Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp Tu Mười Niệm - Ngài Từ Vân Sám Chủ. (Dùng người bận nhiều việc, mỗi ngày tu 10 phút )

07/05/202018:02(Xem: 6620)
Pháp Tu Mười Niệm - Ngài Từ Vân Sám Chủ. (Dùng người bận nhiều việc, mỗi ngày tu 10 phút )

Phat Di Da
Pháp Tu Mười Niệm - Ngài Từ Vân Sám Chủ
.

(Dùng người bận nhiều việc, mỗi ngày tu 10 phút )
Sưu tập: Thích Đạo Thông


 

1. Tịnh pháp giới chơn ngôn: “Úm lam xóa ha” (3 lần)

2. Tịnh tam nghiệp chơn ngôn: “Úm ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ,

                                           đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám” (3 lần)

 

3. Chí  Tâm Đảnh Lễ : Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Tam Thập Lục      

                                    Vạn Ức, Nhất Thập Nhất Vạn, Cửu Thiên Ngũ Bá Đồng

                                   anh Đồng Hiệu A Di Đà Phật. (đọc 3 lần, 3 lạy hoặc 3 xá ).

 

4. Mười niệm là: “Nam Mô A Di Đà Phật(đọc 10 hơi thở)

 

5. Phát nguyện: Ngài Từ Vân Sám Chủ

a). Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính -  Đức Phật A Di Đà.

    Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho,

     Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm,

     Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề -  Cầu sanh Tịnh Độ.

     Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta

    Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu  chẳng đặng sinh

    Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh     

    Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy -

    Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi

    Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung,

    Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,

    Ý không điên đảo - Như vào Thiền định.- Phật và Thánh Chúng

    Tây nâng kim đài - Cùng đến tiếp dẫn - Trong khoảng một niệm  

    Sinh về Cực Lạc - Sen nở thấy Phật - Liền nghe Phật thừa  

    Chóng mở Phật tuệ - Khắp độ chúng sanh - Trọn Bồ Đề nguyện.

 

b).Chúng sanh không số lượng- Thệ nguyện đều độ khắp.

     Phiền não không cùng tận - Thệ nguyện đều dứt sạch.

     Pháp môn không kể xiết - Thệ nguyện đều tu học

     Phật đạo không gì hơn - Thệ nguyện được viên thành. 

 

6. Hồi Hướng:

a. Ngã kim trì niệm A Di Đà Phật

   Tất phát Bồ Đề quảng đại nguyện

  Nguyện ngã định huệ tốc viên minh

  Nguyện ngã công đức giai thành tựu

  Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm

  Nguyện cộng chúng sanh thành Phật đạo.

 

b. Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp

   Giai do vô thỉ tham sân si

   Tùng thân ngữ ý chi sở sinh

    Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.

 

c. Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời

   Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại

   Diện kiến ngã Phật A Di Đà

   Tức đắc vãng sanh Cực Lạc sát.

 

d. Nguyện dĩ thử công đức

   Trang nghiêm Phật Tịnh độ

   Thượng báo tứ trọng ân

   Hạ tế tam đồ khổ

   Nhược hữu kiến văn giả

   Tất phát Bồ Đề Tâm

   Tận thử nhứt báo thân

   Đồng sanh Cực Lạc quốc

   Tận thử nhứt báo thân

   Đồng sanh An Dưỡng quốc.

 “Nam Mô A Di Đà Phật” . (đọc 3 lần, 3 lạy hoặc 3 xá ).



 *Ghi chú:          

1.Đức Phật A Di Đà có lời phát nguyện thứ 18 rằng: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước của tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Ai phát tâm chuyên chấp trì danh hiệu  niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” là người ấy hiện đời tiêu trừ tai nạn, giải oan kết, tăng trưởng phước đức, bảo toàn  tuổi thọ, và nhân duyên thù thắng sinh cõi Cực Lạc, vĩnh viễn an vui, thoát vòng sinh tử luân hồi.

 

2. Mỗi ngày, vào sáng sớm, sau khi mặc áo tràng, hành giả đứng quay mặt hướng Tây, chấp tay và niệm lớn danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật. Hết một hơi là một niệm. Đủ mười hơi như vậy là mười niệm. Chỉ tùy hơi của hành giả dài hay ngắn chứ không giới hạn ở số lượng danh hiệu Phật. Điều quan trọng là duy trì công phu ấy cho dài lâu và lấy lúc hết hơi làm mốc. Tiếng niệm Phật của hành giả không cao thấp, không nhanh chậm. Mục đích của mười niệm là khiến cho tâm hành giả không tán loạn, lấy sự chuyên tinh làm công. Vì thế, gọi là mười niệm tức là nói rõ việc mượn hơi để gom tâm. 

(Long Thư Tăng Quảng Tịnh Độ Văn- Tiến Sĩ Vương Nhật Hưu)






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 6511)
Thời điểm đức Phật vào Niết Bàn tại Câu Thi Na (Kushinaga) rừng Sa La Song Thọ, một số đệ tử Ngài vô cùng thương tiếc muốn tịch diệt theo, thậm chí có một vài đệ tử không nở chứng kiến tình cảnh đó, đành thất lễ mà ra đi trước. Ngược lại cũng có một ít đệ tử vì không uống được giáo pháp giải thoát nên cảm thấy vui hơn là buồn, bởi rồi sẽ không còn ai khiển trách mình nữa!
08/04/2013(Xem: 8208)
Kính lạy đấng Thế Tôn bậc thầy của nhân thiên, bậc siêu việt trên mọi siêu việt, bậc không thể nghĩ bàn, không thể tán thán, không thể ca tụng, xưng dương hết ý được, do vì những lời lẽ ngôn từ tán thán chỉ là ý thức vọng động phân biệt kẹt chấp phạm trù ngôn ngữ thế gian; hay có thể nói bao giờ phàm phu chúng ta có thể hành động, có thể đi vào an định trong giáo pháp của Ngài.
08/04/2013(Xem: 6012)
Dòng tâm thức luôn lăn trôi từng sát na sanh diệt, do đó chúng ta sống trong thế giới hiện tượng này làm sao tránh khỏi tâm viên ý mã, mà nguyên nhân là lý sanh diệt luôn biến dị chi phối , làm cho chúng ta tưởng chừng như có nhiều tâm trong con người. Thật vậy tâm luôn thay đổi qua nhiều tình huống, thăng trầm của tư duy qua sự phát triển của khối óc và căn cơ trình độ.
08/04/2013(Xem: 14526)
Cần thực hành những nghi thức trì tụng kinh Phật, như bài tán lư hương, chơn ngôn tịnh pháp giới, chơn ngôn tịnh khẩu nghiệp, chơn ngôn tịnh ba nghiệp, chơn ngôn phổ cúng dường, bài văn phát nguyện và bài kệ khai kinh.
08/04/2013(Xem: 15223)
Tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta thường đọc những bài tán thán công đức của kinh này để gợi cho chúng ta suy nghĩ về những tinh ba vi diệu của kinh và từ đó phát khởi được niềm tin trong sạch đối với Đức Phật và lời dạy của Ngài, kế tiếp mới đi vào phần nội dung của kinh.
08/04/2013(Xem: 10541)
Hai chữ Kim Cang, nhiều người giải nghĩa dựa trên tính bền chắc sắc bén có thể cắt đứt. Đây là nói phiếm. Nhưng ở Tây Vức có của báu Kim Cang, báu này rất bền chắc chẳng thể hư hoại, lại phá hoại được tất cả vật. Nếu lấy báu này để dụ cho Bát Nhã đoạn trừ được phiền não, thì tuy gần với lý, nhưng đều chẳng phải ý Phật, chỉ là tri kiến theo thói xưa tầm thường.
08/04/2013(Xem: 7178)
Hôm nay, tất cả quí vị đã bỏ nhà để đến chùa góp mặt trong pháp hội này, phải nói đây là một cơ hội thật tốt để chúng ta tạm thời gát qua hết những chuyện đời và quay về sống phản tỉnh đối với bản thân. Nhưng tôi chỉ mới nói rằng quý vị đang có một cơ hội tốt, còn quý vị thì sao? Quý vị có ý thức được mình đang ở đâu và làm gì hay không? Đi vào chùa để vãn cảnh hay để tu học? Nếu để tu học thì quý vị đã bắt đầu chưa? Các vị hãy luôn nhớ rằng, một khi đã chấp nhận con đường tu học thì chúng ta nhất định phải cố gắng thế nào đó để tự khẳng định chính mình. Chúng ta không thể tu học như một hình thức chiếu lệ mà ngược lại phải luôn nhìn về phía trước để nhắm tới những tiến bộ. Chúng ta phải biết tu học một cách có lý tưởng, áp dụng Phật Pháp vào ngay chính đời sống của mình để từng sinh hoạt của bản thân được thực hiện dưới ánh sáng Phật pháp.
08/04/2013(Xem: 17910)
Đại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Đại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Đại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Đại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Đại đức qua Đại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Đại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Đại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Đại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản.
08/04/2013(Xem: 9135)
Mùa hè năm 1996, tôi có dịp sang Canada thuyết giảng và hướng dẫn vài khóa tu học. Một số Phật tử đã thâu băng những buổi giảng và chép ra để làm tài liệu tu tập...
08/04/2013(Xem: 20793)
Đã hơn 3 năm qua,kể từ khi Cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu,bậc Tôn sư của chúng tôi viên tịch, cuốn sách nhỏ này là tập thứ 5 sau 4 tập “Chữ nghiệp trong ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]