Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiến Trình Hoạt Động Của Tâm

01/07/201921:06(Xem: 3864)
Tiến Trình Hoạt Động Của Tâm
buddha_painting 2

  

                                                    Tiến Trình Hoạt Động Của Tâm                                                     
  Thích Minh Chánh chuyển ngữ

          Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi  đang  ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức ( bhavaïga, tiềm thức, tâm hộ kiếp). Chúng ta luôn kinh qua một trạng thái tiêu cực như vậy khi tâm mình phản ứng lại các đối tượng bên ngoài. Dòng chảy vô thức  (bhavaïga) này bị gián đoạn khi các đối tượng thâm nhập vào tâm. Kế đó, tâm vô thức (bhavaṅga) rung động trong một chóc lát ý tưởng và biến mất.

          Do vậy, ngũ môn hướng tâm[1] (pañcadvārāvajjana) sanh khởi và hoại diệt. Trong giai đoạn này, dòng chảy vô thức tự nhiên bị kiềm chế và hướng về đối tượng. Ngay lập tức, sau đó, nhãn thức[2] (cakkhuviññāṇa), cái biết của con mắt) sanh khởi và hoại diệt, nhưng nó không hiểu biết gì hơn ngoài việc thấy đối tượng. Hoạt động cảm giác này được theo sau bởi một sự tiếp thu về đối tượng đã nhìn nhận(sampaṭicchana) trong chóc lát, hay còn gọi là Tiếp thọ tâm[3]. Từ đó, đưa đến khả năng dò xét, thẩm tra (santãraõa) hoặc sự nghiên cứu nhất thời về đối tượng đã tiếp nhận, hay còn gọi là Suy đặc tâm[4]. Kế tiếp, đưa đến giai đoạn nhận định mô tả, được gọi là Xác định tâm[5] (votthapana). Do đó, sự phân biệt được thực hiện trong giai đoạn này. Đây là thời điểm mà ý thức góp phần tham dự theo lãnh vực của nó.

Sau đó, ngay lập tức, có một giai đoạn tâm tâm lý quan trọng nhất được gọi xung lục (động lực thúc đẩy) hay Tốc hành tâm[6] (Javana) sanh khởi. Đây là giai đoạn mà một hành động được đánh giá là thiện hay bất thiện. Theo đó, nghiệp (kamma) được tạo ra trong giai đoạn này; nếu nhìn nhận đúng đắn (yoniso manasikàra) thì xung lực (Janava) trở nên thiện lành (thiện); nếu nhìn nhận sai lầm (ayoniso manasikàra) thì xung lực trở nên xấu ác( bất thiện). Trong trường hợp của một vị A-la-hán (Arahant), thì xung lực (javana) này không phải thiện cũng không phải bất thiện, mà chỉ là chức năng (kiriya). Giai đoạn xung lực này luôn luôn trãi qua bảy sát-na (trong chóc lát) tư tưởng hoặc lúc chết, nó chỉ trãi qua năm sát-na tư tưởng. Toàn bộ tiến trình xảy ra trong một thời gian ngắn và kết thức bằng tâm ghi nhận hay tâm đăng kí (tadàlambana) trãi qua hai sát-na tư tưởng . Như vậy, để hoàn tất một tiến trình tư tưởng, cần phải trãi qua 17 sát-na tâm (chập tư tưởng).

          Ba loại tâm hộ kiếp (bhavaïga) này là tâm quả (vipàka). Chúng là một trong hai sát-na suy lường phân tích (suy đặc tâm, santãraõa cittas) cùng sanh khởi với thọ xã (sự buông bỏ) mà đã được đề cập đến ở trên, hoặc một trong tám loại tâm hành tuyệt mỹ (sobhana vipàka cittas, Duy tác tịnh quang tâm), sẽ được trình bày trong phần sau (đoạn 6). Ngũ môn hướng tâm (pañcadvārāvajjana) là một tâm hành (kiriyā citta). Năm thức ( pañca viññāṇa: nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân thức) là một trong mười tâm quả (vipāka cittas) thiện và bất thiện. Tiếp thọ tâm (sampaṭicchana) và suy đặc tâm (santīraṇa) cũng là tâm quả (vipāka cittas). Ý môn hướng tâm (manodvārāvajjana) là một tâm hành (kiriyā citta) có chức năng như xác định tâm (votthapana). Chúng ta có thể ứng dụng ý chí tự do của mình trong giai đoạn này. Bảy sát-na tư tưởng của xung lực ấy tạo nên nghiệp (kamma). Đăng kí tâm (tadālambana) là một loại tâm quả (cipāka citta), là một trong ba loại suy đặc tâm (santīraṇa citta), hoặc là một trong tám tâm quả tuyệt mỹ (sobhana vipāka cittas).

          Như vậy, trong một tiến trình tư tưởng đặc biệt, có nhiều sát-na suy nghỉ sanh khởi và chúng được gọi là nghiệp (kamma), quả (vipāka), hay hành (kiriyā).

          Tiến trình của tâm—theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), khi một đối tượng xuất hiện trong tâm thông qua một trong năm giác quan, thì tiến trình ấy hoạt động như các biểu đồ sau..

          Biểu đồ 1 

Sát-na tâm

 

1

Atīta Bhavaṅga (Bhavaṅga vừa qua)

2

Bhavaṅga Calana (Bhavaṅga giao động)

3

Bhavaṅgupaccheda (Bhavaṅga dứt dòng)

4

Pañcadvārāvajjana (Ngũ Môn Hướng Tâm)

5

Pañca Viññāṇa (Ngũ Quan Thức)

6

Sampaṭicchana (Tiếp Thọ Tâm)

7

Santīraṇa (Suy Đạc Tâm)

8

Votthapana (Xác Định Tâm)

9

Javana (Xung Lực)

10

11

12

13

14

15

16

Tadālambana (Đăng Ký Tâm)

17

 

 Biểu Đồ 2

Citta - 89 
Tâm

Lokuttara - 8 
Siêu thế

Magga - 4 
Đạo

Phala - 4 
Quả

Arūpāvacara - 12 
Vô sắc giới

Kusala - 4 
Thiện

Vipāka - 4 
Quả

Kriyā - 4 
Hành

Rūpāvacāra - 15 
Sắc giới

Kusala - 5 
Thiện

Vipāka - 5 
Quả

Kriyā - 5 
Hành

Kāmāvacāra - 54 
Dục giới

Sobhaha - 24 
Đẹp

Kusala - 8 
Thiện

Vipāka - 8 
Quả

Kriyā - 8 
Hành

Ahetula - 18 
Vô nhân

Ākusalavipāka - 7 
Quả bất thiện

Kusalavipāka - 8 
Quả thiện

Kriyā - 3 
Hành

Akusala - 12 
Bất thiện

Lobha - 8 
Căn tham

Paṭigha - 2 
Căn sân

Moha - 2 
Căn si

 

 Biểu Đồ 3

Citta - 89 (121) 
Tâm

Akusala - 12 
Bất thiện

Kusala - 21 (37) 
Thiện

Kāmāvacara - 8 
Dục giới

Rūpāvacara - 5 
Sắc giới

Arūpāvacara - 4 
Vô sắc giới

Lokuttara - 4 (20) 
Siêu thế

Vipāka - 36 (52) 
Quả

Kāmāvacara - 23 
Dục giới

Rūpāvacara - 5 
Sắc giới

Arūpāvacara - 4 
Vô sắc giới

Lokuttara - 4 (20) 
Siêu thế

Kriyā - 20 
Hành

Kāmāvacara - 11 
Dục giới

Rūpāvacara - 5 
Sắc giới

Arūpāvacara - 4 
Vô sắc giới

         

 



[1] Ngũ môn hướng tâm chỉ là phản xạ tự nhiên của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân trên đối tượng tương ứng. Cụ thể như khi một người nằm ngủ, bỗng có tiếng động làm anh ta giật mình, toàn thân người ấy bị đánh thức và hướng đến đối tượng. Nhưng thật ra vì là tiếng động nên chỉ có nhĩ môn thật sự hướng đến đối tượng. Nếu là hình ảnh thì nhãn môn hướng đến, nếu là sự đụng chạm thì thân môn hướng đến v.v...

[2] Nhãn Thức: nếu đối tượng là sắc pháp (rupa), thì thức này phụ thuộc vào năm đối tượng của giác quan.

[3] Tiếp thọ tâm: sau khi một trong 5 thức khởi lên thì tâm tiếp nhận đối tượng. Giả sử như nhãn thứckhởi lên thì sự tiếp nhận sẽ giống như chiếc máy hình bấm nút để thu hình.

[4] Suy đặc tâm: sau khi thu hình vào, đây là lấy mắt làm điển hình, thì nó hiện lên trên phim (ví dụ máy hình) từng chi tiết của đối tượng, giai đoạn này mang tính phân tích.

[5] Xác định tâm: sau khi ghi nhận từng chi tiết một cách phân tích, tâm bắt đầu tổng hợp các chi tiết để hình thành toàn diện đối tượng, và xác định đó là hình gì.

[6] Tốc hành tâm: là giai đoạn quan trọng hình thành sự tạo tác của tâm kéo dài đến 7 sát-na. Nó chính là hành trong ngũ uẩn. Hầu hết các tâm sở quần tụ ở đây tùy theo tính chất thiện, bất thiện, bất động hay siêu thế tâm. Mạt-na thức nằm trong tốc hành tâm này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 5998)
Khi bạn bắt đầu thiền định về tâm bạn, hãy ngồi xuống với thân thể thẳng thắn, để cho hơi thở ra vào tự nhiên, và với đôi mắt không nhắm lại cũng không mở lớn, hãy nhìn vào không gian trước mặt bạn. Hãy tự nghĩ rằng chính vì tất cả chúng sinh, là những người từng là những bà mẹ của bạn, bạn sẽ quán chiếu Giác Tánh, khuôn mặt của Đức Phổ Hiền.
22/04/2013(Xem: 5202)
Như chúng ta biết, tất cả mọi biểu hiện trong cuộc sống, qua mọi thi vi động tác của ngôn ngữ cử chỉ hành động của chúng ta, đều phát xuất từ tự tâm chúng ta, như chính đức Phật đã xác quyết trong kinh Hoa Nghiêm: " Nhất thiết duy tâm tạo. " Ở đó, trong cuộc sống thường nhật hằng ngày, chúng được thể hiện qua hai biểu thị: vọng và chân (chân ở đây vượt lên trên vọng và chân của vọng).
22/04/2013(Xem: 6400)
Con đường vượt qua cửa Tổ là Đường về Hố Thẳm. Ở đây, nếu bạn muốn vượt qua, muốn siệu việt nó mà không buông tay để nhảy, thì kể như bạn đã đi lạc vào đường ma lối quỷ rồi đó! Ở đây, chúng tôi đề cập đến một con đường, nhưng thật sự con đường này không phải để chúng ta đi bằng đôi chân dính trên mặt đất, mà phải nhảy vào khi buông đôi tay.
22/04/2013(Xem: 4431)
Sau khi Lục tổ Đại sư đắc Pháp từ Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng mai, cho đến ngày đắc Giới tại Đông sơn là khoảng thời gian dài mười lăm năm ẩn tu trong đám thợ săn. Trong khoảng thời gian này, bài pháp đầu tiên để dạy người của Lục tổ Đại sư , là bài pháp nảy sanh từ lòng trắc ẩn, và cái thế chẳng đặng đứng trước lòng ngoa ngụy của con người.
22/04/2013(Xem: 4476)
Từ pháp hội Linh sơn, đức Thế tôn cầm cành hoa giơ lên trước chúng. Bấy giờ, mọi người đều làm thinh, chỉ có ngài Ca-diếp rạng mặt mỉm cười. Phật dạy: "Ta có chánh pháp nhãn tạng, diệu tâm Niết bàn, thực tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay trao lại cho Ma ha Ca-diếp." Và cho đến khi Bồ-đề-đạt-ma đến Trung quốc tuyên bố rằng: " Chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, không lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo." Qua những lời dạy này, đã nêu rõ chủ đích và sự kế thừa của Thiền tông rồi.
22/04/2013(Xem: 5467)
Từ trung tâm Thành nội Huế, ta phải băng qua con đường ven dòng sông Hương, lấy chùa Linh Mụ làm mốc khởi đầu, đi qua những thôn xóm trù phú nhưng tĩnh lặng, men theo góc núi xa để càng đi càng thấy vắng vẻ. Băng qua những cánh đồng, men theo con đường mòn dân sinh đầy ổ gà ven sườn núi để hướng về đỉnh núi Chằm, thuộc huyện Hương Trà.
22/04/2013(Xem: 5439)
Khi nghe một điều gì về Phật giáo trong bản tin tức hàng ngày, bạn thường nghĩ đến một tôn giáo thờ nhiều hình tượng to lớn, có các thầy tu áo vàng, với không khí dầy đặc mùi khói nhang. Bạn có cảm giác tôn giáo nầy không phải dành cho bạn, ngoại trừ có thể đấy chỉ là một buổi trình diễn ly kỳ, hấp dẫn. Tuy nhiên, chẳng lẽ Phật giáo chỉ có thế thôi ? Các tân nhiếp ảnh gia không chụp được các ảnh thật sự Phật giáo hay sao ? Các báo chí hào nhoáng trình bày cho bạn thấy cái nền tảng của tôn giáo đó, hay chỉ là cái dáng vẻ bề ngoài ?
22/04/2013(Xem: 4647)
Chúng ta thường không hay để ý đến những việc tầm thường. Chúng ta thường chỉ nhận biết hơi thở của chính mình khi hơi thở không bình thường, như lúc chúng ta lên cơn suyễn hoặc lúc chúng ta chạy quá sức. Tuy vậy, với cách quán niệm hơi thở, chúng ta sử dụng hơi thở tầm thường của chúng ta làm đề tài cho việc thiền định.
22/04/2013(Xem: 5336)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước. Đến nay, nó đã đi vào học đường, đi vào các sinh hoạt cộng đồng và thậm chí, còn là thời trang văn vẻ cho một số người trí thức nữa.
22/04/2013(Xem: 5733)
Từ lâu tôi luôn nghĩ rằng thực hành thiền Minh Sát là hành Chánh Niệm. Kinh nghiệm hành thiền và học thiền của tôi rất giới hạn gồm có thiền Minh Sát theo truyền thống của Ngài Mahasi Sayadaw, (Thiền sư U Pandita, Thiền Sư Khippapanno). Gần đây tôi có được cơ hội học được phương pháp Niệm Cảm Thọ của Thiền Sư Cư sĩ S.N. Goenka. Duyên may đưa đến năm nay tôi được đi học thiền "Niệm Tâm" ở thiền viện của Cố Hòa Thượng Thiền Sư Shwe Oo Min, Miến Điện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567