Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thà Như Giọt Mưa

10/12/201922:50(Xem: 5703)
Thà Như Giọt Mưa
                            
troimuavathu_1
                              THÀ NHƯ GIỌT MƯA                                                   
                                                                                          Thích Nữ Huệ Trân

“Thà như giọt mưa, vỡ trên tượng đá

Thà như giọt mưa, khô trên tượng đá

Thà như mưa gió, đến ôm tượng đá

Có còn hơn không,

Có còn hơn không …”

Đó là những câu mở đầu bài thơ của một người làm thơ như ăn cơm, làm thơ như uống nước, làm thơ như thiền hành, làm thơ như tĩnh tọa, làm thơ như say ngủ …. Làm thơ mà như chưa từng nghĩ là mình làm thơ, huống chi, nhọc nhằn khoác vào mình những hư danh nhân thế.

          Đó là người làm thơ, tên gọi Nguyễn Tất Nhiên. Tên như định mệnh. Tất Nhiên. Tất nhiên là thế. Tất nhiên như vậy. Nhưng “Là thế” là thế nào? “Như vậy” là ra sao?

          Có thắc mắc chăng là nhân thế. Nguyễn Tất Nhiên không thắc mắc. Bởi vì người đó làm gì có sát-na nào dành cho thắc mắc! Từng giây từng phút hiện hữu, người đó chỉ làm thơ và cõi thơ của người đó là hoa tâm mở rộng. Không nghi hoặc gì. Không oán than gì. Không giận hờn gì. Không chờ đợi cũng chẳng đòi hỏi gì. Đời cho. Ta cám ơn. Đời không cho. Ta cũng cám ơn.

          Như gió. Cũng ngọn gió đó, mùa hè được trân quý, mùa đông lại bị nguyền rủa, đuổi xua! Nhưng gió chỉ lặng thinh, vẫn đến và đi, trăm năm như thoáng chốc, thoáng chốc tựa trăm năm…

 

          Chiều nay, tâm bỗng quyện vào những giọt mưa từ cõi huyễn hoặc này. Những giọt mưa tưởng như chỉ mới rơi từ nhiều thập niên qua, nhưng tới nay mới nhận ra là mưa đã rơi từ vô lượng kiếp.

          Tại sao tới nay mới nhận thấy?

          Bao người đã từng hát những câu thơ này, như tôi, hát từ thuở thơ ngây, nhưng hát, như con chim ngứa cổ, ngẩng nhìn trời mây và cất tiếng, tuyệt nhiên chẳng cần biết cái ngôn ngữ được diễn đạt bằng âm thanh đó mang tâm ý gì.

          Thế nên, từ nhiều thập niên qua, cứ vô tâm hát mà không nhận ra bài pháp TỨ DIỆU ĐẾ” ở ngay trong những tiếng mưa rơi:

          “Người từ trăm năm, về như dao nhọn

          Người từ trăm năm, về như dao nhọn

          Dao vết ngọt đâm ta chết trầm ngâm

          Dòng máu chưa kịp tràn

          Dòng máu chưa chảy đầm”    

          Đó là SỰ CÓ MẶT CỦA  KHỔ ĐAU. Vì thế mà ngọn Bát Phong dạt tới có làm tơi tả lá hoa thì cây vẫn cam chịu như những gì chẳng thể tránh! Bởi thế, tiếng mưa lại xôn xao nhắc nhở:

 

          “Người từ trăm năm, về khơi tình động

          Người từ trăm năm, về khơi tình động

          Ta chạy vòng vòng, ta chạy mòn hơi

          Nào có hay đời cạn,

          Nào có hay cạn đời”

          Đó là SỰ CÓ MẶT CỦA NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ ĐAU.

 

          Mưa không ngừng rơi, không ngừng quán chiếu:

          “Thà như giọt mưa, vỡ trên tượng đá

          Thà như giọt mưa, khô trên tượng đá

          Thà như mưa gió, đến ôm tượng đá

          Có còn hơn không

          Có còn hơn không”

 

          Có gì?

          Có sự tỉnh thức để CHẤM DỨT SỰ KHỔ ĐAU. Muốn chấm dứt khổ đau phải nhìn ra huyễn giả:

          “Người từ trăm năm, về qua sông rộng

          Người từ trăm năm, về qua sông rộng

          Ta ngoắc mòn tay, ta ngoắc mòn tay

          Chỉ thấy sông lồng lộng,

          Chỉ thấy sông chập chùng

          Người từ trăm năm, về phai tóc nhuộm

          Người từ trăm năm, về phai tóc nhuộm

          Ta chạy mòn đời, ta chạy tàn hơi

          Quỵ té trên đường rồi,

          Sợi tóc vương chân người”

 

          Mây tan rồi mà mưa vẫn rơi. Vì mưa thương trần thế. Mưa nhỏ lệ từng giọt, dẫn CON ĐƯỜNG ĐI TỚI SỰ CHẤM DỨT KHỔ ĐAU.

          “Thà như giọt mưa, vỡ trên tượng đá

          Thà như giot mưa, khô trên tượng đá

          Để ta nghe thoáng tiếng mưa vội đến

          Những giọt rưng rưng, ướt ngọn lông măng

          Khiến người trăm năm, đau khổ ăn năn …”

 

          Trời ơi, bài thơ từ nhiều thập niên qua, bao người đã “hát cho vui”, sao giờ phút này, trong am thất tĩnh lặng, tôi lại nhìn ra hành trình Tứ Diệu Đế của tác giả?

          Thôi,

          Chẳng còn chi nghi hoặc nữa.

          Người chạm được vào Phật-tánh của chính mình mới có thể thoát tục giữa bủa vây phiền não mà cất lên tiếng thơ như thế!

          Người chạm được vào Phật-tánh của chính mình mới có thể lặng lẽ đến sân chùa, buông bỏ hệ lụy đời-thường mà thả hồn thơ vào hương đêm quyện tiếng chuông ngân!

         

          Không ai biết đã bao lần như thế, nhưng rồi, trong sân ngôi chùa đó, một khuya  cô tịch, không cả tiếng chuông ngân, chỉ với Đêm và Sao, người làm thơ mang tên Nguyễn Tất Nhiên đã an nhiên thị tịch, không ai biết, không ai hay, chỉ có Đêm, Trăng và Sao đưa tiễn!

 

          Một người Đến và Đi như thế, khi thốt lên: “Có còn hơn không” thì không phải cái Có, Không của cõi Ta-bà, mà cái Có đó phải là “Cái Có của núi Tu Di trong hạt cải, Cái Có của đại dương nằm trong vỏ ốc”

          Cái Có đã như thế thì cái Không phải là “tự tánh không của vạn pháp”. Tự tánh đó chính là “Không có, Không không, Không sanh, Không diệt, Không thành, Không hoại”

          Không một pháp nào từ KHÔNG thành CÓ.

          Không một pháp nào từ CÓ thành KHÔNG.

 

          Còn thấy Có, thấy Không là còn đang oằn vai ngũ trược, làm sao chiêm ngưỡng Tổ Đạt Ma cưỡi bè lau về Thiên Trúc, hay qua sông bằng chiếc dép cỏ mà lòng chẳng chút hoài nghi? 

                                                                                       

TN Huệ Trân

(Về một người làm thơ đã đi vào Cõi Thơ Bất Tận -

Một người viết nhạc đã đi vào Biển Nhạc Vô Biên)

 

Thơ Nguyễn Tất Nhiên

Nhạc Phạm Duy

 

            

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2014(Xem: 8412)
Đạo Tràng Từ Nghiêm tại Krefeld quy tụ gần 30 Nam Nữ Phật Tử đã về Tu Viện Viên Đức vùng Ravensburg(Đức Quốc) để tu học Thiền Vipassana qua sự hướng dẫn của Thượng Tọa Thiền Sư Walpola đến từ Tích Lan cũng như Thượng Tọa Anurudha(người Tích Lan đến từ Thụy Sĩ). Qúy Ngài dùng tiếng Anh và tiếng Đức để giảng pháp. Kinh tụng hằng ngày bằng tiếng Pali được dịch sang Việt Ngữ.
02/09/2014(Xem: 11897)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
14/08/2014(Xem: 12206)
Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) đã từ chức vào năm 2007, và chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do khi chưa làm được một năm, sau thất bại thảm hại của đảng này khi bầu cử Thượng viện. 12 tháng 9 năm 2007 : Nhiệm kỳ của ông lại bị phá hỏng vì hàng loạt cuộc từ chức của các Bộ trưởng Nội các và vụ tiết lộ về việc để mất số liệu lương hưu. Ông từ chức sau một năm tại nhiệm với lý do sức khỏe. Bảy tháng sau, Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) bị bệnh hay quên lãng và đã thử thách mình bằng cách dùng phương pháp trị liệu "Tọa thiền" ngồi thiền tại Chùa Zenshōan (臨済宗國泰寺)một ngôi chùa thuộc Thiền phái Lâm Tế ở huyện Yanaka, Tokyo.
19/07/2014(Xem: 6407)
Bài “Thiền trị được bệnh, tại sao?” (4.4.2011) tôi trình bày một trong những vấn đề tổng quát là Thiền có khả năng chống lại sự thoái hóa của telomeres. Điều nầy ảnh hưởng đến tuổi thọ và bệnh tật của chúng ta. Khoa học gia tìm thấy, Thiền có khả năng cải thiện telomeres làm cho con người trẻ ra, già chậm và ngăn ngừa được nhiều bệnh tật. Tìm hiểu vai trò của telomeres đối với sự lão hóa và bệnh tật, chúng ta sẽ có một đời sống thọ hơn, khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc hơn. Bà Elizabeth Blackburn được giải Nobel về y học do ba đã tìm ra sự liên hệ giữa telomeres và tuổi thọ. Tại Đại học San Francisco, bang California, một nhóm chuyên gia do bà hướng dẫn, thí nghiệm xem phải chăng Thiền có thể chống lão hóa và tăng tuổi thọ (slow aging and lengthen life) mà truyền thống Đông phương thường nói đến. Lúc làm việc với hóa học gia Joe Gall tại Đại học Yale vào các năm 1970, bà Blackburn thường nối các đầu nhiễm sắc thể của sinh vật đơn bào mà bà đặt tên là tế bào của sinh vật sống trong
18/07/2014(Xem: 6665)
* Giác ngộ không phải là một công việc riêng tư chẳng can dự gì đến khối lớn cộng đồng; điểm tựa của nó được đặt ngay trong lòng vũ trụ. (…) Cái được gọi là “thiện căn” chỉ có giá chừng nào nó làm lợi ích cho tất cả thế gian. Nếu không thể phụng sự cho toàn thể môi trường gồm những thân thuộc mà mình đứng trong đó – nghĩa là, nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức”của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt, và chẳng có cái lối chứa nhóm nào như vậy mà lại có thể làm trỗi dậy ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề tâm). (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển hạ, luận IV; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
17/07/2014(Xem: 8270)
Trong sự đi hoang nào đó của tư tưởng, cảm xúc, ngôn ngữ, thì bản chất của ngôn ngữ, âm thanh đều là vô thường, giới hạn, và không thật, vì nó không có thực tính độc lập, phải nương với nhau mà thành, nhờ vào căn, trần, thức mở lối nên mới hiện hữu. Người ta tạm định nghĩa, “ngôn ngữ chỉ là một công cụ” dùng để biểu đạt ý nghĩ, trạng thái tâm sinh lý để người khác nhận biết, thấu hiểu, cảm thông. Có nhiều dạng ngôn ngữ, ta có thể tạm chia ra làm hai, ngôn ngữ xuất phát ở bên trong (nội tính) và ngôn ngữ thể hiện ở bên ngoài (ngoại tính). Cho dù phát xuất từ đâu, một khi xử dụng nếu ta không có trí tuệ, chân thật, ái ngữ, lợi hành, lợi người, thì không khéo sự biểu đạt ấy, đôi khi lại là mầm mống, nguyên nhân của những hiểu lầm, ngộ nhận, xích mích, đáng tiếc khác.
24/05/2014(Xem: 15361)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đề mà giác ngộ thành Phật. Cho nên, mục đích tối hậu của thiền Phật Giáo là thành Phật, là giác ngộ chân tánh. Vì vậy, Thiền Tông chỉ nói đến “kiến tánh thành Phật,” không nói gì khác.
21/05/2014(Xem: 7175)
Mục tiêu của thiền dĩ nhiên là để kiến tánh và chứng ngộ, nhưng đó không phải là nơi an trụ cuối cùng. Thiền bao gồm Phật giáo và là sự thực hành Phật đạo. Thế thì Phật giáo là gì? Và Phật đạo là gì ? Nhiều người cho rằng Phật giáo chỉ là những chuyện về thiên đường, địa ngục, và làm sao để tẩn liệm một xác chết, hoặc có thể là một ông già nào đó nói về sự xả ly.
21/05/2014(Xem: 7309)
Nhiều người gặp tôi trong bệnh viện thường hỏi tôi Thiền là gì. Tôi giải thích với họ Thiền chú ý về một đối tượng đặc biệt nào đó nhằm một mục tiêu đặc biệt. Những người thực tập tâm linh trong các truyền thống khác nhau trong nhiều quốc gia đã sánh tạo ra nhiều cách thực hành thiền khác trong nhiều thế kỷ. Có thể nói có hàng trăm cách thực hành thiền khác nhau và mục đích của Thiền là ‘thức tỉnh’, giúp chúng ta chuyển hóa và thay đổi, nhờ hiểu biết, lòng từ bi và đạt được cái nhìn đúng (chính kiến).
21/05/2014(Xem: 6502)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa. Nó giúp chúng ta lập lại thăng bằng của đời sống trong gia đình, bạn bè và nhất là duy trì và tăng cường sức khỏe. (Viết theo Barry Boyce và những người Biên Tập của Shambhala Sun)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]