Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp tu "Phản Quan Tự Kỷ"

27/01/201815:37(Xem: 4928)
Pháp tu "Phản Quan Tự Kỷ"



Duc The Ton 12

PHÁP TU "PHẢN QUAN TỰ KỶ"

Thích Nữ Hằng Như

                            

                        

Ý NGHĨA VÀ NGUỒN GỐC "PHẢN QUAN TỰ KỶ"

          Là người Phật tử, dù tu tập theo pháp môn nào chúng ta cũng thường được nghe chư tôn đức dặn dò: "Tu tập phải luôn quay vào bên trong, quay về chính mình, không nhìn ngó ra ngoài". Không nhìn ngó ra ngoài, không có nghĩa là chúng ta lúc nào cũng nhắm mắt không nhìn ngoại cảnh. Chúng sanh có mắt để nhìn. Có tai để nghe. Có mũi để ngửi. Có lưỡi để nếm. Có thân để biết lạnh nóng. Có tâm để biết suy nghĩ, phán xét... Đó là phước báu của một con người sinh ra đời được lành lặn, thì tại sao không xử dụng những căn này để học hỏi, để thưởng thức một cuộc sống lành mạnh. Nhưng nếu là người muốn thoát khổ, muốn có cuộc sống an bình ở đời này, hay cao thượng hơn là muốn giác ngộ giải thoát trong tương lai, thì hiện tại người đó cần tu tập làm chủ tâm ngôn, ý ngôn, đồng thời làm chủ ba nghiệp của mình. Đó là Ý nghiệp, Thân nghiệp và Khẩu nghiệp.

          Trong lúc tu tập, các giác quan tức sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của những vị này vẫn được tự do ghi nhận, nhìn ngắm, nghe, ngửi, xúc chạm với ngoại trần như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhưng không để sáu thức chạy theo ngoại trần, khiến cho tâm bình thản bị ảnh hưởng nổi tham sân si. Vì thế, các Ngài mới dạy chúng ta: "Không nhìn ngó ra ngoài" có nghĩa là không để tâm bị cảm xúc: vui buồn, ghen ghét, oán hận, thương yêu... bởi ngoại cảnh, mà phải quay vào trong, tức là quay vào tâm của mình, trong kinh gọi là "thu thúc lục căn".

          Có khi các Ngài nói ngắn gọn là "Nhìn vào tâm", mà nhìn vào tâm để làm gì? Đó là để tự mình quan sát cái tâm của mình. Xem lúc đó tâm mình ra sao? Nó yên lặng hay đang phóng chạy lung tung với những dính mắc bởi ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Hành động quay lại nhìn vào tâm, tự quán xét lấy mình gọi là "Phản Quan Tự Kỷ"

          Phản có nghĩa là: Ngược lại. Quan có nghĩa là: Quan sát, ngắm nhìn, xem xét, quán chiếu. Tự kỷ nghĩa là chính mình. Như vậy "Phản quan tự kỷ" là quay lại soi xét bản thân mình về cả ba mặt ý nghĩ, lời nói và hành động.

          Phát nguyên của câu nói này do vua Trần Nhân Tông lúc còn là Thái Tử Trần Khâm, được vua Cha là Trần Thánh Tông cho theo học đạo lý với Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Khi Thái tử sắp về triều, đã đặt câu hỏi với Thầy của mình như sau:

          -  "Kính bạch Thượng sĩ, pháp yếu của Thiền Tông là gì?".

          Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đáp:

          -  Là "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc", có nghĩa quay lại soi sáng tâm mình là bổn phận gốc, chứ không từ bên ngoài mà có được.

          Từ đó và sau này Đức Điều Ngự Giác Hoàng là Tổ Sư Thiền Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam đã ứng dụng "Phản Quan Tự Kỷ" như là một pháp tu thiền của Ngài, và Hoà Thượng Thích Thanh Từ nối tiếp dòng thiền Trúc Lâm ngày nay cũng lấy "Phản Quan Tự Kỷ Bổn Phận Sự, bất tùng tha đắc" làm câu châm ngôn dạy đệ tử hành trì miên mật.

 

                                       PHÁP TU "PHAN QUAN TỰ KỶ"

          Pháp tu "Phản Quan Tự Kỷ" là pháp tu tổng quát, bao trùm hết giáo lý của nhà Phật.

          - Thí dụ như tu thiền Định. Trong kinh "Định Niệm Hít Vào Thở Ra" (Anapànasati Samàdhi), khi chúng ta lặng lẽ xem xét sự sanh diệt của từng hơi thở, thầm rõ biết tinh tường những biến chuyển của nội tâm hay sự thay đổi bản thân trong lúc toạ thiền thì đây chính là "Phản quan tự kỷ".

          - Hay tu theo pháp "Lục diệu pháp môn" là sáu môn quán chiếu hơi thở, quay lại mình như: Quán sổ tức, Tuỳ tức, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh. Sổ tức là đếm hơi thở: Hít vô cùng, thở ra sạch đếm là 1. Đếm như thế tới 10, rồi bắt đầu đếm lại từ 1. Cứ như thế tu tập đến khi thuần thục thì bước sang giai đoạn quan sát hơi thở vô, hơi thở ra một cách rõ ràng gọi là Tuỳ tức. Chỉ là tâm dừng lại để nhìn hơi thở. Quán là xem xét hơi thở ra vô là mạng sống, mạng sống thì vô thường không vững bền. Hoàn là xoay trở lại xem hơi thở vô thường là cái gì. Cuối cùng tâm hoàn toàn yên lặng không phóng ra ngoài nữa là Tịnh. Như thế pháp tu "Lục Diệu Pháp Môn" là pháp quay về trong tâm tu tập để tâm hoàn toàn dừng niệm, thì đó cũng chính là "Phản Quan Tự Kỷ".

          - Hệ thống kinh A-Hàm, Đức Phật dạy thiền quán bốn xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

          1) Quán thân bất tịnh, nghĩa là xem xét phân tích chi tiết từng bộ phận của thân, thấy rõ thân này nhớp nhúa, ô uế... nhằm giúp con người không chấp trước vào thân, không say đắm ham mê sắc dục.

          2) Quán thọ thị khổ, nghĩa là khi giác quan tiếp xúc với ngoại cảnh, chúng ta biết những cảm giác hay cảm nhận của thân và tâm lúc đó là vô thường, không thật. Nếu chấp thường hằng hay thật có, thì đó là nguồn gốc của khổ đau.

          3) Quán tâm vô thường, là quay vào tâm, thấy rõ tâm niệm mình luôn luôn sinh diệt không dừng. Suy nghĩ này vừa dứt thì suy nghĩa khác tiếp nối.

          4) Quán pháp vô ngã, tức là quán tất cả các pháp, từ tâm pháp, sắc pháp (nơi mình và ngoại cảnh) đều không thực chất tính, do tương duyên hợp mà thành, rồi cũng do duyên thay đổi mà biến thành pháp khác.

          Trong kinh Tứ Niệm Xứ, Trung Bộ I ghi rằng "Đây là con đường duy nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn."  Còn kinh A-Hàm ghi lại rằng: "Phật dạy vị nào cột tâm trong Tứ Niệm Xứ được bảy ngày không dời đổi, người đó sẽ chứng quả A-Na-Hàm, chẳng những bảy ngày mà qua ba ngày cũng chứng quả, rồi chẳng những ba ngày mà một ngày cột tâm ở Tứ Niệm Xứ không dời đổi cũng chứng quả A-Na-Hàm." Quán như thế là phản chiếu lại mình, soi sáng lại mình, xem xét lại mình.          Như vậy Tu thiền quán Tứ Niệm Xứ cũng chính là ứng dụng pháp tu "Phản Quan Tự Kỷ" nhìn lại bốn xứ của mình để tu tập.

          - Ngoài ra phải kể đến Ngũ Đình Tâm Quán dạy chúng ta năm loại quán. Đó là quán sổ tức, quán bất tịnh, quán từ bi, quán nhân duyên, quán giới phân biệt (sáu căn, sáu trần, sáu thức).  Công dụng của năm pháp quán tưởng này nhằm giúp người tu trụ tâm để soi sáng lại mình. Như vậy các loại quán này cũng áp dụng pháp tu "Phản Quan Tự Kỷ" là nhìn lại tâm mình để tu tập.

         

TÓM LẠI

          Hiểu được ý nghĩa của "Phản Quan Tự Kỷ" chúng ta nhận thấy mọi pháp tu dù Tịnh Độ Tông, Mật Tông hay Thiền Tông phương pháp hành trì có khác nhau nhưng chung quy đều ứng dụng pháp "Phản Quan Tự Kỷ" này để tu tập. Vì thế nếu lúc nào chúng ta cũng quay về với tâm để quán sát, kiểm soát tâm của chúng ta thì con đường tâm linh ngày một phát triển, bởi vì khi tâm không còn dính mắc với ngoại cảnh mà quay về với cái biết không lời của tự tâm, thì tức khắc tâm chúng ta sẽ được yên lặng, vọng tưởng lúc đó nếu có, sẽ tự động im bặt. Tại sao thế? Đó là vì khi tâm quay về quan sát tâm bằng cái biết lặng lẽ thầm lặng nhưng rõ ràng đầy đủ mà không phản ứng gì cả thì ngay lúc đó ta quay về với chánh niệm bây giờ và ở đây, tức chúng ta đang an trú trong Tánh Giác, mà đặc tính của Tánh Giác là hoàn toàn yên lặng. Khi Tánh Giác xuất hiện bao lâu thì ba nghiệp được trong sạch bấy lâu. Còn như nếu chúng ta buông lung để tâm ý lang thang dính mắc với đủ mọi thứ ở thế gian này thì chúng ta đang sống với Vọng tâm. Sống với Vọng tâm là chúng ta sống quên mình, tức là quên cái bản tâm vốn tự nó trong sạch sáng suốt tròn đầy, mà chỉ sống với tâm ích kỷ, chấp nhất, tham, sân, si...  tạo nghiệp tốt lẫn xấu, để rồi khi thân hoại mạng chung nghiệp sẽ dẫn chúng ta đi tái sanh, nhưng không biết sẽ tái sanh vào nơi nào trong sáu cõi luân hồi: Trời, Người, A-Tu-La, Súc sanh, Ngạ quỷ hay Địa ngục.

          Tóm lại sự tu hành cốt ở chỗ chúng ta phải nhớ lại mình là cái gốc, là bổn phận. Ngoài không dính sáu trần, trong không để vọng tưởng lấn áp thì bản tâm chân thật mới hiện tiền. Tâm chân thật đó chính là Tánh Giác. Khi nó hiện tiền thì nó chính là cái nhân thành Phật. Là người xuất gia hay tại gia đều phải "phản quan tự kỷ" soi chiếu lại tâm mình thì đó là người biết tu, sau này mới thoát khỏi luân hồi sanh tử. Cho nên chư Tổ mới nói "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc" là châm ngôn cho người tu là như thế./,


THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

17/01/2018

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 6828)
Khi bạn bắt đầu thiền định về tâm bạn, hãy ngồi xuống với thân thể thẳng thắn, để cho hơi thở ra vào tự nhiên, và với đôi mắt không nhắm lại cũng không mở lớn, hãy nhìn vào không gian trước mặt bạn. Hãy tự nghĩ rằng chính vì tất cả chúng sinh, là những người từng là những bà mẹ của bạn, bạn sẽ quán chiếu Giác Tánh, khuôn mặt của Đức Phổ Hiền.
22/04/2013(Xem: 5862)
Như chúng ta biết, tất cả mọi biểu hiện trong cuộc sống, qua mọi thi vi động tác của ngôn ngữ cử chỉ hành động của chúng ta, đều phát xuất từ tự tâm chúng ta, như chính đức Phật đã xác quyết trong kinh Hoa Nghiêm: " Nhất thiết duy tâm tạo. " Ở đó, trong cuộc sống thường nhật hằng ngày, chúng được thể hiện qua hai biểu thị: vọng và chân (chân ở đây vượt lên trên vọng và chân của vọng).
22/04/2013(Xem: 6907)
Con đường vượt qua cửa Tổ là Đường về Hố Thẳm. Ở đây, nếu bạn muốn vượt qua, muốn siệu việt nó mà không buông tay để nhảy, thì kể như bạn đã đi lạc vào đường ma lối quỷ rồi đó! Ở đây, chúng tôi đề cập đến một con đường, nhưng thật sự con đường này không phải để chúng ta đi bằng đôi chân dính trên mặt đất, mà phải nhảy vào khi buông đôi tay.
22/04/2013(Xem: 4911)
Sau khi Lục tổ Đại sư đắc Pháp từ Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng mai, cho đến ngày đắc Giới tại Đông sơn là khoảng thời gian dài mười lăm năm ẩn tu trong đám thợ săn. Trong khoảng thời gian này, bài pháp đầu tiên để dạy người của Lục tổ Đại sư , là bài pháp nảy sanh từ lòng trắc ẩn, và cái thế chẳng đặng đứng trước lòng ngoa ngụy của con người.
22/04/2013(Xem: 5017)
Từ pháp hội Linh sơn, đức Thế tôn cầm cành hoa giơ lên trước chúng. Bấy giờ, mọi người đều làm thinh, chỉ có ngài Ca-diếp rạng mặt mỉm cười. Phật dạy: "Ta có chánh pháp nhãn tạng, diệu tâm Niết bàn, thực tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay trao lại cho Ma ha Ca-diếp." Và cho đến khi Bồ-đề-đạt-ma đến Trung quốc tuyên bố rằng: " Chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, không lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo." Qua những lời dạy này, đã nêu rõ chủ đích và sự kế thừa của Thiền tông rồi.
22/04/2013(Xem: 6161)
Từ trung tâm Thành nội Huế, ta phải băng qua con đường ven dòng sông Hương, lấy chùa Linh Mụ làm mốc khởi đầu, đi qua những thôn xóm trù phú nhưng tĩnh lặng, men theo góc núi xa để càng đi càng thấy vắng vẻ. Băng qua những cánh đồng, men theo con đường mòn dân sinh đầy ổ gà ven sườn núi để hướng về đỉnh núi Chằm, thuộc huyện Hương Trà.
22/04/2013(Xem: 6112)
Khi nghe một điều gì về Phật giáo trong bản tin tức hàng ngày, bạn thường nghĩ đến một tôn giáo thờ nhiều hình tượng to lớn, có các thầy tu áo vàng, với không khí dầy đặc mùi khói nhang. Bạn có cảm giác tôn giáo nầy không phải dành cho bạn, ngoại trừ có thể đấy chỉ là một buổi trình diễn ly kỳ, hấp dẫn. Tuy nhiên, chẳng lẽ Phật giáo chỉ có thế thôi ? Các tân nhiếp ảnh gia không chụp được các ảnh thật sự Phật giáo hay sao ? Các báo chí hào nhoáng trình bày cho bạn thấy cái nền tảng của tôn giáo đó, hay chỉ là cái dáng vẻ bề ngoài ?
22/04/2013(Xem: 5184)
Chúng ta thường không hay để ý đến những việc tầm thường. Chúng ta thường chỉ nhận biết hơi thở của chính mình khi hơi thở không bình thường, như lúc chúng ta lên cơn suyễn hoặc lúc chúng ta chạy quá sức. Tuy vậy, với cách quán niệm hơi thở, chúng ta sử dụng hơi thở tầm thường của chúng ta làm đề tài cho việc thiền định.
22/04/2013(Xem: 5795)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước. Đến nay, nó đã đi vào học đường, đi vào các sinh hoạt cộng đồng và thậm chí, còn là thời trang văn vẻ cho một số người trí thức nữa.
22/04/2013(Xem: 6303)
Từ lâu tôi luôn nghĩ rằng thực hành thiền Minh Sát là hành Chánh Niệm. Kinh nghiệm hành thiền và học thiền của tôi rất giới hạn gồm có thiền Minh Sát theo truyền thống của Ngài Mahasi Sayadaw, (Thiền sư U Pandita, Thiền Sư Khippapanno). Gần đây tôi có được cơ hội học được phương pháp Niệm Cảm Thọ của Thiền Sư Cư sĩ S.N. Goenka. Duyên may đưa đến năm nay tôi được đi học thiền "Niệm Tâm" ở thiền viện của Cố Hòa Thượng Thiền Sư Shwe Oo Min, Miến Điện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]