- 1. Phẩm thứ nhất: Quán nhân duyên
- 2. Phẩm thứ hai: Quán sát sự chuyển động và sự không chuyển động
- 3. Phẩm thứ ba: Quán lục tình
- 4. Phẩm thứ tư: Quán năm ấm
- 5. Phẩm thứ năm: Quán lục chủng
- 6. Phẩm thứ sáu: Quán ái dục và kẻ tham nhiễm ái dục
- 7. Phẩm thứ bảy: Quán sát ba tướng
- 8. Phẩm thứ tám: Quán tác và tác giả
- 9. Phẩm thứ chín: Quán sát bản trụ
- 10. Phẩm thứ mười: Quán lửa và nhiên liệu
- 11. Phẩm thứ mười một: Quán sát bản tế
- 12. Phẩm thứ mười hai: Quán sát về sự thống khổ
- 13. Phẩm thứ mười ba: Quán sát các hành
- 14. Phẩm thứ mười bốn: Quán sát sự hòa hợp
- 15. Phẩm thứ mười lăm: Quán hữu vô
- 16. Phẩm thứ mười sáu: Quán sát về sự trói buộc và giải thoát
- 17. Phẩm thứ mười bảy: Quán sát về nghiệp
- 18. Phẩm thứ mười tám: Quán pháp
- 19. Phẩm thứ mười chín: Quán thời gian
- 20. Phẩm thứ hai mươi: Quán sát nhân và quả
- 21. Phẩm thứ hai mươi mốt: Quán sát về sự sinh thành và hoại diệt
- 22. Phẩm thứ hai mươi hai: Quán sát đức Như Lai
- 23. Phẩm thứ hai mươi ba: Quán sát điên đảo
- 24. Phẩm thứ hai mươi bốn: Quán sát tứ đế
- 25. Phẩm thứ hai mươi lăm: Quán sát niết bàn
- 26. Phẩm thứ hai mươi sáu: Quán mười hai nhân duyên
- 27. Phẩm thứ hai mươi bảy: Quán sát về những tà kiến
TRUNG LUẬN (MADHYAMAKAKÀRIKÀ )
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna)
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Thích Viên Lý
TRUNG LUẬN QUYỂN THỨ HAI
PHẨM THỨ MƯỜI HAI:
QUÁN SÁT VỀ SỰ THỐNG KHỔ
Một số người quan niệm rằng sự khổ đau hoặc do chính mình tự tạo, hoặc do những điều kiện, yếu tố khác tạo ra, hoặc do cả hai (kết hợp tạo ra) mà cũng có thể là không do bất cứ nguyên nhân nào. Những quan niệm về sự khổ đau như thế đã hoàn toàn không đúng với cái quả của sự khổ.
Sự khổ đau nếu là do chính mình (tự) tạo ra thì nó đã không phải được sanh ra từ các Duyên, vì nhân nhờ có ấm này nên (mới) có ấm kia sanh ra (* ấm tức là uẩn. Ấm là ngăn che, chữ do Ngài La Thập dịch. Uẩn là chứa nhóm, do Ngài Huyền Trang dịch từ chữ kiền độ (skandha); có một số người khác dịch là chúng).
Nếu cho rằng năm ấm này là khác biệt hoàn toàn với năm ấm kia thì lẽ ra phải nói rằng khổ đau đã được tạo nên từ những yếu tố khác.
Nếu sự khổ đau là do chính con người tạo ra như thế thì, khi tách rời khỏi sự khổ đau, làm thế nào con người có thể hiện hữu (làm sao có con người) mà bảo rằng người đó (có khả năng) tự tạo khổ đau cho chính mình.
Nếu khổ đau là do tha nhân (người khác) tạo ra rồi đem gán cho người này nếu thế thì, đang khi tách rời sự đau khổ (khoảng giữa sự chuyển tiếp) làm thế nào có thể có người thọ khổ này.
Khổ đau nếu là do người khác (kia) tạo ra rồi đem gán cho người này như vậy thì, làm thế nào có thể có một con người đã thoát ly sự đau khổ nhưng vẫn có khả năng trao sự khổ đau cho người này?
Tự mình tạo tác nếu đã bất thành thì làm thế nào có thể tạo ra sự khổ đau cho kẻ khác được, và nếu người khác kia tạo ra sự khổ thì cái khổ đó tức cũng được gọi là tự tạo tác (* vì người khác đã tự tạo thì sự tạo tác của chính họ đích thực là sự tự tác).
Không thể bảo (gọi) rằng sự khổ đau là tự tác (là một cái gì tự hình thành, tự tạo ra) vì lẽ chính pháp không thể tự tạo tác ra pháp, cũng thế, sự đau khổ đó vốn đã không có tự thể thì làm thế nào nó lại có khả năng tạo ra sự thống khổ.
Nếu sự khổ đau được tựu thành bởi cái này và cái kia (* tự tạo và do người khác tạo-tự tác và tha tác) thì lẽ ra phải có cái khổ được thành tựu bởi sự cộng tác (* tự và tha cọng lại tạo ra khổ). Cái này và cái kia (tự mình và người khác) vẫn còn không thể tạo nên sự thống khổ huống chi là không có nguyên nhân (mà có thể) tạo ra.
Chẳng phải chỉ đề cập đến bốn loại ý nghĩa (* tự tác, tha tác, cọng tác và vô nhân tác) của sự khổ đau đều không thể thành lập mà tất cả vạn vật ngoại thân (bên ngoài) đều cũng không thể thành lập nếu y cứ vào bốn nghĩa trên để quan sát.