Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm Giác Ngộ

21/12/201517:13(Xem: 5628)
Tâm Giác Ngộ
Geshe Rabten Rinpoche

TÂM GIÁC NGỘ
 
Nguyên tác: Bodhicitta
Tác giả: Geshe Rabten Rinpoche
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
 


Con Đường Tiệm Tiến Đến Giải Thoát

 

Thừa hay xe không phải là người chuyên chở hay những gì được chuyên chở - nó là sự chuyên chở . Vì vậy Tiểu Thừa có nghĩa là "sự chuyên chở vật nặng nhỏ hơn", và Đại Thừa, "sự chuyên chở vật nặng lớn hơn."

 

Hành giả Tiểu Thừa là những người thấy sự luân hồi là không thể chịu nổi và muốn thoát khỏi nó để thể nhập niết bàn. Họ giúp đở người khác một cách lớn lao bằng việc viễn ly thế gian và cố gắng để đạt được tự do, nhưng tư tưởng chính của họ là sự giải thoát cá nhân khỏi sanh tử luân hồi. Một vị a la hán - là vị đã hoàn tất con đường giải thoát cá nhân này - có nhiều năng lực tâm linh, và có thể giảng dạy giáo huấn tâm linh và cũng hổ trợ nhiều người, nhưng phải loại trừ sở tri chướng, những chướng ngại ngăn trở toàn giác. Việc thành tựu niết bàn sẽ chứng tỏ là không đủ và vị la hán sau đó phải thâm nhập Bồ tát đạo và tiến hóa qua mười địa Bồ tát đến cuối cùng, là hoàn thành Quả Phật.

 

Những người thực hành Đại Thừa cũng muốn xa rời sanh tử luân hồi và muốn thoát khỏi nó. Nhưng bởi vì họ đồng nhất hóa với tất cả những chúng sanh khác trong cõi luân hồi, nên những hành giả Đại Thừa không muốn chỉ sự giải thoát cá nhân đơn thuần. Qua việc quan tâm to lớn của họ cho những người khác, nguyện ước động cơ toàn triệt của hành giả Đại Thừa là mang đến hạnh phúc hoàn toàn cho tất cả chúng sanh. Họ thấu hiểu rằng tất cả chúng sanh trong cõi luân hồi - côn trùng, chư thiên và tất cả những chủng loại còn lại - là bình đẳng trong việc cùng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Họ cũng nhận thức rằng không ai trong những chúng sanh này có sự hài lòng với hạnh phúc hoàn toàn. Vì lý do này, họ phát triển một đại nguyện đưa tất cả chúng sanh ra khỏi khổ đau. Nguyện ước này, cũng là  một loại tâm sở, được gọi là đại bi, "bậc đại bi". Hành giả Đại Thừa nhận ra rằng tất cả chúng sanh trong cõi luân hồi, mặc dù họ có thể có hạnh phúc nhất thời, nhưng không có hạnh phúc chân thật miên viễn.

 

Nguyện ước tiếp theo, là đem cho tất cả chúng sanh hạnh phúc cứu kính tối hậu của Quả Phật được gọi là đại từ, "đại từ thệ nguyện năng động". Những nguyện ước này là mạnh mẽ hơn sự không thỏa mãn của hành giả Tiểu Thừa. Trước khi tầng nguyện vọng này được đạt đến, thì cũng có nhiều sự thực hành khác phải được phát triển vì thế hành giả Đại Thừa có thể nhận ra trọn vẹn nổi khổ đau của chúng sanh.

 

Đầu tiên họ muốn đưa tất cả chúng sanh đến Giác Ngộ mà không cần một sự trợ giúp nào. Điều này gọi là "tư tưởng đầu tiên" (adicinta). Sau đó, khi họ thẩm tra tự thân để thấy họ có đủ năng lực để làm việc đó một cách đơn độc không, thì họ thấy rằng cùng những phiền não mà những chúng sanh khác có cũng tồn tại trong họ. Vì vậy họ cố gắng để tìm xem ai có năng lực để giúp người khác trong cách này. Qua điều này họ thấy rằng chỉ có một Đức Phật mới có thể làm như thế, và do vậy họ phát triền nguyện ước được đạt đến Quả Phật một cách nhanh chóng. Đây là tâm giác ngộ, tâm bồ đề, "Tâm nhiệt tình Giác Ngộ."

 

Khi hành giả đã thực hành chủ đề lớn này, thì đại bi, đại từ, tư tưởng đầu tiên, và tâm giác ngộ ( mahakarunika, mahamaitreya, adicinta và bodhicitta) trở thành bộ phận rất tự nhiên của hành giả. Ở tại điểm này, hành giả trở thành một vị Bồ tát, mặc dù chưa là một tôn giả Bồ tát - một vị Bồ tát rất tiến hóa, vị đã thấy tánh không một cách rõ ràng. Khi hành giả đạt đến giai tầng cao của một vị Bồ tát, tất cả chư thiên đều tôn kính. Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù vị ấy tỉnh giấc hay ngủ, và ngay cả những nghiệp nhân rất tổn hại cũng được ngăn chặn khỏi chín muồi.

 
Geshe Rabten Rinpoche 2

Thông thường, người ta có thể loại trừ những phiền não tinh thần chỉ bằng việc thiền quán về tánh không. Tâm giác ngộ làm thiền quán về tánh không mạnh mẽ hơn nhiều. Khi một chiến sĩ đang chiến đấu với một kẻ thù thì người ấy cần sử dụng vũ khí của người ấy, nhưng vị ấy cũng cần có thực phẩm tốt; tâm giác ngộ giống như thực phẩm này.

 

Để đạt đến mục tiêu sau cùng, chúng ta cần hai khí cụ: tuệ giác và phương tiện, những thứ chứa đựng cả bi mẫn và hành động bi mẫn. Đại bi, đại từ, tư tưởng đầu tiên và tâm giác ngộ tất cả bao hàm trong phương tiện. Tuệ giác là việc thấy mọi thứ như chúng là. Một vị Bồ tát là cả hai thứ này. Một vị a la hán, người đã hoàn thành con đường Tiểu Thừa, đã ra khỏi sanh tử luân hồi và đã đạt đến trình độ thấp nhất của niết bàn, là mạnh mẽ trong tuệ giác - trong sự thực chứng về tánh không - nhưng yếu kém về phương tiện. Họ có bi mẫn, nhưng không phải là đại bi. Họ có từ ái năng động nhưng không phải là đại từ. Khác biệt chính giữa con đường của họ và Đại Thừa là về phía phương tiện. Cuối cùng, những vị a la hán sẽ phải phát triển phương tiện.

 

Tôn giả Tịch Thiên, trong Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát (Nhập Bồ tát Hạnh) đề cập tất cả những đạo đức khác biệt của tâm giác ngộ, cho những ai quan tâm trong việc hiểu biết hơn về "tâm nhiệt tình Giác Ngộ".

 

Ẩn Tâm Lộ, Saturday, December 19, 2015

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3893)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8485)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11706)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12734)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12754)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4705)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4830)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5032)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7308)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567