Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đi Tìm Một Mẫu Số Chung

06/08/201922:30(Xem: 4263)
Đi Tìm Một Mẫu Số Chung

ducphathoasen
Đi tìm một mẫu số chung

                                                                                     NAM PHƯƠNG  (Nghiêm Thủy)

    Trong toán học, muốn giải một bài toán cơ bản luôn cần có một mẫu số chung, đó là con số quan trọng cần thiết để đưa đến kết quả chính xác cho bài toán. Ngoài ra vì tính khoa học, những con số còn giúp cho mọi việc được mạch lạc, rõ ràng thứ lớp hơn mà chính Đức Thế Tôn của chúng ta cách đây 2600 năm cũng đã sử dụng nó để nói đến trong toàn bộ những bài giảng của Ngài. Khi giảng nói về các loại tâm vô hình, trừu tượng khó nhớ Đức Phật đã dùng những con số cụ thể trong Vi diệu pháp (Duy thức học). Chính nhờ vậy việc tìm hiểu về các loại Tâm vương, Tâm sở đầy phức tạp đã được Ngài hướng dẫn, phân loại rõ ràng cho từng loại tâm khác nhau. Tuy nhiên đây chỉ là những học thuyết sâu rộng của triết lý Phật giáo dành cho lãnh vực nghiên cứu.

      Thực tế Đức Phật đã có rất nhiều những bài pháp dành cho đại chúng đơn giản, dễ hiểu cũng bằng những con số mà bắt đầu từ bài pháp quan trọng đầu tiên là Tứ diệu đế. Tiếp theo trong suốt hành trình giáo hóa với những pháp học liên quan đến nhiều con số khác nhau như :

  1. Tam pháp ấn (Vô thường, khổ, vô ngã)
  2. Tứ nhiếp pháp
  3. Ngũ giới
  4. Sáu pháp lục hòa
  5. Bảy pháp hưng thịnh
  6. Bát nạn khổ
  7. Thập thiện
  8. Thập nhị nhân duyên
  9. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo
  10. Ba mươi tám pháp hạnh phúc…

       Những con số này chỉ là tiêu biểu trong rất nhiều những con số chi tiết mà khi đi vào từng đề mục Đức Phật đã tùy duyên, tùy thời để nói đến trong 45 năm hoằng dương chánh pháp của Ngài. Vì thế đi theo con đường học Phật là gắn liền với những con số để ghi nhớ, để thực hành, mà chỉ có thực hành mới nhận chân được kết quả hạnh phúc, an vui. Cho nên học Phật là học muôn đời, không chỉ riêng ở kiếp sống hiện tại này mà trong vạn kiếp luân hồi, với tâm nguyện được gặp Phật Pháp, được gần gũi những thiện hữu tri thức cũng là một trong 38 pháp hạnh phúc Đức Phật vẫn thường nhắc đến. Luôn thân cận bạn lành để được học hỏi, để có môi trường hiền thiện không phiền não.

    Ngày xưa những bậc hiền thánh như Đức Khổng Tử khi muốn đem những điều luân lý, đạo đức đến cho nhân quần xã hội cũng đã mượn những con số như Tứ thư, Ngũ kinh, Tam cương, Ngũ thường…đặt để vào những lời giáo huấn của mình. Còn Tăng Tử một trong bốn môn đệ có nhiều công lớn trong việc xiển dương Khổng giáo cũng đã khuyên dạy cách học làm người với việc mỗi ngày cần phải suy xét 3 điều:

  1. Làm việc gì đã hết lòng chưa ?
  2. Giao tiếp với bạn bè có thành tín không ?
  3. Những lời thầy dạy đã nghiên cứu, thực hành chưa?

    Quả thật từ ngàn xưa cho đến tận bây giờ, thế gian chẳng khi nào hết những lời răn dạy hữu ích, cùng biết bao nhiêu những điều luân thường đạo lý làm đẹp con người, làm đẹp cuộc đời. Nhưng trên tất cả vẫn còn tùy thuộc vào nhận thức của mỗi con người để có thể tin giữ, thực hành hay không đó mới là điều quan trọng. Riêng với Đức Phật điều căn bản Ngài thường nói là tam độc Tham Sân Si, nếu tỉnh thức, biết cảnh giác tránh xa cho dù làm được ít nhiều cũng đã đóng góp phần nào đó cho một xã hội được an bình, tốt đẹp.

    Trở lại con số chung trong cuộc đời. Chắc rằng ai cũng mong muốn tìm được điểm chung hay con số chung nào đó với bạn bè, với những người thân thương để từ điểm chung ấy có thể dễ dàng cảm thông, hiểu biết. Nhưng thật sự không phải dễ dàng cho dù bè bạn có đông, người thân có nhiều thì tri kỷ cũng vẫn không dễ gặp. Cho nên cuộc đời không thiếu những câu chuyện gia đình, người thân bạn bè đôi khi nhìn thấy gần gũi nhưng tâm hồn lại thật sự nghìn trùng xa cách. Vì vậy trong Thành ngữ VN có những câu nói như ‘Đồng sàng dị mộng’, ‘Bằng mặt chẳng bằng lòng’... Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ thì có câu hỏi ‘Tại sao thế giới đông người ta chỉ thấy riêng ta’. Trong Hán ngữ lại có câu: Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu, thoại bất đầu cơ bán cú đa. Đúng là như vậy, gặp tri kỷ thì ngàn chung rượu cũng thấy ít, người không thích hợp nói nửa câu cũng đã là nhiều. Bởi con người sinh ra trong cuộc đời này gọi là ‘Chín người mười ý’ nên thật khó để tìm được người thuận ý, vừa lòng hiểu nhau như câu chuyện Bá Nha Tử Kỳ thời xa xưa.

    Tuy vậy theo dòng sinh tử luân hồi, khi Đức Phật chứng đắc Túc mạng minh với một tuệ nhãn trong sáng Ngài cho biết mọi chúng sinh đến cõi ta bà này có chung một sợi dây huyết thống mà đứng trên căn bản từ bi thì tất cả đều là cha mẹ, anh em hay thân bằng quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp của nhau không phân biệt. Đây là một quan điểm vô cùng nhân bản trong giáo lý Đạo Phật, nhờ vậy đã giúp cho những người học Phật, thấu hiểu những lời dạy của Ngài có thể đem tâm từ trải rộng, bố thí cùng khắp, trong khả năng có thể của mình cho hết thảy mọi người, mọi loài chúng sinh một khi cần đến sự giúp đỡ. Nói sao cho hết những lời dạy từ tâm cao thượng và đầy trí tuệ của Đức Phật dành cho chúng sinh, nhân loại.

      Cũng bắt nguồn nơi từ bi nhân hậu ấy những bài pháp của Đức Phật đã hướng dẫn con người biết suy tư trí tuệ hơn để có thể tránh thoát khổ đau, phiền não trong đời sống nhờ vào hai chữ Duyên Nghiệp. Câu nói ‘Vạn pháp tùng duyên’ đã trở nên ý tứ huyền nhiệm để con người an tâm chấp nhận và bình thản hơn trước mọi việc xảy ra cho dù thuận duyên hay nghịch duyên. Chữ Duyên đặc biệt chỉ có trong Đạo Phật ngày nay đã phổ cập rộng rãi cho tất cả mọi người để có thể giải tỏa nhiều sự việc khác nhau. Chữ duyên cũng thường được nói đến nhiều trong tình yêu đôi lứa vì sự tốt đẹp, trân quý của nó, nhưng tiếc thay với xã hội bây giờ tình yêu đã trở nên quá mong manh, không bền vững khiến con người càng thêm nghi ngờ và mất niềm tin. Thật sự nhìn đúng bản chất của tình yêu hôm nay đôi khi chỉ là cảm xúc ngắn hạn, cũng có khi không thật hoặc được tô vẻ thêm vì nhiều lý do đã biến nó trở thành cái duyên để dẫn dắt đến nghiệp quả lâu dài. Thật ra duyên nghiệp được nhắc đến trong Đạo Phật tùy thuộc rất lớn vào phần phước của mỗi con người biết sống và biết tích lũy những điều lành, việc thiện mới mong có hạnh phúc, bình yên. Trong văn hóa VN còn có hai chữ ‘tình nghĩa’ là từ ngữ chắc thật nhất để mô tả như là sự lắng đọng lâu dài hay biến thể của tình yêu qua thời gian. Tình nghĩa còn mang nhiều ý nghĩa rộng lớn không hạn hẹp, luôn đặt căn bản trên tình thương và đạo đức nên tình nghĩa là nét đẹp cao quý, là sự tự nguyện tùy nơi quan niệm sống của mỗi con người.

      Vật chất và những tiến bộ khoa học hôm nay đã đẩy xô con người xa dần với đạo đức và chân thật là điều vô cùng tai hại. Trong bài kinh Bát nhã có câu ‘…Năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư…’chân thật không hư dối, có năng lực diệt trừ những điều thống khổ trần gian, là lời nhắc nhở rất đúng, khi rời xa chân thật sống càng ảo thì khổ đau càng nhiều. Trong ngũ giới căn bản của người cư sĩ cũng đã có sẵn giới luật chân thật không nói dối vì Đức Phật là con người chân thật, luôn đề cao sự chân thật cho nên những lời giáo huấn của Ngài là chân thật, chính vì những điều chân thật ấy Đức Phật là mẫu số chung để giải quyết bài toán khổ đau cho nhân loại. Trong bài pháp đầu tiên trên bước đường du hóa Đức Phật đã nói về bốn sự thật cao quý còn gọi là Tứ thánh đế hay Tứ diệu đế với mục đích cho chúng sanh nhận biết rằng khổ là sự thật và phải tìm phương thức để chấm dứt sự thật này ngay trong đời sống hiện tại. Nhưng con người hôm nay hầu như không muốn nhìn vào sự thật khổ đau này, lại còn bày ra thêm nhiều thứ ảo tưởng khác để tự dối lừa, tự đau khổ. Sự thật mặt trái của chân thật ngày hôm nay không dễ gì nhận biết được, chỉ có Đức Phật là người thấy trước nên mới có bài kinh Kalama tóm tắt để hướng dẫn như sau:

        “Này người Kalama ! Đừng vội tin bất cứ điều gì vì đã được truyền khẩu. Đừng tin điều gì cho dù đó là truyền thống lâu đời. Cũng đừng vội tin điều gì vì đó là những lời đồn đại. Đừng vội tin điều gì vì đã được ghi chép trong kinh điển. Cũng đừng vội tin bất cứ đìều gì cho dù điều đó được nói ra bởi các vị đạo sư khả kính. Tất cả không nên vội tin mà cũng đừng chối bỏ mà phải được suy tư cẩn trọng, thực hành chứng nghiệm từ nơi chính bản thân, nếu thấy lợi ích thật sự cho mình và cho người thì hãy tin giữ hành theo”.

     Với bài pháp đầy trí tuệ của Đức Phật cách đây 2600 năm cho đến vô tận vẫn còn nguyên hiệu lực dành cho những người thiện trí, chững chạc biết suy tư thận trọng mới khỏi vướng lụy phiền. Mong rằng mẫu số chung Đức Phật sẽ đem đến hạnh phúc an lạc cho hết thảy mọi người.

                                                              Vu Lan 2019

                                                       Nam Phương – Nghiêm Thủy

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/09/2012(Xem: 5805)
Có câu chuyện Thiền trích dịch từ cuốn “Collection of Stone and Sand”, xuất hiện vào thế kỷ 13, do thiền sư Muju viết bằng Nhật ngữ, tên là Shasekishu, dịch giả Paul Reps dịch sang Anh Ngữ...
03/09/2012(Xem: 4054)
Thuận tánh khởi tu là một thành ngữ được dùng nhiều trong Thiền tông, và nói chung, trong kinh luận Đại thừa. Thuận tánh là y vào tánh, ở nơi tánh, ở trong tánh, làm theo tánh. Tánh là bản tánh, pháp tánh, tánh Không, Như Lai tạng tánh, tánh Giác, Phật tánh… Thuận tánh khởi tu là y theo tánh mà khởi hạnh tu. Ý nghĩa này còn được diễn tả bằng những từ ngữ như Xứng tánh khởi tu (Thiếu Thất lục môn), tùy thuận tánh Giác (Kinh Viên Giác), an trụ tánh Giác, xứng tánh làm Phật sự (kinh Nhật tụng), thuận tánh khởi tu, thuận tánh khởi dụng (Thiền sư Hàm Thị giảng Kinh Lăng-già)…
01/09/2012(Xem: 12598)
Phật tính [1] có thể là bản chất trống rỗng của tâm thức, mà trong trường hợp nào nó không là một thức. Nó cũng liên hệ đến tâm tịnh quang nguyên sơ là điều liên hệ hơn đến giáo huấn mật thừa tantra.
24/08/2012(Xem: 4900)
Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen Zenji, hay Eihei Dogen (1200-1253)) là một đại thiền sư thời cổ, và được nhiều người xem như một vị thiền sư vĩ đại nhất. Phật giáo đồ Nhật Bản trong tất cả mọi tông phái đều kính ngưỡng Đạo Nguyên như một vị bồ tát. Ngài là người đầu tiên đã đem dòng thiền Tào Động đến Nhật Bản. Sau khi học đạo với các vị thầy ở Nhật, Đạo Nguyên qua Trung Hoa tu học. Ngài đại ngộ ngay khi sư phụ Trung Hoa của ngài là Ju Ching nói phải “buông hết cả thân lẫn tâm”. Sau đó ngài đã đến trình kiến giải và được sư phụ ấn chứng. Lòng đầy tri ân, Đạo Nguyên quỳ sụp xuống đảnh lễ thầy. Ju Ching nói, “Buông luôn cả cái buông!” “Hiện thành công án” (Genjokoan) là một chương nổi tiếng trong quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” (Shobogenzo), nói đến sự liên hệ của tu thiền và giác ngộ. Đây là một tuyệt tác vô song, với những lời lẽ thâm sâu bàng bạc ý vị thơ, biểu lộ tri kiến của một bậc giác ngộ đã vượt ngoài đối đãi.
07/07/2012(Xem: 14449)
Trong mỗi buổi lễ hàng ngày, các thiền viện thuộc tông Tào Động (Sōtō Zen) Nhật Bản đều có tụng bài Sandōkai, như vậy cho thấy rõ tầm quan trọng của bài tụng này trong tông phái Tào Động. Nhiều thiền sư Nhật đã giảng và viết về bài đó một cách kỹ lưỡng để các thiền giả hiểu rõ ý nghĩa.
06/07/2012(Xem: 5593)
Bắt đầu từ ngày mai, học viện chúng ta có thể nói hoạt động mỗi năm một lần, kỷ niệm thư viện Hoa Tạng, cố viện trưởng cư sĩ Hàn Anh vãng sanh năm thứ tám. Mỗi năm vào ngày này, chúng ta đều có tổ chức nghi thức truy điệu.
06/07/2012(Xem: 10077)
Trước tiên xin cảm ơn Ngài vô cùng vì đã nói chuyện với chúng tôi sáng nay. Thưa Đức Thánh Thiện, Ngài vừa nói chuyện với sinh viên ở San Diego về 'lòng từ bi không biên giới', bây giờ tôi muốn hỏi Ngài trước hết về 'lòng từ bi trong biên giới'. Ngài nghĩ Hoa Kỳ có phải là một quốc gia từ bi không?
24/06/2012(Xem: 8001)
Đây là nhắc nhở cho tất cả về ý nghĩa "Đưa Tâm Về Nhà". Bây giờ mình phải ngược dòng lưu chuyển để đưa tâm về nhà. Như đã nói, hiện tại mình đang ở đây nhưng tâm mình thì đang lang thang ở quê người, đó gọi là xa quê, xa nhà, là mất gốc. Lang thang đây là lang thang ở trong các trần, đuổi theo các duyên, nó buông cái này, bắt cái kia hoài không chịu dừng. Chính đó là tâm sinh tử, là tâm biến động. Do vậy mà trôi theo dòng luân chuyển sinh tử luân hồi. Vua Trần Thái Tông tuy là vua nhưng ông cũng tu thiền, sáng tỏ được tâm nên trong bài kệ "Núi Thứ Nhất", vua nói rằng:
20/06/2012(Xem: 5747)
Như các bạn đều biết, chuyến đi mới đây của tôi tới Ladakh đã phải rút ngắn lại vì sức khỏe của tôi không được tốt. Tôi đã phải hủy bỏ chương trình ở Nyoma vào phút cuối, song các bạn hữu và đạo sinh của tôi đã tỏ ra vô cùng thông cảm, họ thường xuyên thỉnh cầu tôi phải nghỉ ngơi nhiều hơn và quay lại đây khi nào sức khỏe của tôi trở nên tốt hơn. Đôi khi, suy xét về sự việc này một cách khách quan, chẳng ai trong số chúng ta có thể trốn tránh được nghiệp quả. Chúng ta có thể làm điều gì đó để giảm bớt nghiệp quả, song trốn tránh hoàn toàn là điều không thể.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]