Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền và Tịnh độ trong mạch sống Việt Nam

22/04/201319:39(Xem: 4771)
Thiền và Tịnh độ trong mạch sống Việt Nam

Thiền và Tịnh độ trong mạch sống Việt Nam

TK. Ta Bà Ha

Vâng ! Đây là sự thật chứ không phải chuyện đùa, bởi lâu nay ai cũng nghĩ rằng hễ Thiền thì không có Tịnh, và Thiền tông lúc nào cũng không chấp nhận sự hiện diện của Phật A Di Đà trong tâm thức hành giả.

Ở đây chúng tôi không dám luận bàn về tôn chỉ của hai phái, chỉ cung cấp một vài cứ liệu minh chứng cho sự hiện diện đó trong thực tế lịch sử.

Cứ liệu thứ 1 : Tam pháp ấn của Thiền phái Trúc Lâm

Ai cũng biết Phật giáo Việt Nam rực rỡ ở thời kỳ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Một tư tưởng Thiền học đặc thù và tiêu biểu cho dòng Thiền Việt Nam gắn bó với dân gian, tinh thần dân tộc, ý thức bảo vệ đất nước, phóng khoáng trong tư tưởng qua hành trạng của Trúc Lâm Tam Tổ : Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.

Điểm nổi bật của Thiền phái Trúc Lâm là "Phật pháp bất ly thế gian giác", tổng hợp được vạn pháp qui tâm nên dung hợp được cả ba pháp môn Thiền - Mật - Tịnh làm tôn chỉ trong đời sống Thiền gia.

Để dẫn chứng, chúng ta có thể thấy cách thờ cúng ở tất cả các chùa mang dấu tích của Thiền Trúc Lâm ở miền Bắc đều có thờ Tam thế Phật (Thích Ca - Di Đà - Di Lặc) biểu tượng của Tịnh Độ, có thờ Quan Âm thiên thủ thiên nhãn (hóa thân Chuẩn Đề) biểu tượng của Mật Tông, và khi gặp nhau trong mọi hoàn cảnh, câu Nam mô A Di Đà Phật là đầu cửa miệng lúc hào hỏi, là truyền thống xưa nay của nhân dân miền Bắc khi gặp nhau ở cửa chùa.

Cứ liệu thứ 2 : Thiền Sư Chuyết Công với tượng Di Đà, chùa Phật Tích, Bắc Ninh.

Thiền Sư Chuyết Công (1590 - 1644) người Phúc Kiến, là vị Tổ truyền dòng Thiền Lâm Tế từ Trung Quốc sang Việt Nam. Chùa Phật Tích là nơi Ngài Chuyết Công hoằng dương đạo pháp, truyền thừa Tông phái, cũng như nổi danh ở trụ xứ này. Và tại đây cũng nổi tiếng với tượng Phật Di Đà bằng đá, một nét nghệ thuật hoàn chỉnh còn lại sau bao điêu tàn của thời gian thế cuộc. Tượng Di Đà này đã được phục chế phiên bản để trưng bày nơi viện Bảo Tàng Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, như minh chứng cho một nền nghệ thuật điêu khắc đặc sắc của Việt Nam, một thời kỳ vàng son của Phật giáo thời Trịnh - Lê, và minh chứng cho sự phát triển của Tịnh độ vào thời bấy giờ, phát xuất từ một Thiền Sư dòng Lâm Tế. Thế thì đó là sự truyền bá Thiền Tịnh song hành có phải chăng ?

Cứ liệu thứ 3 : Thiền Sư Chân Nguyên (1647 - 1726) và chùa Cửu Phẩm, Hải Dương. Dân gian quen gọi là chùa Cửu Phẩm vì trong chùa có một đài cửu phẩm do Thiền sư Chân Nguyên tạo dựng còn nguyên vẹn duy nhất ở miền Bắc ngày nay.

Ai cũng biết, cửu phẩm liên hoa là biểu trưng quả vị của Tịnh độ ở cõi Cực Lạc thế giới, thế mà do một vị Thiền Sư danh đức đương thời tạo dựng, để tiếp nối phổ hệ truyền thừa từ Thiền phái Trúc Lâm. Thế là dù Lâm Tế hay Tào Động, sang đất Việt Nam đều qui ngưỡng Trúc Lâm mà nối pháp vậy. Đài cửu phẩm ở Thanh Hà, Hải Dương chính là kiểu mẫu được lấy từ đài cửu phẩm ở chùa Bút Tháp do Tổ Huyền Quang đã dựng trước kia.

Từ những cứ liệu trên, ta có thể thấy rằng Thiền chính thống của Việt Nam gồm Thiền - Tịnh song hành, là hai trong ba yếu tố của Thiền phái Trúc Lâm còn được duy trì cho đến ngày nay.

Với câu A Di Đà Phật, ngày nay còn các câu chào hỏi nhau ở miền Bắc khi đến cửa chùa. Cụ thể là nơi lễ hội chùa Hương hàng năm, ta có thể thấy lớp lớp dòng người lên xuống vào hội đều rơm rã câu A Di Đà Phật, Tăng hay tục, Việt Nam hay ngoại quốc, Thiền hay Mật - Tịnh, tôn giáo hay không tôn giáo... cũng đều với câu chào nhau như thế. Và nếu không như thế hoặc khác đi thì ta là người lạ lẫm và lạc lỏng trong biển người thuần nhất câu A Di Đà Phật, đã là một tục lệ gắn chặt vào đời sống linh hoạt của lễ hội xưa nay.

Từ những cứ liệu logic đó, chúng tôi muốn nói rằng, Thiền của Việt Nam, tôn chỉ và hành trạng là sự dung hợp chứ không hề mang tính cố chấp một chiều chỉ biết có Thiền mà bác tất cả, hay bê nguyên xi cái của Thiền Tông Trung Quốc mà nhận làm Thiền của mình. A Di Đà Phật là tự tánh, là thoại đầu là một phần không thể tách rời của Thiền Việt Nam chính thống.

Để kết luận về tính thực tế lịch sử này qua các cứ liệu được nêu, chúng tôi xin trích dẫn bài kệ thơ của nhà Thiền đã gồm đủ ý trên :

" Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Có không bóng nguyệt lòng sông
Nào ai hay đó có, không làm gì !".
Mùa Hạ năm 2000
TK. Ta Bà Ha

---o0o---


Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/08/2019(Xem: 4837)
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu xem độc tố này là gì. Xao lãng là xu hướng của tâm thức nhảy hết chuyện này sang chuyện khác. Đó là trường hợp của những người có một tâm thức tương tự như con cào cào hay con bướm, không sao có thể dừng lại với bất cứ một thứ gì, dù chỉ trong một khoảnh khắc. Câu thơ nổi tiếng của T.S. Eliot (Thomas Stearns Eliot, 1888-1965, thi hào người Anh gốc Mỹ, đoạt giải Nobel văn chương năm 1948) : « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng » có thể nói lên điều đó. Câu thơ này nêu lên một cách ngắn gọn cuộc sống ngày nay trong xã hội : đó là một quá trình liên tục – hết ngày này đến tuần khác – của sự « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng ». Liều thuốc hóa giải sự xao lãng trong hoàn cảnh đó – ít nhất là đối với lãnh vực tâm thần – là sự chú tâm vào hơi thở. Một sự tập trung thật mạnh hướng vào quá trình hô hấp của mình là một phương pháp rất hiệu nghiệm, có thể hóa giải được tất cả mọi hình thức xao lãng.
09/08/2019(Xem: 4366)
‘Khổ và sự diệt khổ’ là trọng tâm của lời đức Phật dạy, được diễn đạt qua Kinh Chuyển Pháp Luân.[2] ‘Idaṁ dukkhaṁ ariyasaccaṁ’ pariññeyyan-ti ‘Chính sự thật về khổ’, cần được con người am hiểu, rõ biết tường tận.[3] Nhận định này có thể tư duythông qua bài kinh ‘Ví Dụ Tấm Vải’[4] như sau: Ví như tấm vải bị hoen ố, vấy bẩn và người thợ nhuộm đã cố gắng làm đẹptấm vải bằng cách nhúng nó vào thuốc nhuộm loại tốt này hay loại tốt khác, nhưng kết quả cho ra không được như ý. Bởi vì thực chất của tấm vải là dơ bẩn, không sạch, uế nhiễm.
06/08/2019(Xem: 3574)
Trong toán học, muốn giải một bài toán cơ bản luôn cần có một mẫu số chung, đó là con số quan trọng cần thiết để đưa đến kết quả chính xác cho bài toán. Ngoài ra vì tính khoa học, những con số còn giúp cho mọi việc được mạch lạc, rõ ràng thứ lớp hơn mà chính Đức Thế Tôn của chúng ta cách đây 2600 năm cũng đã sử dụng nó để nói đến trong toàn bộ những bài giảng của Ngài. Khi giảng nói về các loại tâm vô hình, trừu tượng khó nhớ Đức Phật đã dùng những con số cụ thể trong Vi diệu pháp (Duy thức học). Chính nhờ vậy việc tìm hiểu về các loại Tâm vương, Tâm sở đầy phức tạp đã được Ngài hướng dẫn, phân loại rõ ràng cho từng loại tâm khác nhau. Tuy nhiên đây chỉ là những học thuyết sâu rộng của triết lý Phật giáo dành cho lãnh vực nghiên cứu.
02/08/2019(Xem: 3944)
Vào sáng Chủ Nhật 14 tháng 7 2019, tại hội trường báo Người Việt (Westminster, Little Saigon) đã có một cuộc hội thảo với chủ đề tìm cách đem sự thực tập chánh niệm tỉnh thức đến với giới thanh thiếu niên gốc Việt tại Quận Cam.
02/08/2019(Xem: 3796)
"Lý tưởng nhất là các lớp học không có cảm giác sợ hãi và căng thẳng làm việc dạy và học trở nên nặng nề. Lý tưởng nhất là giáo viên tạo dựng được nề nếp học trong không khí êm ả và chú tâm của lớp học. Tuy nhiên, không khí trong các lớp học công lập của Hoa Kỳ thường xuyên không được như vậy,…" Đó là lời phát biểu của Tiến Sĩ Bạch Xuân Phẻ khi anh thuyết trình về lợi ích của việc thực tập hơi thở trong tỉnh thức ở học đường. Phương pháp này giúp con người trị được nhiều căn bệnh về tâm lý và đối đầu được những cảm giác hồi hộp, căng thẳng, sợ sệt, bất an, trầm cảm, thường xảy ra cho các học sinh và cả trong giới giáo chức.
20/07/2019(Xem: 5974)
Các bộ kinh Nikāya ghi nhận tầm quan trọng của thiềnna (jhana) trong cấu trúc của con đường hành trì trong Phật giáo. Trong bài kinh Sa-môn quả (Sāmaññaphala Sutta, DN 2), Tiểu kinh Dụ Dấu Chân Voi (Cūḷahatthipadopama Sutta, MN 27) và nhiều bài kinh khác về sự tu tập tiệm tiến (anupubbasikkhā) của một tu sĩ Phật giáo, Đức Phật luôn đề cập đến thiền-na để minh họa cho việc tu tập tâm định. Khi vị tỳ-khưu hoàn tất tu tập về căn bản giới đức, vị ấy tìm nơi thanh vắng, sống độc cư và thanh lọc tâm, loại trừ “năm triền cái”. Khi tâm vị ấy được thanh lọc, vị ấy nhập và an trú vào bốn tầng thiềnna, được mô tả rất nhiều trong kinh tạng Nikāya qua một công thức kiểu mẫu:
03/07/2019(Xem: 3643)
Bài này sẽ viết về Thiền, phần lớn sẽ ghi về một số lời dạy của Đức Phật trong thiền pháp Thiền Tông, còn gọi là Thiền Đông Độ, hay Thiền Đạt Ma, hay Thiền Tổ Sư, và riêng tại Việt Nam còn gọi là Thiền Trúc Lâm. Chủ yếu nơi đây dựa vào kinh điển, và người viết không phải là tiếng nói thẩm quyền nào. Tất cả những gì viết nơi đây đều rất dễ hiểu; độc giả có thể ngưng ở bất kỳ dòng nào để thử nghiệm tự nhìn lại tâm. Với các bất toàn tất nhiên sẽ có, xin thành kính sám hối trước Tam Bảo.
01/07/2019(Xem: 3778)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức ( bhavaïga, tiềm thức, tâm hộ kiếp). Chúng ta luôn kinh qua một trạng thái tiêu cực như vậy khi tâm mình phản ứng lại các đối tượng bên ngoài. Dòng chảy vô thức (bhavaïga) này bị gián đoạn khi các đối tượng thâm nhập vào tâm. Kế đó, tâm vô thức (bhavaṅga) rung động trong một chóc lát ý tưởng và biến mất.
03/06/2019(Xem: 4443)
Ta nghe con sóng bạc vỗ vào bờ cát trắng bên hàng dương êm ả làm dịu mát lại bầu không khí oi bức. Trời nóng đến tận cùng không gian khiến ta hết chỗ ẩn náu nên ta nghe được giọt mưa rơi tí tách mỗi khi bầu trời đổ mưa khiến không khíêm dịu lại, tâm hồn thanh bình, nhẹ hơn.
27/05/2019(Xem: 4186)
Sống Trong Từng Sát Na là phương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm. Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm (Satipatthana Sutta), còn gọi là Kinh Tứ Niệm Xứ, là bản kinh do Ngài đại đức Ananda thuật lại những lời thuyết giảng của Đức Phật lúc Đức Phật đang cư trú ở Kammasadamma, một thủ phủ của xứ Kuru.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567