả thấy rõ hành tung và bản chất của các loại cảm xúc (vedanānupassī) trong thân, trên cơ sở này, làm chủ dòng cảm xúc đang diễn ra trong tâm chúng ta.

Quán tâm là đang nhận biết về tâm (citte cittānupassī vi[1]harati) còn gọi là “quán tâm trên tâm” tức “tâm hành niệm” (P. Cittānupassanā satipaṭṭhāna, 心行念), hay “tâm quán niệm xứ”. Hành giả thấy rõ bản chất của tâm với các cặp phạm trù đối lập: Tâm tham đối lập với buông xả, tâm sân đối lập với từ bi, tâm si đối lập với trí tuệ, tâm buồn ngủ - tâm tỉnh táo, tâm chuyên chú - tâm tán loạn, tâm quảng đại - tâm nhỏ nhoi, tâm bậc thấp - tâm bậc cao, tâm định - tâm không định, tâm hữu hạn - tâm vô hạn, tâm phàm - tâm thánh, tâm trói buộc - tâm giải thoát... Hành giả giữ lại những hạt giống tích cực ở tâm, theo đó, phát huy những phẩm chất tích cực của tâm như từ bihoan hỷbuông xả, vĩ đại, vô thượnggiải thoát.

Quán pháp là đang nhận biết về pháp (dhammesu dham[1]mānupassī viharati) còn gọi là “quán pháp trên pháp” tức “pháp hành niệm” (P. Dhammānupassanā satipaṭṭhāna, 心行念), hay “pháp quán niệm xứ”. Hành giả thấy rõ các ý niệm tiêu cực trói buộc tâm, năm thủ uẩnsáu giác quan và sáu đối tượng giác quan, vốn làm tâm không được tự dogiải thoát, theo đó, nỗ lực làm chủ chúng bằng thực tập bốn chân lý thánh và bảy yếu tố giác ngộ.

Không chỉ tu “thiền quán” trong lúc ngồi, các thiền sinh cần trải nghiệm “cái nhìn như thật” trong đi, đứng và nằm. Trong các khóa tu thiền thuộc hệ thống Đạo Phật Ngày Nay, các Thiền sinh thường thực tập thiền tọa 60 phút, sau đó, 30 phút thiền hành. Cứ như thế thực tập buổi sáng, buổi chiều và buổi tối, đan xen lẫn nhau, khi thiền tọa kết thúc thì tiếp nối bằng thiền hành và ngược lại. Cốt lõi của tu thiền là làm chủ cảm xúctri giác, tâm tư, nhận thứcthói quen và lối sống.

Cốt lõi của định nằm ở xả niệm và thanh tịnh. Ngoài việc tăng cường sức khỏe, người tu thiền chỉ và thiền quán còn đạt được ba tuệ giác lớn để trở thành bậc thánh, giác ngộ và giải thoát toàn triệt.

Rằm tháng giêng, năm Mậu Tuất 2018
Thích Nhật Từ Cẩn chí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2017(Xem: 5977)
Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung. Hình ảnh Đức Phật tọa thiền dưới một cội cây vào một đêm trăng sáng, đạt được những hiểu biết siêu nhiên đã nói lên thật cụ thể cái "cột trụ" đó.
06/01/2017(Xem: 8386)
Phật giáo Tây Tạng hay Kim Cương Thừa nói chung rất thực tế và cụ thể, giúp người tu tập trực tiếp biến cải tâm thức mình và đạt được giác ngộ. Dưới đây là một bài giảng ngắn của Đức Đạt-lai Lạt-ma về một trong các phép luyện tập thiền định chủ yếu và thiết thực của Phật giáo Tây Tạng, là "Phép thiền định gồm bảy điểm" do Atisha (A-đề-sa) đề xướng.
01/06/2016(Xem: 8627)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
28/04/2016(Xem: 16644)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
09/04/2016(Xem: 5928)
Chánh niệm, tiếng Pali viết là Sammàsati, là suy niệm chân chính, sự tỉnh giác, biết rõ các pháp một cách trọn vẹn. Chánh niệm—một trong tám chi phần quan trọng của Bát chánh đạo—vốn được xem là con đường tám lối (lanes) đưa đến sự an vui và giải thoát, là chân lý thứ 4 (Đạo đế) trong Tứ Diệu Đế.
21/12/2015(Xem: 5670)
Thừa hay xe không phải là người chuyên chở hay những gì được chuyên chở - nó là sự chuyên chở . Vì vậy Tiểu Thừa có nghĩa là "sự chuyên chở vật nặng nhỏ hơn", và Đại Thừa, "sự chuyên chở vật nặng lớn hơn."
14/10/2015(Xem: 4427)
Đây là bài thuyết trình cho ngày Hội nghị thượng đỉnh Giáo viên ở bang California (California Teachers Summit 2015) tại trường Đại học Tiểu Bang California Sacramento (CSUS) vào ngày 31 tháng 7, năm 2015. Chúng tôi được mời thuyết trình cho gần 400 giáo viên, hiệu phó, hiệu trưởng của những trường học K-12 trong Miền Bắc California. Cùng với hai nhà giáo dục Teresa Burke và Elzira Saffold danh dự trong năm 2015 (teachers of the year), chúng tôi được gặp và thảo luận với vị Chủ tịch trường Đại học Tiểu Bang California Sacramento (CSUS) Dr. Robert S. Nelsen, và Mr. Tom Torlakson, CA superintendent of public instruction. Họ tâm sự với chúng tôi rằng, giáo dục là một nhân quyền căn bản, cần luôn cải cách và tiến hoá. "Nếu đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì cùng đi chung". Họ cảm ơn chúng tôi nhận lời mời để chia sẻ những thực tập hữu ích cho đồng nhiệp. Xin mời quý vị đọc bài thuyết trình mà chúng tôi đã chia sẻ.
17/09/2015(Xem: 8699)
Trong quyển Cơ Sở Khoa Học của Thiền Chánh Niệm, nội dung nhấn mạnh đến những phương pháp thực hành Chánh Niệm. Nội dung quyển này chú trọng đến những khám phá mới về vận hành của não khi thực hành Chánh niệm qua ánh sáng khoa học. Quyển này không có ý viết cho đông đảo quần chúng Phật tử nhưng cung cấp cho một số Phật tử và các tăng ni trẻ những kiến thức mới nhất trong Khoa Học Não Bộ về Chánh Niệm. Tôi cố ý không dịch các từ ngữ não bộ và để nguyên tiếng Anh, xem chúng như là những tên riêng để các cư sĩ và tăng ni trẻ có thể Google trên mạng tìm thêm thông tin. Viết về khoa học não bộ là một điều rất khó vì đề tài khô khan và nhiều chỗ trái ngược với kiến thức thông thường và nhất là đòi hỏi người đọc phải có kiến thức vững vàng về Chánh Pháp. Tôi chỉ cố gắng làm hết sức mình và thỉnh thoảng pha đôi chút trào lộng để độc giả thấy được ý của chư Tổ qua lời dạy ‘Bình thường Tâm thị đạo’. Thực hành Chánh pháp không có gì mầu nhiệm hay huyền bí cả, mà chỉ là một cách sống theo n
24/08/2015(Xem: 4541)
Tập san Phật giáo Regard Bouddhique (Hướng nhìn Phật giáo) của Pháp, số tháng ba và tư, 2015, với chuyên đề "Phật giáo và việc chữa trị bệnh tật" có một bài của nữ ký giả Carole Rap, phỏng vấn thiền sư Roland Yuno Rech về phép tọa thiền (zazen) và việc chữa trị bệnh tật. Roland Yuno Rech sinh năm 1944, được nhà sư Niva Rempo Zeji vị lãnh đạo cao cấp nhất của thiền phái Tào Động (Soto) ở Nhật phong chức "Thầy" năm 1984 nhằm chứng nhận ông là một thiền sư uyên bác của học phái này. Roland Yuno Rech là đệ tử của vị Thiền sư nổi tiếng Taisen Deshimaru (1914-1982), người đã đưa thiền phái Tào Động vào Âu Châu. Roland Yuno Rech hiện trụ trì một thiền viện do chính ông thành lập ở Nice, một thành phố đẹp và sang trọng bên bờ Địa Trung Hải, miền nam nước Pháp. Ngoài ra ông cũng thường xuyên chủ trì các khóa tu thiền tổ chức tại Pháp cũng như tại các nước khác ở Âu Châu. Bài phỏng vấn dưới đây nêu lên nhiều nhận xét thật sắc bén và sâu sắc về sự vận hành sâu kí
15/08/2015(Xem: 7894)
Đây là cuốn sách thứ 4 của cư sỹ sau 3 cuốn trước “Bài học từ người quét rác”, “Tâm từ tâm”, “Hạnh phúc thật giản đơn”. Cuốn sách là những trải nghiệm thật trong cuộc sống và công việc của ông.Mong rằng mỗi bài viết trong cuốn sách này giúp bạn đọc nhận ra gì đó mới mẻ, có thể là chiếc gương để soi lại chính mình.Và biết đâu ngộ ra được một chân ý cũng nên.Xin trân trọng giới thiệu lời mở đầu của chính tác giả cho cuốn sách mới xuất bản này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567