Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sở Tri Chướng - Nên Hiểu Thế Nào?

22/10/201819:52(Xem: 5460)
Sở Tri Chướng - Nên Hiểu Thế Nào?

hoasen_3           
 Sở Tri Chướng - Nên Hiểu Thế Nào?
           Lê Tự Hỷ

 

       Nếu chúng ta bỏ chút thì giờ để tìm hiểu “Sở tri chướng” (所知障) là gì? thì trên mạng Internet cho chúng ta kiến giải hoặc của các bậc thầy đáng kính: Hòa thượng, Thiền sư … hay của các chùa, các trung tâm Phật học, trung tâm hoằng pháp.  Chẳng hạn như:
1. Sở Tri Chướng [1]
2. Thế nào là sở tri chướng và phiền não chướng? [2]]
3. Sở tri chướng và phiền não chướng [3]
     Hai bài của Làng Mai
4. Bài tụng 22: Phiền não đoạn [4] http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/duy-bieu-hoc-hieu-su-van-hanh-cua-tam/bai-tung-22-phien-nao-doan?set_language=vi]
5. Sở tri chướng là mắc kẹt vào cái mình biết [5]     Và
6. Bài của Thượng tọa, Tiến sĩ Thích Nhật Từ [Sadi Ngộ Trí Viên phiên tả] [6]

 

    Trong 6 bài này thì 5 bài đầu giải thích “Sở tri chướng” là
   - chỗ biết là chướng ngại
   - trí khôn là chướng ngại
   - tất cả do bộ óc nhận thức được gọi là sở tri chướng
   - sở tri chướng là cái thấy, cái biết gây cản trở không cho mình tiến bộ.
    Như vậy, các ngài hiểu rằng “Sở tri chướng” là cái chướng ngại do những cái hiểu biết có sẵn trong tâm trí của chúng ta tạo ra. Chướng ngại thế nào? thì các ngài giải thích hoặc ở tầm cao siêu là cái thấy biết sẵn đã lấp đầy tâm chúng ta khiến cho “chân tâm” không thể hiện lộ, khiến không thể “kiến tánh” để thành Phật, hoặc ở tầm thực tế, dễ thuyết phục hơn, đó là chúng ta bám chặt vào cái thấy biết của mình, cho những cái thấy biết đó là đúng nên không chịu tiếp thu những cái khác, cái mới, cái ngược lại với cái hiểu biết, cái niềm tin của mình, dù cái mới này có khi lại đúng hơn niềm tin sẵn có của mình, có khi còn là chân lý nữa.
     Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng những cái hiểu biết ấy đều do việc học hoặc từ kinh nghiệm thực tế trong đời sống hoặc do việc học từ sách vở, đặc biệt đối với Phật tử là kinh sách Phật giáo. Từ cách hiểu “Sở tri chướng” này, thì vì Sở tri chướng là cái cản trở đường tu, cho nên người tu theo Phật cần phải loại bỏ Sở tri chướng bằng mọi cách, tìm cách xóa hết, quét sạch hết những cái đã thấy biết, và theo cái đà của kiểu tư duy đó đi đến chỗ cực đoan là không học hỏi, không tìm hiểu gì nữa, không học kinh sách Phật gì nữa…, để đầu óc rỗng rang thì chánh biến tri mới hiện ra, mới có điều kiện để thành Phật! Đây là quan điểm cực đoan của một số trường phái Thiền của Trung Quốc: không học kinh sách, chỉ ngồi thiền “công án” hay thiền “thoại đầu”. Và cũng là quan niệm cực đoan của Tịnh độ: chỉ cần tụng niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật”. Nhưng rõ ràng không học kinh sách Phật, loại bỏ tất cả những kiến giải do chính Đức Phật dạy ra khỏi tâm trí làm sao hiểu biết bốn sự thật cao quí (tứ diệu /thánh đế), làm sao hiểu “bát chánh đạo” và những lời dạy khác của Đức Phật, thì lấy cơ sở nào để phân biệt chánh, tà, hợp Phật pháp hay chống Phật pháp, cho nên không có cách gì tu theo Phật được!.
     Như vậy cách hiểu “Sở tri chướng” là cái trở ngại do cái hiểu biết có sẵn trong tâm trí là không ổn! Vậy nên hiểu thế nào?
    Theo thiển ý của tôi, kiến giải của Thầy Thích Nhật Từ trong bài 6 là hợp lý. Thầy nói : Khi ngộ nhận rằng “sở tri là một chướng ngại”, tức khi cho rằng “cái biết là một trở ngại” thì phải kết thúc cái biết và xem cái biết là kẻ thù. Đó là sai lầm của thiền tông Trung Quốc. Đang khi “sở tri chướng” là một danh từ có nghĩa là “các trở ngại của kiến thức”, hay “các trở ngại của trí tuệ” [7].
   
Và Thầy Thích Nhật Từ có nêu ra “bát nạn” là tám cái trở ngại cho việc nâng cao trí tuệ, là tám cái trong Sở tri chướng. Quí bạn đọc có thể tìm hiểu rõ hơn ý của Thầy Thích Nhật Từ qua địa chỉ trên Internet được ghi lại trong mục số 6. trong phần Tài liệu tham khảo bên dưới đây.

     Ở đây, tôi xin không lặp lại ý của Thầy Nhật Từ nữa, mà bàn thêm một chút về Sở Tri Chướng qua định nghĩa của chữ Phạn.
     Sở tri chướng, nguyên chữ Phạn là “jñeyāvarṇa”. Từ “jñeyāvarṇa” là một danh từ kép gồm hai từ đơn hợp lại: jñeyāvarṇa = jñeya+ āvarṇa (a+ ā = ā); trong đó jñeya là một Tương Lai Phân Từ Thụ Động (FPP: Future Passive Participle) của gốc động từ jñā (IX jānāti) = biết; cho nên jñeya là một tính từ, có nghĩa “nên được biết, phải được học biết, phải được tìm hiểu” và āvarṇa là danh từ giống trung, có nghĩa “cái trở ngại, cái cản trở” [8]. Do đó jñeyāvarṇa là “cái trở ngại cho cái cần phải được biết”. Vậy “sở tri chướng” là “cái trở ngại cho cái cần phải được biết” chứ không phải “cái trở ngại do cái đã biết” như các bài 1, 2, 3, 4, và 5 đã nêu ra.
     Cái “sở tri chướng” (jñeyāvarṇa), cái trở ngại cho cái cần phải được biết do đâu mà ra? Theo trường phái Yogācāra (/ Vijñānavāda) (Du Già Hành Tông (/Duy Thức Tông) và trường phái Madhyamaka (/Mādhyamika) (Trung Quán Tông) thì Sở tri chướng là kết quả từ những hiểu biết sai lạc cơ bản về bản chất của thực tại (nature of reality). Sở tri chướng (jñeyāvarṇa) và Phiền não chướng (kleśāvaraṇa) là hai cái chướng ngại (āvaraṇa) cần phải vượt qua mới có thể hoàn thành “Bồ tát đạo” và đạt “Phật quả”. Cũng theo hai trường phái trên, sở tri chướng được xem như những chướng ngại vi tế hơn, là cội nguồn của phiền não chướng. Bởi vì sự bám víu vào những cái cụ thể hóa từ những hiện tượng bên ngoài thực sự do tưởng tượng tạo ra, mà việc khái niệm hóa và phân biệt phát khởi trong tâm, khiến đưa đến ngạo mạn, vô minh, và tà kiến. Rồi dựa vào những sai lầm này trong nhận thức, con người dấn  mình vào những hành động ô nhiễm, như sân, tham, v.v. là những thứ góp phần tạo ra phiền não chướng. Phiền não chướng (kleśāvaraṇa) có thể được loại trừ bởi các vị tu theo các con đường của Thanh Văn (Śrāvaka), của Duyên Giác Phật (Pratyekabuddha), và của Bồ tác cấp thấp bằng cách áp dụng những phương cách chống gây phiền não. Nếu vượt thắng được phiền não chướng thì con người sẽ thoát khỏi tái sinh lại nữa. Tuy nhiên, chỉ có thể vượt thắng được Sở tri chướng bởi các bậc Bồ tát cấp cao tìm cầu đạt Phật quả, bằng cách hoàn thiện việc am hiểu tánh không (śūnyatā) của các pháp và lòng từ bi (karuṇa) và tích lũy rất nhiều công đức bằng cách dấn thân vào nghĩa vụ của Bồ tát. Do vậy, những vị Phật là lớp duy nhất gồm những chúng sinh đã vượt thắng được cả hai loại: phiền não chướng và sở tri chướng, và đồng thời có thể nhận biết được tất cả mọi đối tượng của nhận thức trong vũ trụ, tức là có được nhất thiết trí (sarvajñatā). Chính vì thế, “jñeyāvarṇa “ (sở tri chướng) còn được hiểu là “chướng ngại cho nhất thiết trí” [9].
      Tóm lại, theo thiển ý của tôi, sở tri chướng là cái chướng ngại cho cái cần phải được biết, chướng ngại cho việc đạt được cái cần phải học biết, chứ không phải là chướng ngại do cái đã học biết. Vì vậy, để loại trừ sở tri chướng không phải là loại bỏ mọi cái đã hiểu biết, loại bỏ việc học tập, loại bỏ việc tìm hiểu kinh sách Phật, mà trái lại cần phải tiếp tục học và thực hành những gì đức Phật dạy được ghi lại trong kinh sách, nhưng với cung cách không xem những thứ ấy là cứu cánh, khư khư ôm giữ lấy, mà chỉ xem chúng như là những phương tiện để học tập và thực hành ở tầm càng ngày càng cao hơn.

                                                                     Lê Tự Hỷ (19/10/2018)
Tài liệu tham khảo
1 https://thuvienhoasen.org/a4168/bien-kien-va-so-tri-chuong-xin-giai-thich-cho-toi-biet-ro-ve-hai-tu-nay
2. https://phatgiaolongan.org/the-nao-la-so-tri-chuong-va-phien-nao-chuong/ 
3. https://sachtgminhthanh.wordpress.com/2017/12/26/so-tri-chuong-va-phien-nao-chuong/
4. http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/duy-bieu-hoc-hieu-su-van-hanh-cua-tam/bai-tung-22-phien-nao-doan?set_language=vi
5. https://khongdenkhongdi.blogspot.com/2014/05/so-tri-chuong-la-mac-ket-vao-cai-minh.html
6. Nguồn: https://youtu.be/tpeenj6dVt0; https://thuvienhoasen.org/a29150/khai-niem-so-tri-chuong-va-vo-su-tri
7. Như  6.
8. Monier Williams Online Dictionary, http://www.sanskrit-lexicon.uni-koeln.de/monier/
9. Robert E. Buswell Jr. & Donald S. Lopez Jr., The Princeton Dictionary of Buddhism, Princeton University Press, 2014, p. 398; pp. 83-84
                        ------------------------  
    

 

 

  

  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/04/2012(Xem: 10057)
Ban cho với lòng vị tha có ý nghĩa rèn luyện từ chiều sâu của trái tim trong một thái độ rộng lượng chẳng hạn mà chúng ta không tìm cầu bất cứ một phần thưởng hay kết quả nào cho chính mình. Hãy nghĩ về hành vi từ thiện và tất cả những lợi ích của nó như chỉ hướng đến lợi ích của người khác. Mặc dù từ thiện có thể được tiến hành bởi những ai tìm kiếm lợi ích cho chính họ, chẳng hạn như ai đấy hiến tặng từ thiện nhằm để trở nên nổi tiếng, bố thí vị tha hoàn toàn không liên hệ đến lòng vị kỷ.
18/04/2012(Xem: 5828)
Giống như năm yếu tố của môi trường vật chất - không, đất, nước, lửa, và gió - là vô giới hạn, vì thế chúng sinh mà con người vị tha tìm cầu để hướng dẫn ra khỏi khổ đau tới thể trạng giác ngộ là vô giới hạn trong con số. Sức mạnh trái tim của Bồ tát là như thế, các ngài cam kết với nhiệm vụ này trong việc hổ trợ tất cả chúng sinh - mà không có bất cứ giới hạn nào của thân hay thù, quốc gia hay chủng tộc - từ mỗi một loại khổ đau.
18/04/2012(Xem: 5281)
Một khi đã phát sinh thái độ vị tha đặc biệt là tự chúng ta phải mang đến lợi ích cho tất cả chúng sinh bằng việc giải thoát họ khỏi khổ đau và nổi kết họ với hạnh phúc, chúng ta phải lượng định chúng ta có khả năng để hoàn thành điều này hay không trong tình trạng hiện tại. Hầu hết chúng ta thường sẽ quyết định rằng chúng ta không có. Thế thì tiến hành như thế nào?
14/04/2012(Xem: 5395)
Cùng với từ ái, bi mẫn là khuôn mặt của lòng vị tha. Đấy là một cảm giác từ chiều sâu của trái tim mà chúng ta không chịu đựng nổi khổ đau của người khác mà không hành động để giải thoát. Khi bi mẫn được lớn mạnh hơn, ý chí của chúng ta cũng lớn lên tương ứng để chính mình cố gắng vì ợi ích của tất cả chúng sinh, ngay cả nếu ta phải làm việc ấy đơn độc.
13/04/2012(Xem: 14735)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
12/04/2012(Xem: 4000)
Về nhà chỉ có một lối, nhưng phương tiện thì có nhiều ngã. Đức Phật dạy có nhiều pháp môn tu, nhưng chuyên tu một pháp nào cũng đều được liễu ngộ cả.
12/04/2012(Xem: 5441)
Phật Pháp Cao Siêu Khó Nghĩ Bàn Là Người Học Đạo Lắm Gian Nan Siêng Tu Tịnh độ Đúng Chân Lý Quyết Được Vãng Sanh Đến Lạc Bang. Ánh hào quang của Đấng Điều Ngự Thích Ca Mâu Ni tỏa ra vô vàng tia sáng chiếu khắp vũ trụ nhân sinh. Lúc ấy đã biểu hiện được lòng từ bi bao la của Đức Phật, xoa dịu bao vết đau thương của tất cả chúng sanh và ban nguồn an vui bất tận cho muôn loài. Giáo lý của Đức Thế Tôn quả là cao siêu tuyệt diệu, có đủ năng lực đưa người từ bến mê sang bờ giác, từ sanh tử đến quả vị Niết bàn an vui tự tại, nếu ai thực hiện tu theo giáo pháp của Ngài đã thuyết.
07/04/2012(Xem: 5196)
Lời Khai Thị Của Ấn Quang Đại Sư Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành tựu việc tốt cho người. Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không để gián đoạn: hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm. Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương. Chỉ nên chăm sóc việc nhà mình, đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dạng tốt đẹp, đừng để mắt tới những hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người đều là Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu. Nếu quả có thể tu hành được như những đ
06/04/2012(Xem: 6975)
Chúng ta phải biết rằng: Nếu người học đạo mà chưa hiểu thấu rõ cái nguồn cội của tự tâm và vạn pháp thì không thể nào rời Phật ra được.
06/04/2012(Xem: 3849)
Người niệm Phật mà được sự hộ niệm của chư Phật, nhiếp trì nguyện lực của Phật A Di Đà thì lúc mạng chung vào thẳng ngôi bất thoái, tự giác tiến tu thẳng đến thành Phật. Kinh A Di Đà nói: “Những chúng sinh sinh lên nước ta đều là bất thoái chuyển, trong số đó có rất nhiều người một đời được bổ xứ làm Phật, số ấy rất nhiều, không thể tính đếm hết được”. Suy xét câu một đời được bổ xứ thành Phật, tức là thân sau chót, như vậy há không phải một đời tức được thành Phật sao?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]