Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Họa và Thiền Tập

28/04/201505:49(Xem: 6756)
Hội Họa và Thiền Tập

Duc Dat Lai Lat Ma2

 Có những lúc gần như kiệt sức, tôi lại lấy giấy mực ra vẽ. Công việc hàng ngày phải đọc nhiều, viết nhiều, và tra cứu nhiều – có những lúc chữ tràn ngập người tôi. Tiếng Việt, tiếng Anh. Mỗi ngày phải quan sát chuyện thế giới, từ Iraq tới Afghanistan, từ Dharamsala tới Rome, từ chuyện tình Hollywood tới thị trường tài chánh Wall Street... tôi ngồi giữa những trận mưa thông tin, phải đọc thật nhanh, chọn tin thật nhanh, sắp xếp ưu tiên tin tức thât nhanh, và dịch thật nhanh. Đêm về, hạnh phúc là khi đọc Kinh Phật, và đôi khi, là viết về Đạo Phật.

 

Nhưng có những khi chữ không còn là chữ nữa. Lúc đó, bao nhiêu công phu thiền tập như dường tan rã, vì những trận mưa chữ ban ngày đã ngập tràn trong đầu mình. Tôi lại lấy giấy mực ra vẽ, khi vẫn còn ngồi được, chưa phải lăn ra ngủ vì kiệt sức.

 

Tôi tránh giấc ngủ, khi có thể. Vì sợ ngày trôi qua nhanh, vì thấy đời người còn nhiều việc để làm. Thêm nữa, tôi ngủ rất dễ; hễ nằm xuống, nghĩ rằng cần ngủ là ngủ gần như tức khắc. Thói quen ngủ dễ cũng có từ một thời gian, sau khi tôi tập Niệm Tử, nghĩa là, niệm về chết. Nằm xuống và nghĩ là cái chết đến với mình, từ từ chết từ chân lên đầu, và thân mình nằm như xác chết, chỉ còn hơi thở phập phồng như em bé. Và rồi tôi tập Niệm Tử ngay cả khi đang đi đứng nằm ngồi. Có lẽ, đó là một cách như Buông Xả, hay Phóng Hạ, hay những cách nói tương tự.

 

Tôi thích cách Niệm Tử. Có lẽ, là một cách đơn giản hóa từ pháp Phowa của Phật Giáo Tây Tạng. Tôi từng dịch một cuốn sách về Phowa, và rồi quên hết. Rồi một thời gian sau, đọc được trong các sách chú giải Kinh Pháp Cú về một cô bé 16 tuổi được Đức Phật dạy về niệm sự chết. Trong kinh không nói chi tiết, nhưng tôi ưa thích phương pháp gọn gàng, vì khi nằm xuống nghĩ rằng cái chết đi từ dưới chân lên đầu, cảm nhận hơi lạnh cơ thể và rồi đủ thứ mọi chuyện tan biến trong tâm, tan biến mọi chuyện Sắc chuyện Không, tan biến mọi chuyện Được chuyện Mất, tan biến mọi chuyện Cái Ta và Cái Của Ta, vân vân... Rồi sáng hôm sau thức dậy, Niệm Tử này vẫn theo khi đi đứng nằm ngồi trong ngày mưu sinh mệt nhọc đang tới.

 

Câu hỏi tới đây là,  bây giờ vẽ cái gì. Người xưa, như Thiền Sư Chân Nguyên thế kỷ 17, xem nét vẽ như bày tỏ chân lý, khi lời nói không dùng đủ:

 

Nói ra là bị kẹt

Không nói cũng chẳng xong

Vì anh đưa một nét

Đầu núi ánh dương hồng.

 

Tôi không cao siêu như thế, bởi vì vẽ với tôi chỉ là khi chữ đầy trong người, và vẽ chỉ là một cách đơn giản như  hít thở, như đứng ngồi, và cũng là một cách thiền tập sau khi tả tới trước những trận mưa chữ ban ngày. Bởi vì, ngồi trước giấy mực, tôi vẫn thấy mình chỉ là một khối tham sân si đang mượn tới nét vẽ, tới màu sắc để thiền tập. Và qua nhiều năm tập vẽ, tham sân si cũng nhạt dần đi. Thời gian đầu còn là Cái Tôi đang vẽ và Cái Được Tôi Vẽ, với thời gian dần dần chỉ còn là hành động vẽ, nơi không có đúng sai, không có được mất – và trước mắt chỉ còn là giấy và mực, là màu loang theo nét cọ...

 

Tôi từng chứng kiến nhiều buổi thực hiện tranh cát mandala  của quý sư Tây Tạng. Các sư cầm các ống nhỏ, gõ nhẹ nhẹ để cát màu rơi xuống, làm thành một đồ hình phức tạp, trông như một thành trì hình vuông với 4 cửa, và bên trong là nhiều hình tròn nhỏ với hình nhiều vị Phật ngồi giữa các vòng tròn. Vẽ công phu mất mấy ngày, rồi làm nghi lễ xóa đồ hình mandala, tượng trưng cho Vô Thường.

 

Có một lúc, tôi vẽ 42 tấm tranh Đức Đạt Lai Lạt Ma, mừng sinh nhật thứ 75 của ngài. Lúc đó là năm 2010. Khi vào mạng www.YouTube.com gõ nhóm chữ “nguyen giac dalai lama 75 birthday” sẽ thấy các tranh này. Vẽ là để cúng Phật, tôi vẫn xem ngài là một vị Phật.

 

Nhưng tôi nghiệm ra rằng, hội họa cũng như mọi hành vi nghệ thuật khác – như viết truyện, làm thơ, sáng tác nhạc, hát ca, và vân vân --  tự thân không có tác dụng thiền tập. Vì rất nhiều nghệ sĩ mà tôi quen biết, thân cận... đều không quan tâm chuyện tu học, và sáng tác nghệ thuật tuy là một hành vi văn hóa, nhưng thường làm cho cái ngã sâu dày hơn. Nghĩa là, người ta có thể thiền hóa nghệ thuật, nhưng không thể nghệ thuật hóa thiền.  Với tâm thiền, mọi nghệ thuật đều là phương tiện.

 

Tôi thường gặp khó nhọc khi viết bài nhận định về các tác phẩm mới -- về những sách mới in, về những buổi triển lãm tranh hàng năm, về các ca khúc mới sáng tác, và vân vân. Nếu chỉ khen, nếu thuần tuý khen, tất sẽ làm vui lòng các bạn (và tôi thấy, nhưng không bao giờ nói thẳng, rằng thường khi tôi đang làm cho họ sâu dày thêm bản ngã và khó gỡ thêm với các tham sân si đời thường). Nhưng nếu chê, sách và tranh có thể không bán như ý được, và cũng là điều tội nghiệp. Thực tế nữa, có khi chê một bài thơ, chê một tấm tranh... là có thể bị xem như kẻ thù cả đời.

 

Thế là phải đi dây. Làm thế nào đi dây? Khó vậy. Nhất là, trong khi mình đang giữ cái tâm lặng lẽ, đang giữ cái tâm nơi các niệm Có và Không đều đã chết... Những lúc đó, tôi lại nhớ tới câu thơ dẫn trên, “Nóí ra là bị kẹt, không nói cũng chẳng xong...” Nhưng nhà sư Chân Nguyên là bậc đại giác ngộ, và ở hoàn cảnh khác; còn tôi chỉ là một thiền sinh đời sau, một khối tham sân si đang ngồi viết, ngồi vẽ... Và bị bắt buộc phải viết, vì kiếp này phải sống bằng chữ.

 

Thêm nữa, tự mình, mình có thể tu học, nhưng đâu có quyền gì đòi các nhà văn, họa sĩ, nghệ sĩ, ca sĩ... những người sống bằng tên tuổi đời thường phải gìn tâm thế này, giữ tâm thế kia.

 

Do vậy, khi tôi vẽ, cũng là một cách luyện tâm trong khi tránh xa cõi chữ nghĩa. Vẽ là vẽ, là vô tâm vẽ. Là thấy tâm mình loang theo nét mực trên giấy. Có khi vẽ ra hình thể, có khi vẽ thuần trừu tượng. Có khi vẽ xong, là quăng tờ giấy; có khi cất vào một góc phòng, và thường là quên luôn. Dù vậy, trong mọi thời vẫn luôn luôn thấy không có ai vẽ.

 

Và vẫn tập nhìn như Đức Phật dạy, rằng trong cái nhìn, chỉ có cái được nhìn. Với tôi là, trong cái vẽ, chỉ có cái được vẽ; nghĩa là, mọi cái “tôi” và “của tôi” đều chảy theo mực loang trên giấy, nơi không còn đúng sai, không còn xấu tốt, không còn phiền não với niết bàn.  Để rồi ban ngày, lại đi dây giữa rừng chữ nghĩa, vừa giữ tâm mình, vừa tránh làm động tới chúng sinh...


Nguyên Giác

GHI CHÚ: Bài này viết năm 2014, theo yêu cầu của nhà thơ Kinh Bắc, một bạn học từ thời thơ ấu, cho báo giấy Tạp Chí Suối Nguồn. Hiệu đính tháng 4-2015 cho ấn bản điện tử để mừng sinh nhật 80 của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

 

 

Một số hình Đức Đạt Lai Lạt Ma vẽ năm sinh nhật thứ 75 của Ngài, do Nguyên Giác vẽ.

Duc Dat Lai Lat Ma

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 6786)
Khi bạn bắt đầu thiền định về tâm bạn, hãy ngồi xuống với thân thể thẳng thắn, để cho hơi thở ra vào tự nhiên, và với đôi mắt không nhắm lại cũng không mở lớn, hãy nhìn vào không gian trước mặt bạn. Hãy tự nghĩ rằng chính vì tất cả chúng sinh, là những người từng là những bà mẹ của bạn, bạn sẽ quán chiếu Giác Tánh, khuôn mặt của Đức Phổ Hiền.
22/04/2013(Xem: 5842)
Như chúng ta biết, tất cả mọi biểu hiện trong cuộc sống, qua mọi thi vi động tác của ngôn ngữ cử chỉ hành động của chúng ta, đều phát xuất từ tự tâm chúng ta, như chính đức Phật đã xác quyết trong kinh Hoa Nghiêm: " Nhất thiết duy tâm tạo. " Ở đó, trong cuộc sống thường nhật hằng ngày, chúng được thể hiện qua hai biểu thị: vọng và chân (chân ở đây vượt lên trên vọng và chân của vọng).
22/04/2013(Xem: 6885)
Con đường vượt qua cửa Tổ là Đường về Hố Thẳm. Ở đây, nếu bạn muốn vượt qua, muốn siệu việt nó mà không buông tay để nhảy, thì kể như bạn đã đi lạc vào đường ma lối quỷ rồi đó! Ở đây, chúng tôi đề cập đến một con đường, nhưng thật sự con đường này không phải để chúng ta đi bằng đôi chân dính trên mặt đất, mà phải nhảy vào khi buông đôi tay.
22/04/2013(Xem: 4857)
Sau khi Lục tổ Đại sư đắc Pháp từ Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng mai, cho đến ngày đắc Giới tại Đông sơn là khoảng thời gian dài mười lăm năm ẩn tu trong đám thợ săn. Trong khoảng thời gian này, bài pháp đầu tiên để dạy người của Lục tổ Đại sư , là bài pháp nảy sanh từ lòng trắc ẩn, và cái thế chẳng đặng đứng trước lòng ngoa ngụy của con người.
22/04/2013(Xem: 4985)
Từ pháp hội Linh sơn, đức Thế tôn cầm cành hoa giơ lên trước chúng. Bấy giờ, mọi người đều làm thinh, chỉ có ngài Ca-diếp rạng mặt mỉm cười. Phật dạy: "Ta có chánh pháp nhãn tạng, diệu tâm Niết bàn, thực tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay trao lại cho Ma ha Ca-diếp." Và cho đến khi Bồ-đề-đạt-ma đến Trung quốc tuyên bố rằng: " Chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, không lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo." Qua những lời dạy này, đã nêu rõ chủ đích và sự kế thừa của Thiền tông rồi.
22/04/2013(Xem: 6136)
Từ trung tâm Thành nội Huế, ta phải băng qua con đường ven dòng sông Hương, lấy chùa Linh Mụ làm mốc khởi đầu, đi qua những thôn xóm trù phú nhưng tĩnh lặng, men theo góc núi xa để càng đi càng thấy vắng vẻ. Băng qua những cánh đồng, men theo con đường mòn dân sinh đầy ổ gà ven sườn núi để hướng về đỉnh núi Chằm, thuộc huyện Hương Trà.
22/04/2013(Xem: 6083)
Khi nghe một điều gì về Phật giáo trong bản tin tức hàng ngày, bạn thường nghĩ đến một tôn giáo thờ nhiều hình tượng to lớn, có các thầy tu áo vàng, với không khí dầy đặc mùi khói nhang. Bạn có cảm giác tôn giáo nầy không phải dành cho bạn, ngoại trừ có thể đấy chỉ là một buổi trình diễn ly kỳ, hấp dẫn. Tuy nhiên, chẳng lẽ Phật giáo chỉ có thế thôi ? Các tân nhiếp ảnh gia không chụp được các ảnh thật sự Phật giáo hay sao ? Các báo chí hào nhoáng trình bày cho bạn thấy cái nền tảng của tôn giáo đó, hay chỉ là cái dáng vẻ bề ngoài ?
22/04/2013(Xem: 5149)
Chúng ta thường không hay để ý đến những việc tầm thường. Chúng ta thường chỉ nhận biết hơi thở của chính mình khi hơi thở không bình thường, như lúc chúng ta lên cơn suyễn hoặc lúc chúng ta chạy quá sức. Tuy vậy, với cách quán niệm hơi thở, chúng ta sử dụng hơi thở tầm thường của chúng ta làm đề tài cho việc thiền định.
22/04/2013(Xem: 5764)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước. Đến nay, nó đã đi vào học đường, đi vào các sinh hoạt cộng đồng và thậm chí, còn là thời trang văn vẻ cho một số người trí thức nữa.
22/04/2013(Xem: 6280)
Từ lâu tôi luôn nghĩ rằng thực hành thiền Minh Sát là hành Chánh Niệm. Kinh nghiệm hành thiền và học thiền của tôi rất giới hạn gồm có thiền Minh Sát theo truyền thống của Ngài Mahasi Sayadaw, (Thiền sư U Pandita, Thiền Sư Khippapanno). Gần đây tôi có được cơ hội học được phương pháp Niệm Cảm Thọ của Thiền Sư Cư sĩ S.N. Goenka. Duyên may đưa đến năm nay tôi được đi học thiền "Niệm Tâm" ở thiền viện của Cố Hòa Thượng Thiền Sư Shwe Oo Min, Miến Điện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]