Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thanh Tịnh - Con Đường Độc Nhất

09/08/201906:49(Xem: 4448)
Thanh Tịnh - Con Đường Độc Nhất

phat thanh dao

THANH TỊNH – CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT [1]

                                                                                               

Thích nữ Tịnh Vân
(English version)

           

‘Khổ và sự diệt khổ’ là trọng tâm của lời đức Phật dạy, được diễn đạt qua Kinh Chuyển Pháp Luân.[2]

 

‘Idaṁ dukkhaṁ ariyasaccaṁ’ pariññeyyan-ti

‘Chính sự thật về khổ’, cần được con người am hiểu, rõ biết tường tận.[3]

Nhận định này có thể tư duythông qua bài kinh ‘Ví Dụ Tấm Vải’[4] như sau: Ví như tấm vải bị hoen ố, vấy bẩn và người thợ nhuộm đã cố gắng làm đẹptấm vải bằng cách nhúng nó vào thuốc nhuộm loại tốt này hay loại tốt khác, nhưng kết quả cho ra không được như ý. Bởi vì thực chất của tấm vải là dơ bẩn, không sạch, uế nhiễm. 

 

Cũng vậy, khi tâm bị cấu uế, vẩn đục, bất lương, các cõi dữ nhưđoạ xứ, ác thú, ngạ quỷ sẽ xuất hiện.Những loạitâm cấu uế, bất thiện thường gồm trong các loại sau:

 

  1. Tham dục và tà tham (abhijjhā-visamalobha),
  2. 2.      Nóng giận (vyāpāda),
  3. Phẫn nộ (kodha),
  4. 4.      Hiềm hận (upanāha),
  5. Giả dối (makkha),
  6. Não hại (palāsa),
  7. Tật đố (issā),
  8. Xan tham (macchariya),
  9. 9.      Man trá (māyā),

10. Phản bội (sātheyya),

11. Ngoan cố (thambha),

12. Bồng bột (sārambha),

13. Ngã mạn (māna),

14. Tăng thượng mạn (atimāna),

15. Kiêu căng(mada),

16. Phóng dật (pamāda).

 

‘Idaṁ dukkhanirodhaṁ ariyasaccaṁ’ sacchikātabban-ti

Cómột ‘sự thật tiêu diệt được khổ’, làm con người dứthẳn khổđau,an vui, trong sáng, thanh thoát, Niết bàn cần nên trải nghiệm.[5]

 

Ví như có người từ bỏ, diệt trừ, giải thoát, đoạn tận và xả ly từng phần trong 16 tâm bất thiệnkia/cittassa upakkilesa,người đó sẽ đạt được nghĩa tín thọ và pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ đến Pháp. Khi vị đó hân hoan, hỉ sanh, từ hỉ thân được khinh an, do thân khinh an cảm giác lạc thọ, với lạc thọ tâm vị này định tĩnh.[6]Cũng thế, khi tâm trong sạch, an tịnh, không phiền não, không cấu uế,dễ sử dụng, nhất địnhcõi tịnh, an lạc, Niết bàn, giải thoát sẽ hiện khởi.   

 

            Hai sự thật vừa trình bày trên,tạosức mạnhthôi thúc đức Phật ra đi,tìm cầu giải pháp khổ đau, trống vắng, biếnđổi, mất chủ thể. Đó là nhân chính khiến Ngài thị hiện ở cõi Ta bà : ‘Này các Tỳ Kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ tuyên bố về Khổ và sựDiệt khổ’.[7]

 

Thật vậy, thiếu hiểu biết về nhận thức Bốn sự thật (khổ, nhân khổ, diệt khổ, và con đường đưa đến diệt khổ), người đời say đắm,hưởng thụ, nhiễm trong năm dục lạc (rūpa/sắc, sadda/thanh, gandha/hương, rasa/vị, và phoṭṭhabba/xúc), họ sẵn sàng buông thả tư duy, mặc cho các ác, bất thiện, tội lỗi có cơ hội cấu kết, tham dự, tiếp sức,lẩn vào, len lỏi trong tâm, từđó tham, sân và si dấy khởi: ‘Người như vậy là người chính tự mình bị sanh, già, …bệnh... chết… sầu… bi.. khổ … ưu … não… , lại tự mình đi tìm cầu hạnh phúc trong sanh, già…bệnh... chết… sầu… bi.. khổ … ưu … não…’.[8]Một tầm cầu thật tầm thường, vô bổ, đáng thương.

 

Trong khi những người khác ở trong sanh, già, …bệnh... chết… sầu… bi.. khổ … ưu … não… lại đi tìm cầu cái không sanh, không già,…không bệnh... không chết… không sầu… không bi.. không khổ … không ưu … không não…Sự tìm cầu quý báu, trân trọng, cao thượng, đáng kính.[9]

           

Nhân đây,đức Phật dạy hàng đệ tử của Ngài hãy nên hướng đến chúng sanh, tudưỡng Bốn Vô Lượng Tâm(Brahma-vihāra) với nhận thức rằng, trong vòng luân hồi sanh tử vô tận, tất cả chúng ta đã từng là cha, mẹ, con cái, anh, chị, em, bạn bè… bà con quyến thuộc của nhau…

 

Bốn tâm vô lượng này được xem là cao thượng (Brahma) vì chúng là con đường đạo đức trong sáng, chân chánh, thánh thiện, giản dị và lý tưởng, hướng tâm đến tất cả các loài hữu tình(sattesu sammā paṭipatti). Chúng cũnglà những nơi trú ngụ (vihāra) an toàn, bình yên nhất cho bất kỳ những loài hữu tình nào muốn lưu trú.

 

Lòng từ / Mettā(thiện chí, yêu thương, tử tế) nơi vắng bóng căm phẫn, tức tối, sân hận, chỉ vì ước muốn cho lợi ích và an lạc muôn loài.

 

Bi /Karuṇā(lòng thương) sự thông cảm, đồng cảm với nỗi đau của chúng sanh, ởđây ác tâm, độc tâm, hiểm tâm không bao giờnhen nhúm.

 

Hỷ /Muditā(sự tán đồng, đồng tình), hân hoan, hoan hỷ với các điều tốt, hạnh lành;chúc mừng, ca tụng, ngợi khen sự thành đạt của người.Trong niềm an vui này, bực bội, tức tốikhông thểhiện diện.

 

            Xả / Upekkhā(tâm bình đẳng, thanh thản), một thái độ cởi mở, vô tư, thả lỏng,không dính mắc, không chấp thủ, không thiên vị đối với chúng sanh, thái độ này đối trị lòng tham, đắm nhiễm.[10]

 

Trong Bốn Tâm vô lượng (Brahma-vihāra), tâm xảđược xem là quan trọng nhất, vì những tư duy như‘của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi’bị tiêu diệt hoàn toàn. Do vậy, giáo lý tánh không, vô ngã (anattā) chính là kim chỉ nam hướng chúng ta đến bờan lạc, giải thoát. Bản chất kiên định của tánh không chính là biểu hiện sức mạnh tối thắng, vượt trội.

           

            ‘Này các Tỳ kheo, nếu vị Tỳ kheo nào có giới, định, tuệ như vậy, trong khi vị ấy sử dụng bốn loại thức ăn để duy trì mạng sống, sẽ không có bất kỳtrở ngại nào’.[11] Bốn loại thức ăn đó là:

 

  1. Đoàn thực/ kabaliṅkāhāra / thức ăn thông thường hàng ngày, thô và tế
  2. Xúc thực/  phassa / sự giao tiếp giữa căn và trần có chánh niệm, tỉnh giác
  3. Tư niệm thực / mano – sañcetanā / luôn nhớ nghĩ về Phật, Pháp, Tăng
  4. Thức thực / viññāṇa / nhận thức rốt ráo về giá trị của tấm thân này, tô bồi đạo đức cho sáng

           

Cấu tạo con người là vô ngã(anattā), sự tạo thành đó lại luôn biến đổi (vô thường/ anicca), bất kỳ cái gì không thường cái ấy luôn chịu khổ đau ‘Yaṃ aniccaṃ taṃ dukkhaṃ’.[12] Từđó nhận định, một chúng sanh nếu tự thân có chứa đựng bản chất sanh khởi, tự thân đó cũng chứa đựng bản chất huỷdiệt. Chứng cứ này được tìm thấy trong đoạn văn nổi tiếng của kinh tạng Pāli với công thức như sau:

 

‘Yaṁ kiñci samudayadhammaṁ,

Cái gì sẵn có bản chất của sanh

sabbaṃ taṃ nirodhadhammaṃ-ti.

cái đó sẵn có bản chất của diệt’.[13]

 

Cũng thế, chấp vào, dính mắc, nắm giữtấm thân năm uẩn này,khác nào cố giữthanh gươm sắc bénkhi rútkhỏi vỏ‘Kinh Ví Dụ Con Rắn’(S. IV., 174).Khư khưgiữ gánh nặng‘Kinh Gánh Nặng’(S. III., 25).Loài quỷđói trong kinh ‘Đọa xứ’(S. III., 87f).Cố giữ vật gì đó không thường hằng, không thực thểđể rồi khổđau, khichúng hình thành và hoạidiệt theo kinh ‘Yamaka’(S. III., 112f). Diễn đạtchi tiết hơn, sắc được ví như khúc gỗ bềnh bồng trên sông, không có chân đứng. Thọ như bọt nước dễ tan biến. Tưởng nhưảoảnh dễmắc lừa. Hành như thân chuối không cốt lõi. Thức như trò ảo thuật với nhiều thủđoạn(S. III., 140-2).

 

            Biết và thấy mối quan hệ củamỗi uẩn với thân này rồi, sự níu kéothân năm uẩn cần phải loại bỏ với chánh trí như sau:

‘Cái này không phải của tôi (n’etaṃ mama),

Cái này không phải là tôi (n’eso’haṃ asmi),

Cái này không phải là tự ngã của tôi (na me so attā)’.[14]

 

Khi con ngườibiết và thấy như vậy, khuynh hướng ngã mạn ‘tôi làm hay do tôi làm’ không ám ảnh. Nhờ ly tham, tâm vị ấy được giải thoát. Khi được giải thoát vị ấy biết ‘tôi đã giải thoát’. Vị ấy tuệ tri rằng ‘sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì cần làm đã làm, sau đời này không còn tái sanh nữa’.[15]

 

            Chúng ta cần lưu ý vấn đềở đây rằng,đức Phật không dạy năm uẩn là khổđau hay biến hoại, vô thường. Ngài chỉ đơn giản khiến chúng ta tựđặt câu hỏi cho chính mình: ‘Có thật xứng đáng để tham chấp năm uẩn là tôi, của tôi, tự ngã của tôi hay không’?[16]Nếu còn cốchấp vào thân này, cần từ bỏ liền ý nghĩ đó. Sự thật mà nói, khổ đau chính là lẩn quẩn, luân hồi, vướng bận, không lối thoát (saṃsāra).Diệt khổ là thanh tịnh, an vui, bình thản, nhẹ nhàng, giải thoát, Niết bàn. Cả hai phương diện này cùng một chất lượng, bản chất:

 

‘Khi cái này có, cái kia có. Khi cái này sanh, cái kia sanh.

(Imasmiṃ sati, idaṃ hoti. Imassuppādā, idaṃ uppajjati).[17]

 

Tương tự, chúng ta cần phải thanh lọc tam nghiệp thân, khẩu, ý bằng cách luôn tự mình phản tỉnh nhiều lần. Trong khi quán chiếu đối tượng với những phẩm chất và đặc tánh của nó, sẽ giúp chúng ta phát sinh tuệ giác:

 

‘Khi cái này không có, cái kia không có.

Khi cái này đoạn diệt, cái kia đoạn diệt’

(Imasmiṃ asati, idaṃ na hoti. Imassa nirodhā, idaṃ nirujjhati).[18]

 

Đệ tử chính tông của đức Phật, tu tập theo con đường Trung Đạo nhằm đoạn trừ tham và sân, làm khởi lên ‘nhãn , trí , tuệ , minh , quang’(cakkhuṁ udapādi, ñāṇaṁ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi).

 

Từ những trình bày trên, thật dễ nhận ra rằng ‘không có sợ hãi, không có nguy hiểm, không có thảm hoạ đến với người trí’[19] vì người trí là những người tín thành, đặt trọnlòng tin nơi Tam Bảo, những người không bị chi phối bởi sanh già bệnh chết, sầu bi khổưu não. Người trí là người sống viễn ly và tuỳ học viễn ly. Họ sẵn sàng từ bỏ những gì bậc Đạo sư dạy nên từ bỏ. Họ sống thật giản dị, chân thật, không sa ngã, truỵ lạc, họluôn đi đầu trong hạnh viễn ly. 

 

            Người trí biết gieo trồng căn lành nhiều đời, nhờ vậy họđoạn trừ các phiền não, chướng ngại làm ngăn trở tâm an lạc. Đó là lý do vì sao đức Phật từng dạy ‘đoạn trừ các lậu hoặc chỉ dành cho người biết và thấy, không thể dành cho người không biết, không thấy’.[20]

 

Có bảy phương pháp đoạn trừtất cả các loạilậu hoặc[21] dành cho người biết và thấy, những người thiện xảo trong Pháp và Luật của đức Thế Tôn. Họlà những người tỉnh thức, biết tác ý những gì cần tác ý, không tác ý những gì không đáng tác ý. Nhờ vậy, các lậu hoặc, cấu uế, nhiệt nãotrong tâm được trừ khử. Cấu uế, lậu hoặc, phiền não, tham sân si, kiết sử, triền cái được dứt hẳn nhờ:

  1. Biết và thấy sự nguy hiểm.
  2. Khéo phòng hộ các căn.
  3. Tri túc trong thọ dụng.
  4. Kham nhẫn là đức hạnhđi đầu.
  5. Tránh né những nơi không an toàn.
  6. Đoạn diệt những gì độc hại.
  7. Tu tập, rèn luyện ý chí hướng thượng, cao quý.

 

Pháp của đức Phật để lại cho hàng đệ tử không chỉ có nghe, học mà cần tư duy và hành trì. Nhờ Pháp, chúng ta nhận ra gì là chân thiện mỹ. Pháp giúp công hạnh sáng ngời, tâm linh thánh thoát. Pháp giúp vun trồng, tích trữ căn lành nhiều đời, giảm dần, triệt tiêu các điều tội lỗi, tâm sáng nhờcon đường bát chánh dẫn lối, tiến thẳng vào các ngõ thấy, suy tư, nói năng, tạo nghiệp, hành nghề, tinh cần, nghĩ nhớ, chuyên nhất, hiểu biết và hiểu biết hoàn toàn.

 

Trong cái hiểu biết hoàn toàn, mọi khổđau chấm dứt, tâm trạng tham lam, nóng giận, mờ mịt không chỗ bám víu, cảnh giới thuần tịnh, mát mẻ, thanh lương, bình an hiển lộ. Con người giờđây,tuy xác là phàm nhưng tâm là thánh.Đó là ý nghĩa Thanh Tịnh – Con đường độc nhất. 

 

Đời sống làm rung động lòng người nhờ biết lắng lòng, quan tâm và tỏthái độ quan tâm. Có năm cách làm người dễ gần gũinhau: (i) đức tin /saddhā dựa trên hiểu biết và trải nghiệm (ii) hạnh lành / sīla(iii) cầu tiến, học hỏi /suta (iv) mởrộng lòng / cāga (v) ứng xử như người có trí / paññā.[22]

 

Một cách vắn tắt, ‘này các Tỳ kheo, duy chỉ có một con đường, đưa lại thanh tịnh cho các chúng sanh, vượt qua sầu bi, diệt trừ khổưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn’[23](Ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggo sattānaṃ visuddhiyā, sokaparidevānaṃ samatikkamāya, dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya, ñāyassa adhigamāya, nibbānassa sacchikiriyāya).Chúng ta hãy kính cẩn, thọ trì, thừa tự Pháp bảo.

 

 

 



[1]Vesak 2014 tại Bái Đính

[2]Mahāvagga

[3]Dhammacakka-ppavattana-suttaṃ

[4] M. I, Vatthūpama sutta

[5]Dhammacakka-ppavattana-suttaṃ

[6] M. I, Vatthūpama sutta

[7] M. I, 140

[8] M. I, 26

[9] Ibid

[10] D. III., 248

[11] M. I, Vatthūpama sutta

[12]M. I, No 13

[13]Dhammacakka-ppavattana-suttaṃ

[14]M. III, No 109

[15] Ibid., No 112

[16] M. I, 22

[17]S.II, p.27 - 8

[18] Ibid

[19] A. III, 1

[20] M. I, 2

[21] Ibid

[22] A. III., p. 66

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/10/2020(Xem: 3554)
Có lẽ bài viết này sẽ không đúng thời, đúng lúc vào hoàn cảnh hiện nay (riêng cho Việt Nam, các miền Bắc Trung Bộ từ Quảng Trị vào đến Thừa Thiên (Huế) nơi các vị Thầy khả kính của tôi đang chịu nhiều áp lực của thiên tai (sạt lỡ và lũ lụt trầm trọng hơn bao giờ hết, vượt lên trên những hậu quả của năm 1999 và hơn thế nữa... thế giới đang chịu nạn đại dịch Covid 19 hoành hành làm ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Nhưng hậu bối trộm nghĩ nếu mình không ráng tu học để được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi khi còn được may mắn có cơ hội làm người và có cơ hội giác ngộ hơn những động vật và loài cỏ đá vô tình, thì cũng uổng phí một đời...
03/09/2020(Xem: 3357)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư. Bản thân người viết không phải là một thẩm quyền nào; do vậy, nơi đây chỉ là một cố gắng trong khả năng hạn hẹp để đọc lại và ghi chép lại một số lời dạy từ kinh luận, hy vọng sẽ giúp làm sáng tỏ một số thắc mắc. Các chữ viết tắt trong bài này có thể đọc ở Đại Tạng Kinh (1) với các kinh: DN là Trường Bộ Kinh, MN là Trung Bộ Kinh, SN là Tương Ưng Bộ Kinh, AN là Tăng Chi Bộ Kinh, Sn là Kinh Tập trong Tiểu Bộ, Ud là Kinh Phật Tự Thuyết, SA là Tạp A Hàm,
17/07/2020(Xem: 5984)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
10/07/2020(Xem: 5504)
Thực tập thiền chánh niệm sẽ giúp cho chúng ta cảm nhận được sự an lạc trong từng giây phút của cuộc sống. Thiền cũng tăng sự tập trung, tăng hiệu quả của bộ nhớ, vượt qua áp lực và căng thẳng trong đời sống hằng ngày. Các lớp học gồm có: Lớp 1: LỚP SƠ CẤP ONLINE - Thời lượng 8 tuần vào lúc 4pm tới 5:30pm chiều thứ 7 hàng tuần. (For English class: Friday Evenings: 7pm to 8:30pm from July 17 to September 4, 2020) Lớp 2: LỚP TRUNG CẤP - Thời lượng 10 tuần vào lúc 8am tới 10am sáng Chủ Nhật hàng tuần. (For English class: Saturday Evenings: 6:30pm to 8:30pm from July 18 to September 19, 2020)
30/06/2020(Xem: 9707)
Đây là cuốn sách viết bằng song ngữ Anh-Việt của cư sĩ Nguyên Giác. Sách dày 319 trang vừa được Ananda Viet Foundation (Nam California) xuất bản. Cư sĩ Nguyên Giác tu học với một số thiền sư tiền bối nổi tiếng trước 1975 như Thích Tịch Chiếu, Thích Thường Chiếu, Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang. Cư sĩ Nguyên Giác say mê Thiền, nghiên cứu về Thiền, viết về Thiền và sống chết với Thiền. Ông đã xuất bản tám cuốn sách về Thiền. Nay ở tuổi 68, ông viết cuốn này vì sợ rồi đây sức khỏe suy yếu, không còn khả năng viết nữa. Tuy nhiên ước mơ lớn vẫn là để cho các nhà nghiên cứu ngoại quốc muốn tìm hiểu về Phật Giáo Việt Nam, nhất là Thiền, có tài liệu tham khảo vì hiện nay Anh Ngữ là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới.
10/12/2019(Xem: 4956)
“Thà như giọt mưa, vỡ trên tượng đá Thà như giọt mưa, khô trên tượng đá Thà như mưa gió, đến ôm tượng đá Có còn hơn không, Có còn hơn không …” Đó là những câu mở đầu bài thơ của một người làm thơ như ăn cơm, làm thơ như uống nước, làm thơ như thiền hành, làm thơ như tĩnh tọa, làm thơ như say ngủ …. Làm thơ mà như chưa từng nghĩ là mình làm thơ, huống chi, nhọc nhằn khoác vào mình những hư danh nhân thế.
02/12/2019(Xem: 4943)
Thiền Định, Một Phương Pháp Biến Cải Tâm Linh. Đức Đạt-lai Lạt-ma và Urgyen Sangharakshita
15/11/2019(Xem: 5174)
Cuộc sống của con người và vạn vật chung quanh biến đổi từng giờ từng phút theo không gian và thời gian. Không hề có bất kỳ sự kiện hay sự vật nào tồn tại vĩnh viễn. Giáo lý nhà Phật gọi tình trạng đó là Vô thường.
12/09/2019(Xem: 4413)
Bài này ghi lại một số lời dạy về Thiền Tông – để thấy rằng trong tận cùng, tất cả các phương tiện chư Tổ sử dụng khi truyền pháp chỉ là các bè pháp để lìa tham sân si, bằng cách nhận ra bản tâm vốn đã tròn đầy giới định huệ. Khi nhận ra sợi chỉ đỏ xuyên suốt các lời Đức Phật dạy qua nhiều thời kỳ khác nhau, sẽ thấy tất cả đều tương thông, trong tận cùng là không dị biệt, không trái nghịch giữa các truyền thống, dù là Nam Tông hay Bắc Tông. Với người đã sống được trong các pháp ấn vô thường, vô ngã… lúc đó không thấy còn bè pháp nào nữa, vì sẽ thấy tất cả các phương tiện tu học chỉ là sản phẩm của tâm quá khứ, chỉ là thêu dệt từ những ngũ uấn của ngày hôm qua và hôm kia, trong khi cái hiện tiền chảy xiết ngay bây giờ là cái dòng tịch lặng vô thường bất khả ngôn thuyết. Cũng y hệt như khi đã nắm được bâu áo tràng (cổ áo tràng), tự động chiếc áo sẽ xuôi một dòng, phẳng lì, không rời tay mình bất kể khi đi đứng nhanh hay chậm, lúc đó cũng chẳng bận tâm tới tay áo nghiêng về phía Nam
09/09/2019(Xem: 5535)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.Narayan Helen Liebenson là nữ giáo sư hướng dẫn tại Trung Tâm Thiền Cambridge Insight Meditation Center. Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche là người nắm giữ truyền thừa của truyền thống Bön Dzogchen tradition của Tây Tạng. Ông là tác giả của cuốn sách “Spontaneous Creativity: Meditations for Manifesting Your Positive Qualities” [Sự Sáng Tạo Tự Phát: Thiền Để Thể Hiện Phẩm Chất Tích Cực Của Bạn] (xuất bản năm 2018).Zenkei Blanche Hartman (1926-2016) là Pháp Sư Cao Cấp và là phụ nữ đầu tiên Trú Trì Trung Tâm Thiền San Francisco.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567