Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Món quà Bát Nhã

10/04/201318:18(Xem: 6573)
Món quà Bát Nhã

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2009

Món quà Bát Nhã

Trần Kiêm Đoàn

Nguồn: Trần Kiêm Đoàn

Trong đời sống tâm linh của thế giới phương Tây, một thế giới đầy năng động của sự thay đổi và sáng tạo, đạo Phật được ươm mầm và khởi sắc khiêm tốn như một đóa hoa sen trong cái hồ Tây mênh mông dậy sóng. Con người vừa thức dậy sau giấc ngủ dài từ thời Trung Cổ. Những đầu óc tiền phong khai phá đi tìm một sự lý giải rạch ròi hơn cho thế giới thể chất và tâm hồn. Hết vật lý cơ học, đến vật lý lượng tử ra đời. Vũ trụ vô biên và im lặng từ thuở hồng hoang được khai quật. Nhìn từ phía con người nhỏ bé thì cánh cửa vào thế giới tự nhiên vô biên nầy đang được hé mở.
Những đầu óc kiệt xuất và những phương tiện thiện xảo của khoa học kỹ thuật đã đầu tư khai phá để cố gắng trả lời về một vấn nạn từ xửa, từ xưa, từ khi ông Bành Tổ mới ra đời: “ Ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu?” hay “Phải chăng ta chỉ là cái bọt bóng xà phòng xuất hiện như một sự tình cờ rồi vỡ tan mất dạng ?!”
Khoa học cố tìm nguồn cội theo chỉ dấu từ vụ nổ lớn nguyên thủy “Big Bang” cách đây chừng 15 tỷ năm và khám phá soi rọi vào đơn vị vật thể nhỏ nhất là “proton”. Nhưng tốn cả 10 tỷ đô-la và 14 năm để tạo ra chiếc máy đập vỡ “proton” với hy vọng tìm ra bí mật của vũ trụ thì cũng chỉ mới là dự phóng trong ước mơ của vật lý khoa học trên đường mong tìm ra bí ẩn của vũ trụ.
Con người đã tự tìm câu trả lời về “giới hạn vô biên” qua một hình ảnh và khái niệm thuần túy tri thức tuyệt đối là Thượng Đế. Con người cung đón và phó thác tất cả những điều chưa biết được vào bàn tay Thượng Đế để an tâm và tiếp tục sống mỗi một cuộc đời ngắn ngủi trên trần thế. Thượng Đế trở thành nguyên nhân đầu tiên và cuối cùng cho ai tin ngài như một đấng toàn năng có nhân dáng hơn chỉ là một khái niệm thuần lý tuyệt đối.
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thức và tâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã. Món quà Bát Nhã là món quà của đạo Phật đã cung hiến cho nhân loại: Trí tuệ, tĩnh thức, hòa bình, an lạc.
Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajñāpāramitā) là trí tuệ viên mãn, là tri thức trái tim của Phật Giáo, là sự thấu hiểu vẹn toàn tất cả những gì trong vòng quay sống chết và tái sinh.
Diễn giải thì trời biển như thế, nhưng rốt lại 600 tập Đại tạng Bát nhã cũng chĩ còn hai chữ Tâm và Không; và rồi chỉ còn một chữ: Không. “Không” là trạng thái rỗng lặng. Không là thanh tịnh, an hòa, là thế dừng lại ở giữa, như như bất động. Nên “không” chẳng phải là “bất” là “vô”, là đối nghịch với có, là hư vô, là tuyệt đối không còn gì nữa cả.
Phương pháp luận của đạo Phật trong lĩnh vực tâm linh cũng chặt chẽ mà bao trùm như khoa học trong lĩnh vực vật lý và thể lý. Khoa học đã và đang dủng hết mọi lý thuyết và phương tiện để chứng minh rằng cả vũ trụ nầy rồi sẽ rút lại thành một Lỗ Đen (black hole) và lỗ đen sẽ rút lại thành một Điểm Quái (singularity). Một khi sức nén và trọng lượng đến đỉnh điểm vô lượng vô biên quy hợp thành điểm quái ấy thì sẽ có sự nổ bùng. Đó là hiện tượng vụ nổ “Big Bang” khởi đầu để bung ra thành vũ trụ hôm nay. Con người vừa sinh ra đã mang trong mình lực sống và lực chết thì mỗi tế bào trong vũ trụ cũng đều mang lực đẩy và lực hút. Cứ như thế, vũ trụ không bao giờ chết và “Big Bang” cũng như điểm quái sẽ lập đi lập lại hoài không có điểm khởi đầu và kết thúc; từ vô thủy đến vô chung. Trong mỗi tế bào vạn vật đều có mang đầy đủ yếu tính của một tiểu vũ trụ xuất phát từ một đại vũ trụ đã quy hồi tận cùng vào điểm quái của tự thể đầu tiên và cuối cùng. Không gian vô tận, thời gian vô cùng,
Phật giáo càng ngày càng được giới thức giả phương Tây chú ý và các nhà tâm lý Mỹ xem là một khoa học tâm linh có thể dùng phương pháp thiền định để trị liệu những chứng thần kinh và tâm bệnh. Nhưng tùy theo điểm đứng và cách nhìn mà mỗi nhân vật tự tìm thấy nơi suối nguồn Phật giáo một giá trị riêng. Có người xem đạo Phật như một hệ thống triết lý. Có người xem đạo Phật như một thái độ sống tĩnh lặng, nhu hòa và an lạc. Có người xem đạo Phật như một phương pháp luận về triết lý khoa học. Có người xem đạo Phật như tín lý thờ cúng, cầu an, cầu phước, cầu siêu cho linh hồn được giải thoát. Có người xem đạo Phật là một tôn giáo. Thậm chí, còn có người cho đạo Phật là một tín lý duy vật, vô thần. Tất cả họ đều có sự xác tín, vì thật ra, Đạo Phật là một hiện hữu mang đủ yếu tính của tất cả những khuynh hướng đó. Nhưng nếu chỉ tách bạch đạo Phật ra từng lối rẽ như thế thì khác nào tách một bông sen ra cánh, ra gương, ra nhụy, ra cành! Những phần đó cũng từ hoa sen nhưng chẳng phải là hoa sen.
Tại các xã hội Âu Mỹ ngày nay, cộng đồng tôn giáo và các tổ chức tâm linh thế giới càng ngày càng tìm cách tiếp cận và thông hiểu Phật giáo nhiều hơn.
Trong mùa Phật Đản và Vu Lan năm nay, Phật giáo nhận được một “món quà Bát Nhã” đầy ý nghĩa từ những tâm hồn tôn giáo và thiện hữu thế giới. Món quà bát nhã là món quà tâm không: Người cho cũng là người nhận, nên sự đồng cảm không còn phân biệt ta với người hay người với ta. Trong ta có người, trong người có ta nên không còn “mộng tưởng viễn ly điên đảo!”
Vào ngày 15-7-2009, báo chí đưa tin rằng, tại Geneve, Thụy Sĩ, Liên Hội Thăng Tiến Tôn Giáo và Tâm Linh Quốc Tế (International Coalition for the Advancement of Religious and Spirituality – Viết tắt là: ICARUS) đã bầu chọn Phật giáo là tôn giáo được tặng giải thưởng mang tên là Tôn Giáo An Lạc Nhất Thế Giới (Best Religion in the World). Chữ “best” rất khó dịch trong trường hợp nầy. Best là nhất, là hàng đầu, là trội hẳn hơn tất cả. Nhưng với đạo Phật thì tâm phân biệt nhất, nhì… chẳng có một ý nghĩa nào cả như theo quan niệm đời thường. Nếu còn động tâm thỏa mãn với thế đứng trên dưới thì sẽ trở thành “phi Phật giáo” mất rồi; dẫu rằng, bản chất hòa bình, an lạc của đạo Phật là nét trội bật hơn cả so với các tôn giáo khác trên thế giới. ICARUS quy tụ hơn 200 nhà lãnh đạo tôn giáo và tổ chức tâm linh khắp nơi trên thế giới. Họ đã cân nhắc chọn ra một danh sách 38 tôn giáo và tổ chức tâm linh lớn nhất của thế giới để bầu. Tiêu chuẩn của giải thưởng là: (1) Có đường lối hành đạo không bạo động, (2) thể hiện tình thương không phân biệt, (3) góp phần bảo vệ môi trường sống, (3) tôn trọng tính nhân bản, (4) nâng cao giá trị trí tuệ và tinh thần. Và, có lẽ đây cũng chỉ là những nét chung chung của mọi tôn giáo. Nhưng Phật giáo ghi được dấu ấn đậm nhất về đường lối hành đạo hiếu hòa, không bạo động.
Phải khách quan để nhận định rằng, các tôn giáo lớn trên thế giới có số lượng tín đồ, cơ sở vật chất, địa bàn hoạt động, tinh thần năng nỗ xông xáo trong việc truyền giáo phong phú hơn Phật giáo rất nhiều. Nhưng tinh thần từ bi hỷ xả, bất bạo động của họ trong quá trình hành đạo, khó có tôn giáo hay tổ chức tâm linh nào vượt qua Phật giáo. Đại diện lãnh đạo của các tôn giáo lớn như Thiên Chúa giáo (linh mục Ted O’Shaughnessy), Hồi giáo (giáo sĩ Tal Bin Wassad), Do Thái giáo (tu sĩ Rabbi Shmuel Wasserstein)… đều phát biểu tương tự rằng, họ là người chí thành với tôn giáo của họ và coi tôn giáo riêng của họ mới là thiêng liêng vào bậc nhất của thế giới, nhưng chỉ có duy nhất Phật giáo là trong suốt lịch sử hành đạo chưa bao giờ nhân danh đạo Phật để bắn ra một viên đạn hay thực hành bạo động. Ông Hans Groehlichen, chủ tịch ICARUS đã phát biểu: “Phật giáo thắng giải tôi không có gì ngạc nhiên cả, mặc dầu đại diện Phật giáo trong tổ chức này chiếm một tỷ số rất nhỏ.”
Điều thú vị là giải thưởng không biết trao cho ai. Nhà sư Miến Điện Bhante Ghurata Hanta được mời làm đại diện nhận giải thưởng cho Phật giáo đã khiêm cung trả lời: “Tôi rất cảm kích với sự ghi nhận và tặng thưởng nầy dành cho đạo Phật. Nhưng chúng tôi xin trao giải thưởng nầy cho toàn thể mọi người vì mỗi chúng sinh đều có Phật tánh trong mình.”
Ngay sau khi tin nầy từ Tribune de Geneve (Linda Moulin) được loan ra rộng rãi trên hệ thống internet. Hàng triệu người đã theo dõi và tham gia bình luận. Khen chê, đồng ý hay bất đồng là tâm lý thường tình ở đâu và đời nào cũng có cả. Nhưng chưa có ý kiến nào phủ nhận tinh thần hỷ xả, bất bạo động của Phật giáo xưa nay. Chữ “best”, như trình bày ở trên, đã làm động tâm nhiều người vì đức tin tôn giáo là một cảm nhận hoàn toàn chủ quan. Tất nhiên, ai cũng cho hệ thống tín lý của tôn giáo mình là bậc nhất họ mới theo. Bởi vậy, hầu như tất cả tu sĩ và tín đồ Phật giáo đều cảm kích trước cảm tình của những người bạn lành từ các tôn giáo khác dành cho Phật giáo, nhưng không ai là người muốn hay dám nhận rằng, mình hay tôn giáo mình đứng ở một thứ bậc cao thấp nào ở trần gian nầy cả.
Thêm được một bàn tay thân ái mở rộng đón chào là thêm được một niềm vui cho suối nguồn an lạc. Mùa Phật Đản và Vu Lan năm nay, người Phật tử và thiện hữu bốn phương dẫu có nhận hay không món quà tinh thần – một món quà Bát Nhã – thì vẫn chung nở một nụ cười hoan hỷ, hòa ái cho chính mình, cho bè bạn và thế giới quanh mình.

Trần Kiêm Đoàn
Sacramento, mùa Vu Lan 2009



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/09/2014(Xem: 12712)
Cụ bà Phúc Thái sinh năm 1923 tại Thái Bình, di cư vào nam 1935, lập gia đình và có 7 người con, hiện cụ có 16 người cháu và 6 chắc. Hiện cụ đã 91 tuổi đang tịnh dưỡng thiền tập và sống khỏe tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ
03/09/2014(Xem: 8449)
Đạo Tràng Từ Nghiêm tại Krefeld quy tụ gần 30 Nam Nữ Phật Tử đã về Tu Viện Viên Đức vùng Ravensburg(Đức Quốc) để tu học Thiền Vipassana qua sự hướng dẫn của Thượng Tọa Thiền Sư Walpola đến từ Tích Lan cũng như Thượng Tọa Anurudha(người Tích Lan đến từ Thụy Sĩ). Qúy Ngài dùng tiếng Anh và tiếng Đức để giảng pháp. Kinh tụng hằng ngày bằng tiếng Pali được dịch sang Việt Ngữ.
02/09/2014(Xem: 12065)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
14/08/2014(Xem: 12440)
Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) đã từ chức vào năm 2007, và chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do khi chưa làm được một năm, sau thất bại thảm hại của đảng này khi bầu cử Thượng viện. 12 tháng 9 năm 2007 : Nhiệm kỳ của ông lại bị phá hỏng vì hàng loạt cuộc từ chức của các Bộ trưởng Nội các và vụ tiết lộ về việc để mất số liệu lương hưu. Ông từ chức sau một năm tại nhiệm với lý do sức khỏe. Bảy tháng sau, Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) bị bệnh hay quên lãng và đã thử thách mình bằng cách dùng phương pháp trị liệu "Tọa thiền" ngồi thiền tại Chùa Zenshōan (臨済宗國泰寺)một ngôi chùa thuộc Thiền phái Lâm Tế ở huyện Yanaka, Tokyo.
19/07/2014(Xem: 6434)
Bài “Thiền trị được bệnh, tại sao?” (4.4.2011) tôi trình bày một trong những vấn đề tổng quát là Thiền có khả năng chống lại sự thoái hóa của telomeres. Điều nầy ảnh hưởng đến tuổi thọ và bệnh tật của chúng ta. Khoa học gia tìm thấy, Thiền có khả năng cải thiện telomeres làm cho con người trẻ ra, già chậm và ngăn ngừa được nhiều bệnh tật. Tìm hiểu vai trò của telomeres đối với sự lão hóa và bệnh tật, chúng ta sẽ có một đời sống thọ hơn, khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc hơn. Bà Elizabeth Blackburn được giải Nobel về y học do ba đã tìm ra sự liên hệ giữa telomeres và tuổi thọ. Tại Đại học San Francisco, bang California, một nhóm chuyên gia do bà hướng dẫn, thí nghiệm xem phải chăng Thiền có thể chống lão hóa và tăng tuổi thọ (slow aging and lengthen life) mà truyền thống Đông phương thường nói đến. Lúc làm việc với hóa học gia Joe Gall tại Đại học Yale vào các năm 1970, bà Blackburn thường nối các đầu nhiễm sắc thể của sinh vật đơn bào mà bà đặt tên là tế bào của sinh vật sống trong
18/07/2014(Xem: 6684)
* Giác ngộ không phải là một công việc riêng tư chẳng can dự gì đến khối lớn cộng đồng; điểm tựa của nó được đặt ngay trong lòng vũ trụ. (…) Cái được gọi là “thiện căn” chỉ có giá chừng nào nó làm lợi ích cho tất cả thế gian. Nếu không thể phụng sự cho toàn thể môi trường gồm những thân thuộc mà mình đứng trong đó – nghĩa là, nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức”của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt, và chẳng có cái lối chứa nhóm nào như vậy mà lại có thể làm trỗi dậy ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề tâm). (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển hạ, luận IV; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
17/07/2014(Xem: 8435)
Trong sự đi hoang nào đó của tư tưởng, cảm xúc, ngôn ngữ, thì bản chất của ngôn ngữ, âm thanh đều là vô thường, giới hạn, và không thật, vì nó không có thực tính độc lập, phải nương với nhau mà thành, nhờ vào căn, trần, thức mở lối nên mới hiện hữu. Người ta tạm định nghĩa, “ngôn ngữ chỉ là một công cụ” dùng để biểu đạt ý nghĩ, trạng thái tâm sinh lý để người khác nhận biết, thấu hiểu, cảm thông. Có nhiều dạng ngôn ngữ, ta có thể tạm chia ra làm hai, ngôn ngữ xuất phát ở bên trong (nội tính) và ngôn ngữ thể hiện ở bên ngoài (ngoại tính). Cho dù phát xuất từ đâu, một khi xử dụng nếu ta không có trí tuệ, chân thật, ái ngữ, lợi hành, lợi người, thì không khéo sự biểu đạt ấy, đôi khi lại là mầm mống, nguyên nhân của những hiểu lầm, ngộ nhận, xích mích, đáng tiếc khác.
24/05/2014(Xem: 15596)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đề mà giác ngộ thành Phật. Cho nên, mục đích tối hậu của thiền Phật Giáo là thành Phật, là giác ngộ chân tánh. Vì vậy, Thiền Tông chỉ nói đến “kiến tánh thành Phật,” không nói gì khác.
21/05/2014(Xem: 7207)
Mục tiêu của thiền dĩ nhiên là để kiến tánh và chứng ngộ, nhưng đó không phải là nơi an trụ cuối cùng. Thiền bao gồm Phật giáo và là sự thực hành Phật đạo. Thế thì Phật giáo là gì? Và Phật đạo là gì ? Nhiều người cho rằng Phật giáo chỉ là những chuyện về thiên đường, địa ngục, và làm sao để tẩn liệm một xác chết, hoặc có thể là một ông già nào đó nói về sự xả ly.
21/05/2014(Xem: 7329)
Nhiều người gặp tôi trong bệnh viện thường hỏi tôi Thiền là gì. Tôi giải thích với họ Thiền chú ý về một đối tượng đặc biệt nào đó nhằm một mục tiêu đặc biệt. Những người thực tập tâm linh trong các truyền thống khác nhau trong nhiều quốc gia đã sánh tạo ra nhiều cách thực hành thiền khác trong nhiều thế kỷ. Có thể nói có hàng trăm cách thực hành thiền khác nhau và mục đích của Thiền là ‘thức tỉnh’, giúp chúng ta chuyển hóa và thay đổi, nhờ hiểu biết, lòng từ bi và đạt được cái nhìn đúng (chính kiến).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]