Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[291 - 300]

13/02/201217:42(Xem: 8898)
[291 - 300]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

291. PHẬT TRONG ĐỜI NÀY

Một hôm, Thiền sư Đông Lĩnh đang thuyết pháp ở Saga, ở vùng núi ngoại ô Kyoto. Trời mùa đông lạnh chết người. Thời tiết lạnh đến nỗi mọi người trong thính đường tỏ vẻ khó chịu kịch liệt.

Đông Lĩnh rống to, “Những ai trong quí vị sợ thời tiết lạnh nên trở lại đời sống thế gian ngay! Quí vị làm sao học Thiền được? Tại sao quí vị không tìm nó trong tâm của quí vị? Con cá ở trong nước, nhưng không biết nước ngay ở đó; con người ở giữa đạo lý tối thượng mà không biết đạo lý.”

Lúc đó, trong thính đường có một người theo phong trào Tâm Học tên là Nakazawa Doni, người sau này lập hội Tâm Học ở miền đông Nhật Bản, nghe những lời Đông Lĩnh nói, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Sau này, Nakazawa giải thích, “Hiển Bày Giáo Lý có nghĩa là không đặt tâm ra ngoài,” rồi thêm, “Đây là những gì họ muốn nói qua câu thành Phật ngay trong thân này.”

(Giai Thoại Thiền)

292. ẤN KHẢ QUÁ SỚM

Ryozai ban đầu tham học với Thiền sư Cổ Nguyệt. Sau sư theo Bạch Ẩn và đạt ngộ dưới sự chỉ dạy của Bạch Ẩn.

Khi Ryozai đến tham kiến Bạch Ẩn, Bạch Ẩn thấy ngay sư là người có khả năng phi thường. Ryozai đã ở lại với Bạch Ẩn nhiều năm, đương nhiên nhận sự ấn khả của Bạch Ẩn và trở thành sư. Như vậy Ryozai trở thành người thứ nhất trong hàng sư do Đại sư Bạch Ẩn đào tạo.

Tuy nhiên, sau này Bạch Ẩn nói, “Tôi đã ấn khả cho Ryozai quá sớm. Vì vậy, bây giờ ông ta không thể làm nắm vững được sự việc. Nếu tôi có thể đợi thêm ba năm nữa, trước khi cho phép ông ta dạy người, không một ai trên thế gian có thể phê bình ông ta được.”

Có người hỏi Bạch Ẩn tại sao sư ấn khả cho Ryozai quá sớm. Đại sư đáp, với sự hối tiếc sâu xa, “Lúc đó tôi chỉ ý thức rằng tìm được một người như thế thật khó biết bao. Tôi đã không nhận thức ra là ấn khả quá sớm.”

(Giai Thoại Thiền)

293. ĐẠI SỰ

Nga Sơn Từ Trác (1727-1797) đã hành cước khi sư mới mười sáu tuổi. Khi vào Thiền viện, trong thời gian chín mươi ngày tu tập kịch liệt sư đã tỉnh ngộ. Sau đó, sư hành cước viếng hết sư này đến sư khác, tham học với hơn ba mươi Thiền sư. Không một Thiền sư nào có thể làm gì sư được, vì thế sư trở về với bổn sư là Nguyệt Thuyền Thiền Huệ (1702-1781).

Nguyệt Thiền thừa nhận sự nắm vững Thiền của Nga Sơn trẻ tuổi, lúc đó Nga Sơn cũng tin rằng mình nắm được Thiền.

Bấy giờ, Nga Sơn bất chợt đi ngang qua Thiền viện của Bạch Ẩn đôi lần, nhưng sư không muốn gặp bậc thầy danh tiếng này.

Nhưng một hôm sư chợt nghĩ, “Trong các sư trên khắp đất này, không một ai có thể chỉ cho mình điều gì. Bạch Ẩn là người duy nhất có những phương pháp mà ta không biết.”

Ý nghĩ này đã khơi nơi sư dậy lòng mong muốn gặp Bạch Ẩn. Sư nói với Nguyệt Thuyền ý mình. Nguyệt Thiền nói, “Tại sao ông cần phải gặp Bạch Ẩn? Nga Sơn lại nghĩ Nguyệt Thuyền đúng nên ở lại.”

Một năm nữa trôi qua, khi Nga Sơn bất ngờ nghe Bạch Ẩn được mời đến thuyết pháp về Bích Nham Lục ở thủ đô Hồng Hộ. Bấy giờ sư nghĩ, “Bao lâu ta chưa gặp vị lão sư ấy, ta chưa thực sự là bậc đại trượng phu.”

Dù cho Nguyệt Thuyền cố giữ sư lại, bấy giờ Nga Sơn đã quyết tâm đi. Sư hành cước thẳng đến Edo để gặp đại sư Bạch Ẩn.

Khi Nga Sơn trình kiến giải của mình, Bạch Ẩn hét to, “Đồ lừa gạt, hơi thở thối tha, ở đâu đến đây lừa ta?” Và sư ném Nga Sơn ra ngoài.

Nga Sơn không bỏ cuộc. Sau khi bị ném ra ngoài ba lần, sư vẫn nghĩ mình đạt chân ngộ và Bạch Ẩn cố hạ sư vì có mục đích.

Một đêm nọ, khi loạt bài thuyết pháp gần chấm dứt, Nga Sơn suy nghĩ, “Quả thật Bạch Ẩn là bậc thầy vĩ đại nhất trên đất này. Tại sao ông ta lại phản đối người ta một cách độc đoán? Ắt phải có yếu chỉ.”

Bấy giờ Nga Sơn đến xin lỗi Bạch Ẩn vì thô xuất, và xin chỉ dạy. Bạch Ẩn nói, “Ông chưa trưởng thành. Suốt đời ông sẽ mang Thiền cái da bụng chạy quanh. Dù ông nói có trôi chảy, đó cũng chẳng cho ông năng lực gì khi ông đến bờ sanh tử. Nếu ông muốn cuộc sống hằng ngày của ông thực sự thỏa mãn, ông phải nghe tiếng vỗ một bàn tay.”

Sau này Nga Sơn nói với môn đệ, “Tôi mất ngót hai chục năm hành cước khắp xứ, tham học với hơn ba chục Thiền sư. Tôi đã quá sắc bén nên không ai hợp với tôi. Cuối cùng, tôi chạy đâm đầu vào lão Bạch Ẩn và đã bị đá ra ba lần, thấy ra năng lực thông thường của tôi vô dụng tại điểm ấy. Rồi tôi trở thành kẻ chân thành theo đạo.

Vào lúc đó, trên thế gian này ai là kẻ có thể đánh tôi được ngoại trừ Bạch Ẩn? Tôi không đánh giá đạo hạnh vĩ đại hay hơi thở danh vọng của sư. Tôi không đánh giá nhận thức siêu việt hay nội kiến thông suốt của sư qua các công án phức tạp của cổ nhân. Tôi không đánh giá sự giảng giải lưu loát và sự phơi bày gan dạ của sư. Tôi không đánh giá số người theo sư. Tôi chỉ đánh giá sự kiện trong khi tất cả các Thiền sư khác không thể làm gì tôi được. Bằng phương tiện đo lường thô bạo, Bạch Ẩn đã đưa tôi vào ngõ cụt, cuối cùng khiến tôi có thể hoàn thành Đại Sự.

Hiển nhiên, việc này chẳng dễ chút nào. Tôi theo Bạch Ẩn chỉ được bốn năm, khi sư trở nên già đến nỗi đôi khi sư quá mệt mỏi cho việc tham vấn. Kết quả, tôi đã đến Đông Lĩnh để học giáo lý tối thượng thừa. Nếu không có Đông Lĩnh ở đó, tôi không thể kiện toàn chi tiết cuối cùng.”

(Giai Thoại Thiền)

294. SAI LẦM

Chodo đã tham học với Cổ Nguyệt và chứng nhập cảnh giới chơn không.

Vào lúc ấy, môn phái của Thiền sư Bạch Ẩn đang thịnh phát, người cầu đạo khắp nơi trên đất nước lũ lượt đến với đại sư.

Chodo muốn đến tranh luận về Thiền với Bạch Ẩn, nhưng Cổ Nguyệt khuyên Chodo đừng đi. Chodo không nghe, vì thế Cổ Nguyệt nói, “Nếu anh cứ khăng khăng, để tôi viết thư giới thiệu.”

Vì vậy, Chodo thẳng đến chỗ Bạch Ẩn, mang theo thư giới thiệu của Cổ Nguyệt.

Chodo đến chỗ Bạch Ẩn nhằm lúc Bạch Ẩn đang tắm. Khởi sự, Chodo trình Kiến giải của mình. Bạch Ẩn nói, “Nếu anh như thế này, không vì gì anh đã không đến đây. Nhưng bây giờ hãy nghỉ ngơi đi.”

Bấy giờ Chodo nghĩ rằng Bạch Ẩn cũng đã ấn khả cho mình.

Cuối cùng, khi Bạch Ẩn ra khỏi phòng tắm, Chodo chính thức gặp sư, trình thư giới thiệu của Cổ Nguyệt.

Mở lá thư do thầy của Chodo gửi đến, Bạch Ẩn chỉ thấy thư nói một cách đơn giản, “Thanh niên này không phải không có chút tỉnh ngộ, nhưng y là người độ lượng nhỏ hẹp. Xin tùy nghi đối đãi.” Bạch Ẩn liền hét to, “Anh là người có căn cơ nhỏ bé, khả năng bậc dưới. Lấy gì để hoàn thành Đại Sự?”

Thình lình bị cướp mất quan điểm, Chodo hóa điên và không bao giờ bình phục. Chodo trở lại tỉnh nhà, dựng một thiền đường nhỏ, tu tập một mình.

Theo truyền thống, các Thiền viện tổ chức tuần nhiếp tâm đặc biệt vào đầu tháng chạp mỗi năm, kỷ niệm ngày Phật thành đạo. Vào những dịp ấy, Chodo thường đem các chú tiểu và mèo vào thiền đường của mình, bảo ngồi. Khi nào mèo bỏ chạy, Chodo bắt lại đánh đập vì cho rằng phá luật lệ.

Bạch Ẩn thường bi thán, “Tôi dạy nhiều người, mà sai lầm trong hai trường hợp, một là Chodo và một trường hợp khác.”

(Giai Thoại Thiền)

295. MỘT NGÀY KHÔNG LÀM, MỘT NGÀY KHÔNG ĂN

Châm ngôn này được dùng trong các thiền viện là do Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (720 - 814) nói ra. Câu chuyện xảy ra như sau:

Thiền sư Bách Trượng hằng ngày làm việc lao động ngoài trời (một sinh hoạt của Thiền tăng gọi là lao tác(samu).

Khi sư đã quá già, môn sinh yêu cầu sư đừng lao tác nữa. Nhưng Bách Trượng làm ngơ lời đề nghị của họ và tiếp tục làm việc hằng ngày. Vì thế một ông tăng đem dấu dụng cụ làm việc của sư. Kết quả, Bách Trượng vào phòng ngồi im lặng. Vị tăng thị giả một ngày đem cơm cho sư ba lần. Bách Trượng không ăn. Bất chấp vị tăng thị giả nài nĩ bao nhiêu lần, sư vẫn từ chối. Vị tăng thị giả hỏi, “Hòa thượng có chuyện gì vậy?” Bách Trượng đáp, “Một ngày không làm, một ngày không ăn.”

Lao tác không chỉ có nghĩa là làm việc ngoài đồng. Ngồi thiền là một trong những lao tác truyền thống của chúng ta. Vì thế chúng ta có thể nói: Một ngày không ngồi thiền, một ngày không ăn.

(Thiền Ngữ Thiền Tự)

296. YÊU HOA

Thuở ấy có một lãnh chúa thích hoa cúc vô cùng. Ông ta có cả một khu vườn trồng đầy hoa cúc phía sau lâu đài. Ông ta đã bỏ nhiều thì giờ chăm sóc và vun quén.

Thực tế, lãnh chúa đã chú ý chăm sóc hoa cúc nhiều hơn vợ và các tỳ thiếp của ông ta. Nhiều tùy viên đã bị ông trừng phạt vì làm gãy một cái hoa của ông. Nói chung, sự đam mê hoa cúc của ông ta đã làm cho đời sống mọi người chung quanh khốn khổ.

Một hôm, một tùy viên vô ý làm gãy một cành hoa, liền bị lãnh chúa phẫn nộ ra lệnh tống giam. Uất hận vì sự đối xử bất công này, người tùy viên quyết định tự mổ bụng để phản đối, theo truyền thống chiến sĩ Nhật.

Lúc ấy, Thiền sư Tiên Nhai Nghĩa Phạn (1750-1837) bất chợt nghe chuyện, vội vã can thiệp, ngăn cản người tùy viên tự tử vì một việc như thế.

Không hài lòng với biện pháp tạm thời, Tiên Nhai quyết tâm áp dụng giải pháp lâu dài. Một đêm mưa, khi hoa cúc nở đầy, Tiên Nhai cầm một lưỡi liềm, lẻn vào vườn lãnh chúa, cắt tất cả hoa cúc, không chừa một cành nào.

Nghe tiếng động lạ ngoài vườn, lãnh chúa nhìn ra và thấy có người ở đó. Vội vã rút kiếm với cảnh giác cao độ, ra xem coi ai đang làm gì.

Tiên Nhai bình tĩnh nói, “Nếu cỏ như thế này mà không cắt, chúng sẽ trở thành tầng bậc.”

Bây giờ lãnh chúa nhận ra mình đã sai lầm như thế nào. Tựa như vừa chợt tỉnh một cơn mộng. Từ đó về sau, ông ta không trồng hoa cúc nữa.

(Giai Thoại Thiền)

297. CỎ THƠM, HOA RỤNG

Đại sư Chiêu Hiền ở Lộc Uyển, Trường Sa thừa kế Pháp của Nam Tuyền, là người đồng thời với Triệu Châu và Tử Hồ. Cơ phong sư nhanh bén.

Ai hỏi kinh, lấy kinh đáp; ai muốn kệ, liền cho kệ. Nếu ông muốn cùng lão thông gặp nhau, liền dùng lão thông gặp nhau.

Ngưỡng Sơn thường được coi là thuộc hàng cơ phong bậc nhất. Một hôm sư với Trường Sa cùng nhau ngắm trăng, Ngưỡng Sơn chỉ mặt trăng, nói:

- Mọi người đều có cái này, chỉ là dùng chẳng được.

Trường Sa nói:

- Đúng vậy, ông dùng được chăng?

Ngưỡng Sơn nói:

- Sư thúc thử dùng xem.

Trường Sa liền cho Ngưỡng Sơn một đạp té nhào. Ngưỡng bò dậy nói:

-Tôn thúc giống như con cọp.

Do đó, người sau gọi Trường Sa là “Sầm Con Cọp.”

Một hôm, Trường Sa đi dạo núi về đến cổng chùa, vị tăng thủ tọa, cũng là người trong hội chúng Trường Sa, hỏi:

- Hòa thượng đi đâu về vậy?

Trường Sa đáp:

- Đi dạo núi về.

Thủ tọa hỏi tiếp:

- Hòa thượng đã đến chỗ nào về?

Trường Sa đáp:

- Trước theo cỏ thơm đến, sau theo hoa rụng về.

Thủ tọa nói:

- Rất giống ý xuân.

Trường Sa nói:

- Còn hơn cả sương thu trên hoa sen.

(Bích Nham Lục)

298. BA CHUYỂN NGỮ

Trong hội chúng [Vân Môn], Ba Lăng có biệt danh là Giám Lắm Lời. Khi đi hành cước, sư luôn luôn may vá tọa cụ, thâm đạt đại sự dưới gót Vân Môn, như vậy nên rất kỳ đặc. Sau này, khi ra mặt với đời, với tư cách là người thừa kế Vân Môn. Trước tiên dừng lại ở Ba Lăng, Nhạc châu [Hồ nam]. Sư chẳng viết gì về truyền thừa giáo pháp mà chỉ dùng ba chuyển ngữ sau đây dâng lên Vân Môn:

1. Thế nào là Đạo?

- Người mắt sáng rơi giếng.

2. Thế nào là kiếm thổi lông?

- Cành cành san hô chống đến trăng.

3. Thế nào là tông Đề Bà?

- Trong chén bạc đựng tuyết.

Vân Môn nói, “Sau này vào ngày giỗ kỵ của lão tăng, chỉ cần cử ba chuyển ngữ này, kể như đã đền ơn đầy đủ.” Quả nhiên từ đó về sau, sư không tổ chức trai kỵ, chỉ theo ý Vân Môn, cử lên ba chuyển ngữ này.

(Bích Nham Lục)

299. AI Ở TRONG GIẾNG?

Đam Nguyên tên là Ứng Chơn, ở chỗ [Nam Dương] Quốc Sư làm thị giả. Sau sư đến trụ tại chùa Đam Nguyên ở Kiết châu [Giang Tây]. Lúc ấy, Ngưỡng Sơn đến tham kiến Đam Nguyên. Đam Nguyên lời nói nặng nề, tánh tình thô bạo, khó gần gũi. Không thể ở đó được, vì vậy trước tiên Ngưỡng Sơn đến tham kiến Thiền sư Tánh Không. Ở đó có một ông tăng hỏi Tánh Không:

- Thế nào là ý tổ sư từ Tây Thiên đến?

Tánh Không đáp:

- Giả sử có kẻ ở dưới giếng sâu ngàn thước, nếu ông có thể đem y lên khỏ giếng mà không dùng một tấc dây, sẽ vì ông nói ý Tổ sư từ Tây Thiên đến.

Ông tăng nói:

- Gần đây, hòa thượng Xướng ở Hồ Nam cũng nói đông nói tây với thiên hạ như vậy.

Lúc ấy, Tánh Không gọi Ngưỡng Sơn, bảo:

- Sa di, lôi cái xác chết này ra.

Sau Ngưỡng Sơn đem chuyện này đến hỏi Đam Nguyên:

- Hòa thượng làm sao đem người đó ra khỏi giếng?

Đam Nguyên nói:

- Kìa, đồ ngốc! Ai ở dưới giếng?

Ngưỡng Sơn không hiểu. Sau đó đến hỏi Qui Sơn. Qui Sơn liền gọi lớn [tên của Ngưỡng Sơn]:

- Huệ Tịch!

Ngưỡng Sơn ứng tiếng:

- Dạ!

Qui Sơn nói:

- Ra rồi.

Lần này Ngưỡng Sơn đại ngộ. Sư nói:

- Con ở Đam Nguyên được thể, ở Qui Sơn được dụng.

(Bích Nham Lục)

300. NÊN CƯỜI HAY NÊN KHÓC

Khi Lục Hoàn Đại phu làm Quán Sát sử ở Tuyên châu, đến tham học với Nam Tuyền. Khi Nam Tuyền tịch, Lục nghe khóc than liền vào chùa dự tang lễ. Cúng điếu xong, Lục liền cười ha hả. Viện chủ nói:

- Tiên sư và ngài có nghĩa thầy trò, tại sao chẳng khóc?

Lục Đại phu nói:

- Nói được thì khóc.

Viện chủ lặng câm. Lục bèn khóc lớn:

- Hỡi ôi! Hỡi ôi! Tiên sư cách biệt xa rồi.

Sau Trường Khánh nghe chuyện bèn nói: “Đại phu nên cười, chẳng nên khóc.”

(Bích Nham Lục)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/03/2017(Xem: 6544)
Con người quay về đạo Phật, nếu thật sự tìm cầu cho mình con đường giải thoát sinh tử, luân hồi, đều phải tri hành từng bước theo chủ trương của đạo Phật. Trước hết phải quy y Tam bảo, và tiếp nhận giới luật Phật, hành trì giới luật mới đúng ý nguyện quay về. Sau đó, phải học Phật pháp, và tu tập là điều kiện ắt phải. Phật pháp do chư Tăng gảng dạy, để cho các hành giả thấy được các chân lý và đạo giải thoát trong các pháp môn tu. Rồi tu hành theo Đạo, sau khi đã ngộ lý. Hành theo đạo để giống như Phật. Giống như Phật, là giống như thế nào ? Đó là tâm giác ngộ từng phần một, rồi đến phần hai, ba…Qua đây, cho ta biết thêm chữ Học, là bắt chước
25/01/2017(Xem: 9468)
Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung. Hình ảnh Đức Phật tọa thiền dưới một cội cây vào một đêm trăng sáng, đạt được những hiểu biết siêu nhiên đã nói lên thật cụ thể cái "cột trụ" đó.
06/01/2017(Xem: 10413)
Phật giáo Tây Tạng hay Kim Cương Thừa nói chung rất thực tế và cụ thể, giúp người tu tập trực tiếp biến cải tâm thức mình và đạt được giác ngộ. Dưới đây là một bài giảng ngắn của Đức Đạt-lai Lạt-ma về một trong các phép luyện tập thiền định chủ yếu và thiết thực của Phật giáo Tây Tạng, là "Phép thiền định gồm bảy điểm" do Atisha (A-đề-sa) đề xướng.
01/06/2016(Xem: 13265)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
28/04/2016(Xem: 20107)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
09/04/2016(Xem: 6689)
Chánh niệm, tiếng Pali viết là Sammàsati, là suy niệm chân chính, sự tỉnh giác, biết rõ các pháp một cách trọn vẹn. Chánh niệm—một trong tám chi phần quan trọng của Bát chánh đạo—vốn được xem là con đường tám lối (lanes) đưa đến sự an vui và giải thoát, là chân lý thứ 4 (Đạo đế) trong Tứ Diệu Đế.
21/12/2015(Xem: 6286)
Thừa hay xe không phải là người chuyên chở hay những gì được chuyên chở - nó là sự chuyên chở . Vì vậy Tiểu Thừa có nghĩa là "sự chuyên chở vật nặng nhỏ hơn", và Đại Thừa, "sự chuyên chở vật nặng lớn hơn."
14/10/2015(Xem: 4986)
Đây là bài thuyết trình cho ngày Hội nghị thượng đỉnh Giáo viên ở bang California (California Teachers Summit 2015) tại trường Đại học Tiểu Bang California Sacramento (CSUS) vào ngày 31 tháng 7, năm 2015. Chúng tôi được mời thuyết trình cho gần 400 giáo viên, hiệu phó, hiệu trưởng của những trường học K-12 trong Miền Bắc California. Cùng với hai nhà giáo dục Teresa Burke và Elzira Saffold danh dự trong năm 2015 (teachers of the year), chúng tôi được gặp và thảo luận với vị Chủ tịch trường Đại học Tiểu Bang California Sacramento (CSUS) Dr. Robert S. Nelsen, và Mr. Tom Torlakson, CA superintendent of public instruction. Họ tâm sự với chúng tôi rằng, giáo dục là một nhân quyền căn bản, cần luôn cải cách và tiến hoá. "Nếu đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì cùng đi chung". Họ cảm ơn chúng tôi nhận lời mời để chia sẻ những thực tập hữu ích cho đồng nhiệp. Xin mời quý vị đọc bài thuyết trình mà chúng tôi đã chia sẻ.
17/09/2015(Xem: 9500)
Trong quyển Cơ Sở Khoa Học của Thiền Chánh Niệm, nội dung nhấn mạnh đến những phương pháp thực hành Chánh Niệm. Nội dung quyển này chú trọng đến những khám phá mới về vận hành của não khi thực hành Chánh niệm qua ánh sáng khoa học. Quyển này không có ý viết cho đông đảo quần chúng Phật tử nhưng cung cấp cho một số Phật tử và các tăng ni trẻ những kiến thức mới nhất trong Khoa Học Não Bộ về Chánh Niệm. Tôi cố ý không dịch các từ ngữ não bộ và để nguyên tiếng Anh, xem chúng như là những tên riêng để các cư sĩ và tăng ni trẻ có thể Google trên mạng tìm thêm thông tin. Viết về khoa học não bộ là một điều rất khó vì đề tài khô khan và nhiều chỗ trái ngược với kiến thức thông thường và nhất là đòi hỏi người đọc phải có kiến thức vững vàng về Chánh Pháp. Tôi chỉ cố gắng làm hết sức mình và thỉnh thoảng pha đôi chút trào lộng để độc giả thấy được ý của chư Tổ qua lời dạy ‘Bình thường Tâm thị đạo’. Thực hành Chánh pháp không có gì mầu nhiệm hay huyền bí cả, mà chỉ là một cách sống theo n
24/08/2015(Xem: 5262)
Tập san Phật giáo Regard Bouddhique (Hướng nhìn Phật giáo) của Pháp, số tháng ba và tư, 2015, với chuyên đề "Phật giáo và việc chữa trị bệnh tật" có một bài của nữ ký giả Carole Rap, phỏng vấn thiền sư Roland Yuno Rech về phép tọa thiền (zazen) và việc chữa trị bệnh tật. Roland Yuno Rech sinh năm 1944, được nhà sư Niva Rempo Zeji vị lãnh đạo cao cấp nhất của thiền phái Tào Động (Soto) ở Nhật phong chức "Thầy" năm 1984 nhằm chứng nhận ông là một thiền sư uyên bác của học phái này. Roland Yuno Rech là đệ tử của vị Thiền sư nổi tiếng Taisen Deshimaru (1914-1982), người đã đưa thiền phái Tào Động vào Âu Châu. Roland Yuno Rech hiện trụ trì một thiền viện do chính ông thành lập ở Nice, một thành phố đẹp và sang trọng bên bờ Địa Trung Hải, miền nam nước Pháp. Ngoài ra ông cũng thường xuyên chủ trì các khóa tu thiền tổ chức tại Pháp cũng như tại các nước khác ở Âu Châu. Bài phỏng vấn dưới đây nêu lên nhiều nhận xét thật sắc bén và sâu sắc về sự vận hành sâu kí
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]