Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Hà Trạch là gì?

19/06/201223:16(Xem: 8746)
Thiền Hà Trạch là gì?
THIỀN HÀ TRẠCH LÀ GÌ?
Thích Ngộ An lược dịch

thienhatrach-thichngoan

Sau Đại hội Hoạt Đài, danh tiếng của Thần Hội ngày càng vang xa. Năm thứ tư, niên hiệu Thiên Bảo, đời nhà Đường (CN 745), binh bộ thị lang Tống Đảnh thỉnh Thần Hội đến Lạc Dương, ở chùa Hà Trạch. Từ đó về sau Thần Hội được gọi là “Hà Trạch Thiền sư” và phái thiền do Ngài sáng lập cũng được gọi là “Hà Trạch tông”. Do đó tư tưởng chủ yếu của Hà Trạch tông là lấy tư tưởng thiền học của Thần Hội làm trung tâm. Sự truyền thừa của tông này chỉ được khoảng bốn đời, trải qua thời gian hơn một trăm năm.

Trong lời tựa của tác phẩm “Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô” của ngài Tông Mật, người tự xưng là đệ tử đắc pháp đời thứ IV của Thần Hội đã khái quát được tư tưởng căn bản của thiền Hà Trạch như sau: “Các Thánh đều nói: chư pháp như mộng huyễn, vọng niệm vốn vắng lặng, trần cảnh vốn rỗng không, do có được tâm rỗng lặng như thế mới biết rõ không lầm. Đây là cái biết rỗng lặng, là cái chân tánh của tất cả mọi người. Hoặc mê hoặc ngộ, tâm mình tự biết, không theo duyên sanh, không vì cảnh khởi. Chỉ một chữ “tri”thôi đã là cửa ngõ của bao điều kỳ diệu. Do từ vô thỉ mê lầm vọng chấp thân này là ta nên khởi lên những niệm tham, sân v.v... Nếu được thiện tri thức khai thị, liễu ngộ được cái không vắng lặng, biết rõ mà không khởi niệm ai là ngã tướng, ai là nhân tướng? Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này. Cho nên tuy tu đủ vạn hạnh, nhưng chỉ lấy vô niệm làm tông chỉ.” Những điểm quan trọng của đoạn lược thuật vừa rồi gồm có ba phần: Thứ nhất là “tri”, vốn là cửa ngõ của các pháp môn vi diệu; thứ hai là pháp môn đốn ngộ; thứ ba là vô niệm làm tông.

Hàm ý trong chữ “tri” của ngài Thần Hội có hai phương diện: Thứ nhất “tri” tức là linh tri, bản giác, cũng chính là chân như, Phật tánh. Từ ý nghĩa này nói lên “tri” tức là bản thể của tâm, là trạng thái tồn tại trống không vắng lặng. Biết cái không vắng lặng tức là hiểu được bản nguyên của vũ trụ vạn hữu, nó có thể biểu hiện dưới nhiều sắc tướng khác nhau nhưng vẫn là một loại linh tri có thể nhìn thấy rõ được vô số sai biệt hư huyễn không thật của sắc tướng. Tư tưởng này đã phản ánh được luận thuyết Phật tánh của Thần Hội, Phật tánh luận này chính là kế thừa tư tưởng của Lục Tổ Huệ Năng. Thần Hội xem Phật tánh chân như vốn là bản chất duy nhất của con người và đây cũng là quan điểm căn bản của Nam Thiền. Một phương diện khác, chữ “tri” theo Thần Hội còn có nghĩa là “tri kiến”, “tri giải”. Thần Hội nói: “Tâm vô trụ không rời cái biết, cái biết không rời tâm vô trụ”. Trí biết không có chỗ trụ, cho nên càng không có trí biết nào khác”. (“Nam Dương Hòa Thượng Đốn Giáo Giải Thoát Thiền Môn Trực Liễu Tánh Đàn Ngữ”) chữ “tri” ở đây nên được hiểu là “tri kiến”. Do vậy thiền sư Vô Tướng chùa Bảo Đường phê phán rằng: “Hòa thượng Thần Hội chùa Hà Trạch, Đông Kinh mỗi tháng khai đàn thuyết pháp cho người, phá bỏ Thiền Thanh Tịnh, lập nên Như Lai Thiền, lập nên tri kiến và ngôn thuyết.” (“Lịch Đại Pháp Bảo Ký”). Quả thực bản thân Thần Hội cũng vô cùng tôn sùng tri kiến, ông cho rằng: “Người tuy chưa đủ duyên tu hành nhưng có kiến giải, nhờ huân tập kiến giải lâu ngày mà tất cả vọng tưởng phan duyên dần dần giảm nhẹ” (“Thần Hội Ngữ Lục”). Về sau đệ tử Hồng Châu gọi công khai ngài là “môn đồ của kiến giải”, sở dĩ Hồng Châu nói như vậy cũng có lí của Ngài. Đây là điểm khác biệt giữa Thần Hội và Lục Tổ Huệ Năng.

Trong cuộc đấu tranh giữa Nam thiền và Bắc thiền, Thần Hội đã nhiều lần đả kích “pháp môn tiệm giáo” của Bắc thiền, ra sức xiển dương học thuyết đốn ngộ của Nam thiền, ông tuyên bố: “Mỗi một lời nói của Lục Tổ thầy tôi đều chỉ thẳng tâm người, trực tiếp thấy tánh chứ không dùng những ngôn từ mang tính phương tiện” (“trả lời câu hỏi của Sùng Viễn pháp sư”). Tiến thêm một bước, Thần Hội còn xây dựng pháp môn đốn ngộ của mình trên nền tảng của học thuyết “Nhất niệm tương ưng”. Ngài cho rằng Phật tính và vô minh đồng thời có mặt, “nếu giác thì là Phật tánh, còn không giác thì là vô minh”, giác và bất giác chỉ trong một niệm, nếu “trong một niệm tương ưng” thì liền có thể thành Phật: “Chỉ trong một niệm tương ưng mới có thể hiển bày được pháp môn đốn ngộ, chứ không thể nhờ vào pháp phương tiện” (“Thần Hội ngữ lục”). Thần Hội lấy điểm này để phản đối lại tư tưởng “dùng phương tiện để hiển bày Phật tánh”, xem trọng sự tiệm tu của Bắc thiền. Lục Tổ Huệ Năng chủ trương “Lấy vô niệm làm tông”, Thần Hội cho rằng: “Vô niệm” là mấu chốt để thể ngộ Phật tính, đốn ngộ thành Phật. Cái gọi là lời nói và ý niệm chỉ là cái dụng của chân như, còn chân như là thể của niệm. Do từ ý này nên Ngài lập vô niệm làm tông, (“Thần Hội ngữ lục”). “Niệm” được phân thành chánh niệm và vọng niệm, chúng đều là tác dụng của chân như; “vô niệm” là chỉ cho không có vọng niệm, chứ không phải là không có tất cả niệm. Thông qua tu tập pháp “vô niệm” mà thấy được chân tâm, lãnh ngộ được “tự tánh rỗng lặng”, đạt đến trạng thái “tự tại giải thoát”.

Do đây có thể biết, tư tưởng căn bản của thiền Hà Trạch là kế thừa tư tưởng đốn ngộ thành Phật của thiền Lục Tổ Huệ Năng, chỉ khác là thiền Hà Trạch có thêm điểm “tri giải” mà thôi.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 4518)
Theo kinh Dhammapada (Pháp Cú) và lời chú giải, sự hiện hữu cuối cùng của con người là đạt đến tầng cuối cùng ( A-la-hán hay Thanh Văn), với một đối tượng giản dị làm đề tài cho thiền định, để nhận biết sự vật như nó là. Họ có thể hiểu về ba đặc điểm của tất cả mọi vật hiện hữu, tính chất vô thường, đau khổ, và vô ngã.
22/04/2013(Xem: 7242)
Bài này chỉ bàn thuần túy về chuyện Thiền ứng dụng trong xã hội hiện đại, và một số rắc rối liên hệ đang xảy ra trong xã hội Hoa Kỳ, kể cả cuộc tranh luận giữa các chuyên gia giaó dục về... những bất trắc mà chúng ta sẽ phân tích nơi đây. Ðừng vội nghĩ rằng đây là chuyện của các chuyên gia hay của người quan tâm về Thiền, bởi vì những người con của bạn có thể cũng đang đọc, đang tìm hiểu và đang dò tìm thực tập. Rủi mà tập nhầm các pháp môn giáo phái đầy bất trắc, thì vừa có hại cho sức khỏe, mà lại mang tiếng oan cho các pháp môn Thiền của nhà Phật.
22/04/2013(Xem: 6109)
Xưa nay ai cũng biết Thiền là tìm về cõi tĩnh và lặng để cho tâm được an tịnh. Thãt ra Tĩnh là lúc nào cũng biết rõ ràng, còn lặng là yên lặng; tức là trong trạng thái như là thân tâm bất động, dừng mọi hoạt động của thân tâm. Làm thế nào để thân và tâm bất động? Phải biết điều thân là làm cho thân yên ổn không di động, cách ngồi cho chắc nịch như kiết gíà, bán già, hay sao cho việc ngồi thiền lâu.
22/04/2013(Xem: 7300)
Bài nầy sẽ trình bày tại sao con người không uống “thuốc tiên” không dùng các thức ăn trường sanh bất tử, nếu có, mà chỉ ngồi yên tĩnh mắt nhắm lim nhim ngày hai lần tổng cọng vài chục phút, mà có thể trị được bệnh và có được các lợi ích thiết thực khác?
22/04/2013(Xem: 8743)
Con người ai cũng muốn khỏe mạnh không bệnh hoặc ít bệnh, nhưng không ai tránh khỏi hiểm họa nầy. Bác sĩ, Y tá được đào luyện, bệnh viện được xây cất, y dược được chế biến cũng nhằm phục vụ sức khoẻ con người. Nhưng bệnh viện không phải là nơi miễn phí mà bệnh nhân luôn luôn được tự do đến đó, và thuốc cũng không phải là thần dược trị được bá bệnh và an toàn không bị phản ứng phụ (side effect).
22/04/2013(Xem: 6333)
Khoa học nhìn về thiền Phật Giáo như thế nào? Dưới đây là một cuộc nghiên cứu khoa học tại Đạị Học New York University, do phóng viên Matt Danzico tường thuật, đăng trên BBC News ngày 24-4-2011. Bản dịch Việt ngữ toàn văn như sau. Não bộ của các vị sư Phật Giáo được chụp lại bởi máy scan (máy quét) trong cuộc nghiên cứu về thiền.
22/04/2013(Xem: 7958)
Phật giáo Việt Nam, từ khi Tổ Tỳ Ni Na Lưu Chi sang truyền Đạo Phật (580-2011) tại VN, nay đã nghót nghét 1429 năm, gần 15 thế kỷ. Đạo phật là Đạo Phổ Độ chúng sanh, cứu nhân độ thế cho nên các triều đại huy hoàng Việt Nam, Đinh, Lê, L‎ý, Trần, Hậu Lê ,Tây Sơn: Mổi chùa đều có một bệnh xá Đông Y, Thuốc nam, châm cứu để giúp đỡ cho nhân dân gặp khi trở trời, gió nghịch, nhất là dân bệnh nhân nghèo.
22/04/2013(Xem: 5451)
Tôi đến với Thiền Vipassana hoàn toàn nhờ duyên số hay đúng hơn là “định mệnh” (sheer fate)! Cho đến hôm nay nghĩ lại tôi vẫn còn ngạc nhiên, thật không ngờ một người sống thiếu lập trường như tôi mà có thể chuyển hóa và tiến bộ trở thành người có ý chí mạnh mẽ.
22/04/2013(Xem: 4818)
Lần đầu tiên nghe nói về Thiền Vipassana, phản ứng của tôi cũng giống đa số thanh niên trẻ tuổi khác, “Thiền định! Điều đó chỉ dành cho người già cả.” Nhưng không hiểu sao nó lại ẩn chứa mãi trong đầu óc của tôi. Với tánh hiếu kỳ ham hiểu biết, tôi tìm cách thu thập nhiều thông tin hơn và quyết định thực hành thử xem. Một vài người khuyên cản tôi, nhưng hạt giống thiền lại được gieo vào tâm tôi.
22/04/2013(Xem: 5714)
“… Ngài Goenka được quyền cư trú tạm thời trong căn phòng y tế của nhà tù. Thời bấy giờ, các phạm nhân tội nặng phải bị còng tay và khóa xích cổ chân. Bốn tù nhân can phạm như vậy được đưa đến thiền đường (Meditation Hall - xây tạm trong tù) với các chiếc còng sắt khóa xích tay và chân họ. Khi nhìn thấy cảnh này, Ngài Goenka bàng hoàng kinh ngạc. Tôi (Ram Singh) thưa với Ngài Goenka rằng, đây là các phạm nhân ngoan cố. Ngài Goenka phản đối: “Sao có thể đưa người bị còng xích như vậy đến gặp tôi? Điều này không thể xảy ra, hãy tháo khóa xích cho họ!”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567