Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trưởng giả Chất Đa La

04/06/201320:52(Xem: 4189)
Trưởng giả Chất Đa La

TRƯỞNG GIẢ CHẤT-ĐA-LA
Toàn Không

Trưởng-giả Chất-đa-La đã quy-y và học Phật tại rừng Am-La, sau khi đức Phật nhập Niết-Bàn rồi, Trưởng-giả thường hay đến chỗ các Tôn-giả thảo luận, và học hỏi Phật pháp. Các Tôn-giả thường nói Pháp, chỉ dạy, soi sáng, và làm cho Trưởng-giả vui mừng.

Một hôm,Trưởng-giả Chất-đa-La đến phòng của Tôn-giả Na-già-Đạt-Đa chào và hỏi thăm sức khoẻ xong, Tôn-giả nói với Trưởng-giả:

- Đức Phật nói: “Có vô lượng tâm tam-muội, vô tướng tâm tam-muội, vô sở hữu tâm tam-muội, không tâm tam-muội”,thế nào Trưởng-giả, vì Pháp này có các thứ nghĩa nên có các thứ tên, hay chỉ một nghĩa có các thứ tên?

Sau khi suy nghĩ đắn đo, Trưởng-giả trả lời Tôn-giả Na-già Đạt-Đa như sau:

- Có Pháp gồm nhiều nghĩa, nhiều câu, nhiều vị; có Phápchỉ có một nghĩa mà nhiều câu, nhiều vị.

Thế nào làPháp có nhiều nghĩa, nhiều câu, nhiều vị? Tâm cùng hợp với Từ, không oán, khôngghét, tâm khoan dung rộng rãi, tu tập nhiều lần, trải khắp một phương; cũng nhưthế phương thứ hai, thứ ba, thứ tư, phương trên, phương dưới, tất cả thế-gian,duyên trụ tất cả; đó gọi là vô lượng tâm tam-muội.

Thế nào làvô tướng tâm tam-muội?, nghĩa là đối với tất cả các hình tướng không nhớ, khôngnghĩ trong hết thảy thời gian, tự thân tác chứng đầy đủ; đó gọi là vô tướng tâmtam-muội.

Thế nào làvô sở hữu tâm tam-muội?, nghĩa là vượt qua tất cả các thức, trụ nơi tâm vô sởhữu; đó gọi là vô sở hữu tâm tam-muội.

Thế nào là không tâm tam-muội?, là quán sátnhư thật thế-gian là không, pháp thường trụ không biến đổi là chẳng phải ngã,tức chẳng phải ta, chẳng phải ngã sở, tức chẳng phải cái của ta, đó gọi làkhông tâm tam-muội; tất cả các pháp nêu trên gồm nhiều nghĩa, nhiều câu, vànhiều vị vậy.

Thế nào làPháp chỉ có một nghĩa, mà có nhiều câu, nhiều vị? Thí dụ như tham lam là cótướng, sân hận là có tướng, ngu si tà kiến là có tướng, không tránh (tranh) là vô tướng. Tham, sân, si là sở hữu, là cócái ta, có cái của ta; không tránh là vô sở hữu, là không đối với tham, sân,si; vô tránh là không đối với thường trụ chẳng biến đổi, là không đối với phingã, phi ngã sở; đó là Pháp chỉ có một nghĩa mà có nhiều câu, nhiều vị vậy.

Sau khinghe sự giải thích của Trưởng-giả, Tôn-giả Na-già Đạt-Đa hỏi:

- Trưởng-giả vừa nói ý nghĩa ấy vì ông đã được nghe giảithích trước rồi chăng?

- Không, thưa Tôn-giả, con chưa hề được nghe ai đã giảithích trước đây.

- Trưởng-giả, ông được lợi ích lớn nơi Phật Pháp sâu xa,hiện tại ông được tuệ nhãn của bậc Hiền-Thánh.

- Cám ơn Tôn-giả đã qúa khen ngợi.

Một ngàykhác, Trưởng-giả Chất-đa-La đến thăm Tôn-giả Ca-Ma, sau khi chào và thăm hỏisức khoẻ, Trưởng-giả hỏi :

- Thưa Tôn-giả, thế nào là hành, có mấy loại hành, và ýnghĩa của hành như thế nào?

Tôn-giảCa-Ma đáp:

- Có ba loại hành là thân hành, khẩu hành, và ý hành; hơithở ra vào là thân hành, có giác (biết) có quán (thấy) gọi là khẩu hành, cótưởng (nhớ) có tư (nghĩ) gọi là ý hành, vì sao? Vì hơi thở ra vào là pháp củathân, do nơi thân, thuộc nơi thân, nương nơi thân chuyển, do đó hơi thở ra vàogọi là thân hành. Vì có biết, có thấy nên miệng diễn tả nói năng ra, do đó cógiác có quán gọi là khẩu hành. Tư tưởng, suy nghĩ nương nơi tâm, thuộc nơi tâmchuyển, do đó tưởng, tư gọi là ý hành.

Một hôm,Trưởng-giả mời các vị Tôn-giả đến nhà thụ chay, sau khi thọ trai và nói Phápxong, các Tôn-giả ra về, Trưởng-giả đi cùng các Tôn-giả đến Tịnh-xá. Trên đườngđi, lúc ấy vào cuối mùa xuân đầu mùa hạ, trời nóng bức, đi đường rất khó chịu,có một Tôn-giả nhỏ nhất trong các vị ấy tên là Ma-ha-Ca nói:

- Thưa các Sư-huynh Tôn-giả, hôm nay qúa nóng nực, conmuốn nổi mây và gió mát có được không?

- Hiền-giả làm được như vậy thì tốt lắm.

Tôn-giảMa-ha-Ca liền nhập tam-Muội Như-chính-thụ, liền lúc đó mây nổi, mưa nhỏ nhưbụi, gió mát thổi đến làm cho mọi người cảm thấy dễ chịu; khi mọi người đi tớicửa Tịnh-xá, Tôn-giả Ma-ha-Ca hỏi:

- Thưa các Sư-huynh Tôn-giả, việc làm gió mát này dừnglại được chưa?

Các Tôn-giảđều đáp:

- Hãy ngừng đi, đủ rồi.

Lúc ấyTôn-giả Ma-ha-Ca liền dừng thần-thông và trở về phòng của mình, trong khi đóTrưởng-giả Chất-đa-La nghĩ thầm rằng: “VịTỳ-kheo nhỏ nhất ở đây mà còn có thần-thông lớn như thế, huống chi là bậckhác”.Nghĩ như thế, Trưởng-giả liền vái chào các Tôn-giả, rồi đi theoTôn-giả Ma-ha-Ca vào phòng và nói:

- Thưa Tôn-giả, tôi muốn được thấy Tôn-giả biến hóa hiệnthần-túc siêu việt.

Tôn-giảMa-ha-Ca nói:

- Trưởng-giả, chớ nên thấy, sẽ sợ hãi.

Ba lầnTrưởng-giả yêu cầu, ba lần Tôn-giả từ chối như thế, Trưởng-giả lại năn nỉ yêucầu nữa:

- Xin Tôn-giả vui lòng thương xót cho tôi xem thần-thôngbiến hóa.

- Thôi được, ông hãy ra ngoài lấy cỏ và củi khô gom lạimột đống, rồi đem tấm vải trùm phủ lên, khi nào xong cho tôi hay.

Nói xong, Tôn-giảlấy một tấm vải trao cho Trưởng-giả; Trưởng-giả y theo lời chỉ bảo, ra ngoài,gom cỏ củi khô xếp thành một đống, phủ vải lên trên, rồi đi vào phòng nói vớiTôn-giả:

- Thưa Tôn-giả, tất cả củi cỏ đã được chuẩn bị xong đúngnhư lời Tôn-giả đã nói.

Tôn-giả Ma-ha-Ca liền nhập định, sau mộtlúc, Tôn-giả bảo Trưởng-giả:

- Ông ra coi có gì xẩy ra cho đống cỏ củi không?

Nghe lờiTôn-giả, Trưởng-giả đi ra chỗ đống cỏ củi, một lúc, ông trở vào mang trả lạiTôn-giả miếng vải và nói:

- Thưa Tôn-giả, con đã nhìn thấy cỏ củi cháy mà miếngvải ở bên trên không cháy, thật là lạ, thật là kỳ đặc! Tại sao thế?

- Tôi đã dùng Hỏa-quang tam-Muội, xuyên qua khe cửa, ánhsáng đốt rụi cỏ củi, mà không cho đốt cháy tấm vải ở bên trên. Ông nên biết,thần-thông này do không buông lung làm gốc, việc này cùng với công-đức khác,tất cả đều do không buông lung làm gốc mà thành.

Cho tới mộtngày nọ, Trưởng-giả Chất-đa-La đã lớn tuổi rồi và bị yếu mệt, trong đêm khuyagần về sáng, có nhiều vị Trời đến bảo Trưởng-giả:

- Này Trưởng-giả, ông nên phát nguyện làm Chuyển-luânThánh-Vương (Đại-Vương), sẽ tuỳ nguyện đắc qủa, vì ông có dư đủ công-đức để sẽlà một vị Đại-Vương ở đời sắp tới.

Trưởng-giảtrả lời chư Thiên:

- Nếu làm Chuyển-luân Thánh-Vương, cũng vẫn có vôthường, biến dịch, và khổ, ý tôi không muốn làm Chuyển-luân Thánh-Vương.

Các vị Trờikhuyên bảo Trưởng-giả không thuận, nên biến mất, ngày hôm sau, Trưởng-giả nóivới quyến thuộc vây quanh:

- Đã có nhiều ChưThiên đến đây nói với tôi: “Ông nên phátnguyện được làm Chuyển-Luân Thánh-Vương, sẽ tuỳ nguyện đắc qủa”,tôi đã trảlời chư Thiên là: “Đại Thánh-Vương cũnglại vô thường, biến dịch, khổ, nên tôi không muốn”.

Các quyến thuộc hỏi Trưởng-giả:

- Nay ông dụng tâm như thế nào?

- Nay tôi tâmnguyện rằng: {{Chỉ không còn thụ sinh vào bào thai nữa, chẳng thèm mồ mả, chẳngthọ nhận khí huyết, như Thế-Tôn đã nói: “Nămhạ phần kiết-sử, Ta không thấy có ngã, tự thấy chẳng một kiết nào mà chẳngđoạn; như thế sẽ sinh lên cõi Trời một lần (hóa sinh) rồi nhập Niết-Bàn, khôngcòn tái sinh ở cõi nhân-gian này nữa”}}. Nói xong: Trưởng-giả từ giường nằmngồi dậy, ngồi kiết-già, giữ chính niệm, và nói kệ về hạnh bố-thí cúng-dàng đượcphúc báo sinh lên cõi Trời; nói kệ xong, Trưởng-giả liền qua đời, sinh đến cõiTrời Vô Phiền (Đây là cõi Trời Sắc giớivượt trên Tứ Thiền).

Tại cõiTrời, Thiên tử Chất-đa-La nghĩ rằng: “Tanên đến Diêm-phù-Đề để lễ bái các Tôn-giả”.Nghĩ rồi, chỉ trong khoảnhkhắc, Thiên-tử Chất-đa-La dùng sức Thiên-thần, hiện đến rừng Am-La bên ngoàiTịnh-xá, phóng hào quang từ thân Trời, chiếu sáng khắp rừng Am-La. Khi ấy cómột vị Tỳ-kheo Tôn-giả ra khỏi phòng, đi kinh hành, trông thấy ánh sáng kỳ diệuchiếu khắp rừng cây, liền nói kệ:

Sắc Trời nào vi-diệu?
Trụ ở giữa hư không,
Giống như núi vàng rực,
Chiếu sáng Diêm-phù-Đàm.
Thiên-tửChất-đa-La nói kệ đáp:
Tôi là Vua Trời Người,
Là đệ-tử Cù-Đàm,
Trong rừng Am-La này,
Trưởng-giả Chất-đa-La.
Nhờ tịnh giới đầy đủ,
Hệ niệm tự tịch tịnh,
Thân giải thoát đầy đủ,
Thân trí tuệ cũng thế.
Tôi biết pháp nên đến,
Nhân giả cần nên biết,
Nên nơi Niết-Bàn kia,
Pháp này pháp như thế.

Thiên-tử Chất-đa-La nói kệ xong liền biến mất..,.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2013(Xem: 5092)
Khi đề cập đến Thiền Tông người ta hay liên tưởng đến Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) người đã mang sứ mệnh cao cả truyền trao cho con người. Cuộc đời của Bồ Đề Đạt Ma tựa như ánh sáng rực rỡ quét sạch bóng đêm phủ xuống cuộc đời chớp nhoáng như điện xẹt và phong thái lạ lùng quái đản đó đưa tên tuổi của người đi vào huyền thoại. Cho đến bây giờ hình ảnh và âm vang vô tận của những lời thuyết pháp vẫn còn chấn động cả thiền môn, rung chuyển trong tận cùng tâm thức, hình bóng của người đã ngả dài trong suốt lịch sử nhân loại, vươn lên tìm một sinh lộ cho sự trở về uyên nguyên giác ngộ, không nhất thiết và giới hạn ở phương vị nào cho sự trở về ấy.
07/09/2011(Xem: 4132)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Chư Lịch Đại Tổ Sư (Về Nguồn 5) tổ chức tại Chùa Thiện Minh, Lyon, Pháp Quốc từ ngày 8 đến ngày 11-09-2011
07/08/2011(Xem: 13315)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
24/11/2010(Xem: 12645)
Bộ Ảnh về Cuộc Đời Đức Phật, Bộ hình phác họa về lịch sử, cuộc đời đức Phật do một họa sĩ người Thái Jamnuon Jhanando thực hiện. Những lời giải thích do cá nhân chúng tôi chú thích, nếu có sai sót xin nhờ quý vị chỉnh sửa dùm cho đúng. Kính tri ân…
24/09/2010(Xem: 7837)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế đượcnhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn cònđược truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay. Tại NhậtBản hai tông Zen, tức Thiền tông, còn tồn tại đến nay làtông Lâm Tế (Nhật: Rinzai) và Tào Ðộng (Nhật: Soto). TạiViệt Nam thì trừ vài chùa là thuộc tông Tào Ðộng còn lạiđều thuộc tông Lâm Tế. Như vậy nói tới Thiền tông thìkhông thể không biết về đường lối tu hành do tổ Lâm Tếtruyền lại.
23/09/2010(Xem: 4215)
“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ” Nếusự hiện diện của Bồ Đề Đạt Ma là kẻ đi trong cô đơn nhất, thì sự hiện hữu của Lục Tổ Huệ Năng là kẻ sống với cô đơn nhất. Huệ Năng con người đã được mệnh xưng là kẻ siêu việt trong lịch sử Thiền Tông mà cho đến bây giờ chưa một ai có thể đương đầu nổi, một kẻ cô đơn vượt thoát ra ngoài tử sinh chỉ duy nhất một lần nghe kinh. .. Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
22/09/2010(Xem: 8775)
Tổ Hoàng Bá giữ một vai trò rất quan trọng trong lịch sử Thiền Tông vì đệ tử của tổ là tổ Lâm Tế, người đã sánglập ra tông Lâm Tế. Muốn hiểu rõ về tông Lâm Tế thì cần biết rõ về tổ Hoàng Bá là người đã đào tạo tổ LâmTế. Tại Trung Hoa, sau thời Lục Tổ thì Thiền Tông chia làm5 tông: Lâm Tế, Tào Động, Quy Nhưỡng, Vân Môn và Pháp Nhãn. Phần lớn các chùa tại Việt Nam trước đây đều thuộc tông Lâm Tế. Tại Nhật Bản thì hiện nay Zen (Thiền Tông)chỉ có hai tông được phát triển mạnh nhất là Lâm Tế (Nhật: Rinzai) và Tào Động (Nh: Soto)...
22/09/2010(Xem: 7988)
Thiền có thể nào là một hệ thống giáo nghĩa? Hay một cách trực diệnhơn, Thiền có thể nào bị đóng khung trong một hệ thống học lý? Cái gìbị đóng khung hay bị hệ thống hóa đều không còn giữ được bản sắc sinhphong và hoạt dụng của chân thân. Thiền từ tôn chỉ đến phương tiện hànhđạo đều cốt ở chỗ dĩ tâm truyền tâm, đối vật chỉ vật, ứng biến vô ngần,chuyển hóa diệu dụng, không trụ trước, chẳng nệ không... Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]